Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
lượt xem 8
download
Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách khoa học và có căn cứ một số vấn đề có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản để qua đó có được cái nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ QUÝ §åNG PH¹M TRONG TéI TRéM C¾P TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ Giang) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ QUÝ §åNG PH¹M TRONG TéI TRéM C¾P TµI S¶N THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh Hµ Giang) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN KHẮC HẢI HÀ NỘI - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Quý
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................ 8 1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản .................................... 8 1.1.1. Khái niệm đồng phạm.................................................................................... 8 1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản ....................................................................... 9 1.1.3. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ........................................ 11 1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................................ 13 1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ....................................... 13 1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ............................. 16 1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ........................................... 19 1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm ................................. 20 1.3. Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản.......................................................................................... 21 Chương 2: THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN CÓ ĐỒNG PHẠM TẠI HÀ GIANG ........................................................................... 29 2.1. Một vài nét về tình hình kinh tế chính trị ảnh hưởng tới diễn biến tội trộm cắp tài sản có đồng phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang............ 29 2.2. Tình hình giải quyết và những kết quả đạt được trong công tác xét xử các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang ........... 31 2.3. Một số tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang .................................................. 47
- 2.4. Một số nguyên nhân của tồn tại, hạn chế ảnh hưởng đến thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang ........................ 68 2.4.1. Nguyên nhân về pháp luật ........................................................................... 68 2.4.2. Nguyên nhân về áp dụng pháp luật ............................................................. 76 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ ĐỒNG PHẠM ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN .............................................................................. 79 3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội trộm cắp tài sản.......................................................................................... 79 3.2. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của BLHS Việt Nam về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản ....................................... 88 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 96
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Toà án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự UBND: Ủy ban nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm cắp tài sản từ năm 2010 -2015 trên địa bàn tỉnh Hà Giang 32 Bảng 2.2. Bảng so sánh các vụ án xét xử sơ thẩm đối với tội trộm cắp tài sản có đồng phạm từ năm 2010 -2015 trên địa bàn tỉnh Hà Giang 34 Bảng 2.3. Bảng những loại người đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản 36 Bảng 2.4. Bảng áp dụng hình phạt đối với các bị cáo đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản 39 Bảng 2.5. Bảng kết quả xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo trong các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm 44
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trộm cắp tài sản là tội rất phổ biến trên địa bàn cả nước, trong đó có tỉnh Hà Giang. Trộm cắp tài sản có thể do một người thực hiện, cũng có thể do nhiều người thực hiện. Khi tội trộm cắp tài sản có sự tham gia thực hiện bởi nhiều người và những hành vi này có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản nói riêng là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng người tham gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện). So với tội trộm cắp tài sản do một người thực hiện, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản thường nguy hiểm hơn vì khi một nhóm người cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện, phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có một số điểm khác với những trường hợp phạm tội trộm cắp do một cá nhân thực hiện. Trong khoa học Luật hình sự, căn cứ vào các đặc điểm về mặt chủ quan và khách quan của tội trộm cắp tài sản, đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản có thể chia ra nhiều hình thức: đồng phạm có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản, đồng phạm không có thông mưu trước trong tội trộm cắp tài sản; đồng phạm giản đơn trong tội trộm cắp tài sản và đồng phạm phức tạp trong tội trộm cắp tài sản. Ngoài ra còn có một trường hợp đặc biệt về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, đó là trộm cắp tài sản có tổ chức. Trong các hình thức đồng phạm trộm cắp tài sản thì chỉ trộm cắp tài sản có tổ chức là tình tiết tăng nặng và tình tiết định khung hình phạt. Chỉ trên cơ sở nắm vững về các vấn đề lý luận như hình thức đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, đặc điểm đồng phạm trộm cắp tài sản, cũng như hiểu sâu sắc các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về đồng 1
- phạm và tội trộm cắp tài sản thì mới vận dụng tốt khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm. Tuy nhiên thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử cho thấy nhận thức về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản hiện nay chưa được thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến trái ngược nhau. Những ý kiến khác nhau này đã gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm. Do quy định của pháp luật về chế định đồng phạm chưa được hoàn thiện, nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản còn hạn chế nên việc phân định giữa các hình thức đồng phạm, xác định vai trò, tính chất, mức độ tham gia của từng người đồng phạm còn chưa thống nhất, chính xác, ảnh hưởng đến công tác xét xử của một số Tòa án tại tỉnh Hà Giang. Những tồn tại, hạn chế này còn do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan, song việc xác định, đánh giá đồng phạm trong các vụ án trộm cắp tài sản thiếu chính xác sẽ dẫn đến việc định tội danh, phân hóa trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt đối với các người đồng phạm nhiều khi bị đánh đồng, chưa lượng hