Luận văn Thạc sĩ Luật học: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự
lượt xem 5
download
Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn, tìm ra những bất cập, những hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của về hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự để từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ KIM CÚC §Þa vÞ ph¸p lý cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ KIM CÚC §Þa vÞ ph¸p lý cña Héi thÈm trong tè tông h×nh sù Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung khoa học của Luận văn này. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Trần Thị Kim Cúc
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 4 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: ......................................... 5 5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5 6. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................... 5 7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 6 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ......................................................... 7 1.1. Những khái niệm có liên quan ................................................................ 7 1.1.1. Khái niệm hội thẩm ............................................................................ 7 1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự .......... 11 1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................. 14 1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988) ................................................................................................... 14 1.2.2. Giai đoạn 1988 đến nay.................................................................... 21 1.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự ........................................................................... 25 1.3.1 Vị trí, vai trò và ý nghĩa của chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự ................................................................................................................ 25 1.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của hội thẩm khi tham gia tố tụng hình sự .............................................................. 27
- Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT ................................................. 37 2.1. Thực tiễn thi hành những qui định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của Hội thẩm ......................................................................... 37 2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện qui định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm ....................................................................... 37 2.1.2. Những tồn tại, thiếu sót của Hội thẩm trong thực hiện địa vị pháp lý khi tham gia xét xử ................................................................................. 45 2.1.3. Nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu sót khi thực hiện địa vị pháp lý của Hội thẩm ................................................................................. 57 2.2. Những đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự .................................................................................... 66 2.2.1. Cần nhận thức đúng về vai trò của Hội thẩm tham gia cùng Thẩm phán Tòa án xét xử vụ án hình sự .............................................................. 66 2.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến nâng cao địa vị pháp lý của Hội thẩm .......................................................................................... 71 2.2.3. Những đề xuất, kiến nghị khác liên quan đến Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án hình sự .................................................................... 76 KẾT LUẬN .................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự BLHS : Bộ luật hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử TPHCM : Thành phố Hồ Chí Minh
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hoạt động tố tụng hình sự, xét xử là giai đoạn cuối cùng để giải quyết một vụ án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng. Bằng hoạt động xét xử của mình, Tòa án thay mặt Nhà nước đưa ra phán quyết đối với mỗi vụ án. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội và quyết định hình phạt đối với một con người. Không ai có thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc xét xử của Tòa án được thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và các Hội thẩm. Thẩm phán và các Hội thẩm là những người được Nhà nước trao cho quyền thay mặt Nhà nước đưa ra bản án, quyết định đối với vụ án hình sự. Việc ra bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải đảm bảo khách quan, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không được bỏ lọt tội phạm. Bản án, quyết định hình sự của Hội đồng xét xử không chỉ liên quan đến quyền sống, quyền tự do hay sinh mệnh chính trị của mỗi cá nhân trong xã hội mà nó còn có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm là những thành viên không thể thiếu được trong hoạt động xét xử của mỗi vụ án. Hiến pháp năm 1992 quy định “Việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán” [25, Điều 129]. Hiến pháp 2013 cũng quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” [28, Điều 103]. Sự tham gia của Hội thẩm thể hiện sự tham gia của nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử nhằm nói lên tiếng nói của nhân dân đối với mỗi sự kiện pháp lý, đồng thời họ còn là những người giám sát hoạt động xét xử của Tòa án. Vì vậy vị trí, vai trò của Hội thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự là rất quan trọng. 1
- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định “Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn.” Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng ghi rõ: “ Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”. Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: “ Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Bộ luật tố tụng hình sự được xây dựng theo hướng mở rộng dân chủ, tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, đề cao tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng. Vai trò của luật sư cũng được nâng cao và tôn trọng hơn. Đối với hoạt động của Hội đồng xét xử, Bộ luật cũng có những quy định rõ rang hơn về quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong hoạt động tố tụng. Trình tự thủ tục ra bản án, quyết định của Tòa án. Bên cạnh đó, việc ra bản án, quyết định của Tòa án ngày càng được chú trọng đi vào chiều sâu, khắc phục được nhiều tình trạng chủ quan duy ý chí, dựa vào hồ sơ khi ra phán quyết, hạn chế được tình trạng oan, sai trong hoạt đông tố tụng… Tuy vậy BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những thiếu sót và hạn chế như một số nội dung quy định chưa rõ ràng, có những quy định chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Hội thẩm, chưa quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của 2
- nhưng người tiến hành tố tụng. Mặt khác, trong những năm qua chất lượng đào tạo của Thẩm phán, Thư ký đã được quan tâm nhưng đội ngũ Hội thẩm chưa được quan tâm đúng mức. Trong công tác xét xử vai trò của Hội thẩm là rất lớn và bắt buộc có( Trong hoạt động xét xử sơ thẩm). Do vậy, cần quan tâm đúng mức hơn mà cụ thể là cần có những quy định pháp luật để giải quyết tốt vấn đề chất lượng của Hội thẩm. Nghiên cứu về chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự nhằm làm rõ khái niệm, vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự; Thực trạng hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự hiện nay; Xu hướng cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan đến chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự là một việc làm rất cần thiết. Việc nghiên cứu phải được tiến hành một cách nghiêm túc, có hệ thống nhằm làm rõ những yếu tố tích cực của chế định này, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế trong các quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn hoạt động. Từ đó đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Vì vậy tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự” để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước tới nay đã có một số luận văn, luận án nghiên cứu về địa vị pháp lý của những chủ thể khác trong tố tụng hình sự như Thẩm phán, Kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư… nhưng chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự từ năm 2003 đến nay. Cũng đã có một số tài liệu, bài viết về tiêu chuẩn của Hôi thẩm, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm. Tuy nhiên các tài liệu, bài viết này thường chỉ nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm theo pháp luật nói chung. Không tập trung vào nghiên cứu về quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong 3
- tố tụng hình sự. Chưa có luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ nào nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố tụng hình sự sau khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành và cũng chưa làm rõ được vị trí, vai trò của Hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự là rất cần thiết, nhằm làm rõ vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Luận văn cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định đó trong thực tiễn, tìm ra những bất cập, những hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của về hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự để từ đó đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự về chế định này. - Nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong hoạt động tố tụng hình sự. - Tìm ra những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật có liên quan đến đối tượng nghiên cứu và từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội 4
- thẩm trong tố tụng hình sự. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định Hội thẩm. Tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm; cũng như nghiên cứu thực trạng hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự hiện nay; xu hướng cải cách tư pháp và những vấn đề liên quan đến chế định Hội thẩm trong tố tụng hình sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu địa vị pháp lý của Hội thẩm qua các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và qua thực tiễn áp dụng các quy định đấy. Tập trung làm rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm trong quá trình xét xử các vụ án hình sự. Luận văn không nghiên cứu hội thẩm nhân dân trong các hoạt động tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn dựa trên quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh. Phương pháp nghiên cứu cụ thể là các phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê để làm rõ những vấn đề của đối tượng nghiên cứu. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn làm rõ khái niệm về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Luận văn sẽ phân tích về vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của Hội thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng áp dụng những quy định đó và chỉ ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật hiện 5
- tại từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Vì vậy, luận văn có cả ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào hệ thống lý luận luật tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những người nghiên cứu, những người làm công tác xây dựng pháp luật, làm công tác thực tiễn và học tập về những kiến thức pháp luật có liên quan. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có hai chương như sau: Chương 1: Những vấn đề chung về địa vị pháp lý của Hội thẩm trong tố tụng hình sự. Chương 2: Thực tiễn thực thi những quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Hội thẩm và các kiến nghị, đề xuất. 6
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Những khái niệm có liên quan 1.1.1. Khái niệm hội thẩm Nghiên cứu các cuốn từ điển ở trong và ngoài nước (bao gồm cả từ điển thông dụng và từ điển pháp lý chuyên ngành) có thể rút ra một nhận xét tương đối khái quát là: trong ngôn ngữ tiếng Việt, khái niệm “hội thẩm” có thể được diễn đạt bằng nhiều từ khác nhau (hội thẩm, phụ thẩm, bồi thẩm). Ngược lại, trong tiếng nước ngoài, từ “hội thẩm” (assesseur) là được sử dụng như một từ đa nghĩa với nhiều cách hiểu khác nhau, nhiều nghĩa khác nhau rất phức tạp. Điều này có nghĩa là: người Việt dùng nhiều từ để diễn đạt một khái niệm trong khi người nước ngoài sử dụng một từ để chỉ nhiều khái niệm (nhiều nghĩa hoàn toàn khác nhau). Có thể thấy rõ hiện tượng này qua một số cuốn từ điển cụ thể dưới đây. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam thì “hội thẩm” được hiểu là: “đại biểu nhân dân cùng ngồi xử án với các thẩm phán” [46, tr.461]. Cũng theo Từ điển này, “bồi thẩm” là “thẩm phán cùng ngồi xét xử với chánh án trong một phiên tòa”. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp thì “hội thẩm nhân dân” là “Người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án” [44, tr.387]. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh không đưa ra định nghĩa “hội thẩm” song có giải thích nghĩa riêng rẽ của hai từ Hán Việt là “Hội” và “Thẩm”. Từ “Hội” có nghĩa là: “Họp nhau - Cơ quan có nhiều người họp để làm việc - Gặp - Ý tứ và sự lý hợp nhau - Bản lĩnh và sự tình hợp nhau” [2, tr.184]. Còn từ “Thẩm” 7
- được hiểu là “Biết rõ tình hình - Khảo xét kỹ càng - Xử đoán”. Căn cứ vào nghĩa của từng từ riêng rẽ, có thể hiểu “hội thẩm” là người thấu suốt tình lý tham gia vào việc xử án. Điểm đáng lưu ý là, mặc dù không định nghĩa về “hội thẩm” nhưng Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh lại giải thích về bồi thẩm và chế độ bồi thẩm. Theo ông Đào Duy Anh, “Bồi” là: “Theo cho có bạn - Giúp thêm - Làm tôi - Ở hai bên người khác” và “Bồi thẩm” là “Những người do công dân cử lên để tham dự vào việc thẩm phán ở Pháp đình”. Còn “Bồi thẩm chế độ” là “Khi Pháp viện xét án dân sự, trừ pháp quan còn có những người do công dân hợp cách cử ra để thẩm tra tình hình sự thực, pháp quan cứ theo quyết nghị của mấy người ấy để phán quyết. Mấy người ấy gọi là bồi thẩm. Chế độ ấy thịnh hành nhất ở Anh và Mỹ” [2, tr.35]. Trong các cuốn từ điển ở Việt Nam hiện nay, không thấy có Từ điển nào giải thích thuật ngữ “phụ thẩm”. Tuy nhiên, khái niệm “phụ thẩm” được sử dụng rất phổ biến trong các văn bản pháp luật ban hành trước năm 1950 như Sắc lệnh số 13/SL, Sắc lệnh số 33/SL và trong cả bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946. Nghiên cứu tài liệu nước ngoài đề cập đến vấn đề hội thẩm, trước hết cần chú ý đến Cuốn sách Thuật ngữ pháp lý phổ thông (tập I) do tập thể các nhà khoa học pháp lý Xô viết như I.A. Azovkin và các tác giả khác viết, Nhà xuất bản “Sách pháp lý” xuất bản năm 1973, được dịch và công bố ở Việt Nam vào năm 1986. Theo các tác giả của cuốn sách này ở mục “Hội thẩm nhân dân” thì: “Việc xét xử các vụ án tại các tòa án cấp sơ thẩm do một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân tiến hành. Công dân Liên xô có quyền bầu cử và đủ 25 tuổi có thể được bầu làm hội thẩm nhân dân”. Với cách tiếp cận này, có thể thấy chế định hội thẩm ở Liên xô (trước đây) cũng tương tự như ở nước ta hiện nay. 8
- Mở rộng nguồn tài liệu nghiên cứu sang các tài liệu khoa học pháp lý phương Tây, Từ điển pháp lý (dictionnaire juridique) của Pháp định nghĩa: Trong ngôn ngữ pháp lý tố tụng, thuật ngữ Hội thẩm (Assesseur) được sử dụng để chỉ những người có thẩm quyền, thành lập và hoạt động theo thể thức tập thể, hỗ trợ thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Thuật ngữ nói trên cũng còn được dùng để chỉ tất cả những người nào tham gia vào việc đưa ra các quyết định (phán quyết), bao gồm cả những thành viên không chuyên nghề xét xử trong một số thiết chế tư pháp như Tòa án Thương mại, Tòa án về những vụ việc liên quan đến an sinh xã hội hay Tòa án về những vấn đề nông thôn. Từ điển Larousse giải thích nguồn gốc từ Hội thẩm (Assesseur) trong tiếng Pháp bắt nguồn từ thuật ngữ “Assessor” của tiếng La tinh, có nghĩa là “giúp đỡ hoặc đưa ra lời khuyên”. Các tác giả Từ điển Larousse cho rằng từ “Hội thẩm” (Assesseur) trong tiếng Pháp có 4 nghĩa sau đây: 1) Là thẩm phán giúp đỡ, hỗ trợ chủ tọa phiên tòa và nghị án cùng với ông ta; 2) Là danh từ dùng để chỉ thành viên của một số thiết chế tư pháp đặc biệt (như Tòa án về những vấn đề nông thôn hay Tòa thương mại liên quan đến các giao thương trên biển) hoặc thành viên của các văn phòng bầu cử quốc gia; 3) Dưới thời đế chế La Mã thống trị, hội thẩm (Assesseur) là những luật gia cố vấn có nhiệm vụ hỗ trợ về mặt pháp lý cho các thẩm phán ra phán quyết; 4) Trong chế độ cũ (trước cách mạng 1789 ở Pháp), hội thẩm là những người giúp đỡ cho người đứng đầu các tổ chức tư pháp hoặc là những nhân viên tư pháp tham dự hoạt động xét xử với các thẩm phán trong các phiên tòa hình sự. Theo Từ điển phổ thông wikipedia.org trên mạng Internet thì: Hội thẩm (Assesseur) là người ngồi bên cạnh một người khác để giúp đỡ người này thực hiện chức năng, nhiệm vụ của họ và bổ sung, hỗ trợ họ khi thấy cần thiết. Trong các quy định pháp luật, hội thẩm là người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp có chức năng hỗ trợ cho thẩm phán. Ở một nghĩa khác, 9
- thuật ngữ Assesseur (Hội thẩm) còn được dùng để chỉ những người có nhiệm vụ bảo đảm cho các cuộc bầu cử diễn ra suôn sẻ, nhất là trong việc kiểm tra tư cách cử tri hoặc tính hợp pháp của cuộc bầu cử. Ở Thụy Sĩ, người ta còn gọi là Assesseur (Hội thẩm) những người là thành viên không giữ chức vụ chủ tịch, thư ký hay kế toán trưởng trong cơ quan điều hành của các tổ chức xã hội. Từ những điều đã trình bày trên, có thể thấy, ở nước ta, chế định Hội thẩm chính thức chỉ xuất hiện từ năm 1945 trở lại đây với hai tên gọi thay thế nhau theo thời gian là “phụ thẩm” và “hội thẩm”. Có thể nói “phụ thẩm” và “hội thẩm” là hai thuật ngữ tương đương ngang nghĩa nhau song khái niệm “phụ thẩm” được sử dụng trước năm 1950. Từ năm 1950 đến nay, chúng ta thống nhất dùng thuật ngữ “hội thẩm”. So sánh với quan niệm của các nhà khoa học pháp lý Liên Xô trước đây, có thể thấy quan niệm của giới nghiên cứu luật học Việt Nam về “hội thẩm” chịu ảnh hưởng của trường phái pháp luật Xô viết. Mặt khác, sự tham gia của hội thẩm nhân dân trong xét xử làm tăng cường tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án. Hội thẩm nhân dân là những người được Hội đồng nhân dân cùng cấp tín nhiệm bầu ra, thay mặt cho nhân dân tham gia hoạt động xét xử các vụ án sơ thẩm, đảm bảo cho hoạt động xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Sự tham gia của Hội thẩm trong xét xử vụ án tại Tòa án thể hiện sự tham gia của nhân dân vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Thông qua hoạt động xét xử các vụ án của Hội thẩm nhân dân cùng với Thẩm phán chuyên nghiệp, để nhân dân tham gia vào công việc của Nhà nước và xã hội, góp phần quan trọng trong việc đảm bảo các bản án của Tòa án tuyên chính xác, khách quan, phù hợp với lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Mặt khác, Hội thẩm là người sinh sống trong các cụm dân cư, làm việc trong cơ quan, xí nghiệp trường học, đơn 10
- vị sản xuất… là người có kinh nghiệm hoạt động xã hội, có mối quan hệ khá rộng với nhiều tầng lớp dân cư, nên có khả năng hiểu đặc điểm, hoàn cảnh, tâm lý của người vi phạm pháp luật nói chung, người phạm tội nói riêng, từ đó giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm. Thông qua hoạt động của Hội thẩm nhân dân, Tòa án có điều kiện nắm bắt ý kiến quần chúng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án; giúp quần chúng nhân dân hiểu rõ về hoạt động của Tòa án nói chung, hoạt động xét xử nói riêng. Quần chúng nhân dân được nâng cao ý thức pháp luật, tự giác chấp hành và bảo vệ pháp luật. Hội thẩm nhân dân còn góp phần tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung, kết quả xét xử các vụ án cho quần chúng nhân dân nói riêng Là những người cùng sinh sống, làm việc trong các cụm dân cư, các đơn vị sản xuất, các cơ quan hành chính, sự nghiệp; người có sự hiểu biết pháp luật nhất định. Sau mỗi phiên tòa, Hội thẩm nhân dân trở về với dân cư nơi sinh sống và nơi làm việc, nên Hội thẩm nhân dân có điều kiện phổ biến pháp luật và kết quả xét xử vụ án của Tòa án cho quần chúng nhân dân [11]. Như vậy, hội thẩm là người đại diện của nhân dân, được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để cùng thẩm phán thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án để giúp Tòa án giải quyết vụ án kịp thời và đúng đắn, phù hợp nguyện vọng quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp trong xã hội cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm. 1.1.2. Khái niệm địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì “địa vị” là: “Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít” [46, tr.321]. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin về con người cho rằng con người là một thực thể thống nhất giữa cái tâm sinh lý và cái xã hội. Sự tồn tại của con người không tách được khỏi môi trường xã hội và xét về bản chất 11
- thì con người (ở nghĩa cá nhân) là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Tính đa dạng trong quan hệ xã hội của mỗi người tạo nên địa vị xã hội của họ. Xét ở một khía cạnh nào đó, địa vi pháp lý cũng là một bộ phận nằm trong địa vị xã hội của con người, xác định vị trí của con người trong mối quan hệ với những người khác. Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý trực thuộc Bộ Tư pháp định nghĩa địa vị pháp lý là: Vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Ví dụ: địa vị pháp lý cơ bản của công dân được thể hiện thành tổng thể các quyền và nghĩa vụ của công dân được hiến pháp và pháp luật quy định. Một sự kiện pháp lý như chết, thương tích do tai nạn…, một hành vi pháp lý như mua, bán, tặng, cho, để lại thừa kế tạo ra một loạt quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm… cho một chủ thể nhất định. Thông qua địa vị pháp lý, có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật [44]. Như vậy, “địa vị pháp lý” luôn gắn với chủ thể quan hệ pháp luật. Khi đề cập đến “địa vị pháp lý” là nói về quyền và nghĩa vụ của một chủ thể quan hệ pháp luật cụ thể, không có địa vị pháp lý chung chung. Đời sống xã hội phức tạp và đa dạng làm nảy sinh vô vàn các quan hệ chồng chéo, phức tạp, muôn hình vạn trạng. Tham gia vào các quan hệ xã hội đó, mỗi người (bao gồm cả cá nhân, tổ chức) đều có những lợi ích riêng. Lợi ích của các chủ thể quan hệ xã xã hội có thể cùng chiều, thống nhất với nhau nhưng cũng có thể mâu thuẫn, xung đột với nhau. Để sự mâu thuẫn, xung đột 12
- về mặt lợi ích không phá hoại sự ổn định xã hội, cần phải có sự điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau: quy pháp đạo đức, tôn giáo, quy phạm của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và quy phạm pháp luật. Các quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của quy phạm pháp luật được gọi là quy phạm pháp luật và các bên tham gia vào quan hệ pháp luật được gọi là chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể quan hệ pháp luật luôn là những cá nhân, tổ chức cụ thể. Vị trí của cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật trong mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức khác được gọi là địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức đó. Địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức không tách rời khỏi cá nhân, tổ chức khi tham gia các quan hệ pháp luật. Và ngược lại, chính qua địa vị pháp lý của cá nhân, tổ chức thì cá nhân, tổ chức mới tồn tại với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật. Hay nói cách khác, địa vi pháp lý của một cá nhân, tổ chức có được là do pháp luật trao cho họ. Đây là điểm khác biệt quan trong giữa địa vị pháp lý với địa vị xã hội nói chung. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua việc thiết lập nên các quy tắc, mô hình hành vi chuẩn, hay nói cách khác, pháp luật đưa ra các quy tắc xử sự chung buộc mọi người phải tuân theo. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các chủ thể pháp luật. Toàn bộ những quyền, nghĩa vụ pháp lý đó tạo thành địa vị pháp lý của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật mà quy phạm pháp luật điều chỉnh. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật là do Nhà nước, qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo nên, thể hiện ở tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật quy định cho các chủ thể đó. Trong quan hệ pháp luật, tương ứng với quyền pháp lý của chủ thể pháp luật này là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể pháp luật khác. Lý luận nhà nước và pháp luật xác định: nghĩa vụ pháp lý của chủ thể quan hệ pháp luật là hành vi xử sự bắt buộc mà quy phạm pháp luật quy định trước mà một bên 13
- của quan hệ pháp luật đó phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của các chủ thể khác. Khác với quyền pháp lý, nghĩa vụ pháp lý không phải là khả năng xử sự mà là sự cần thiết phải xử sự của chủ thể quan hệ pháp luật. Như phần trên đã trình bày, hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án, nên địa vị pháp lý của hội thẩm và quyền và nghĩa vụ của hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ xét xử. Hội thẩm, khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự có những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản pháp luật có liên quan. Bản chất địa vị pháp lý của hội thẩm là các quyền pháp lý và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của hội thẩm khi tham gia vào quan hệ tố tụng hình sự do pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh. Cho nên, có thể hiểu: Địa vị pháp lý của hội thẩm trong tố tụng hình sự là nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của hội thẩm trong mối quan hệ với Tòa án để cùng thẩm phán thực hiện chức năng xét xử vụ án hình sự nhằm đưa ra được những quyết định trong bản án hình sự phù hợp với những quy định của pháp luật hiện hành 1.2. Sơ lược quá trình hình thành, phát triển quy định Hội thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1987 (trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988) Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công (tháng 8/1945), trong những năm tháng đầu tiên sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực. Nền kinh tế đất nước rất nghèo nàn, lạc hậu, vừa trải qua nạn đói năm 1945; người dân không có việc làm; chế độ tài chính kiệt quệ, hầu như không có gì phải kêu gọi nhân dân ủng hộ tiền, vàng cho cách mạng; trình độ 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn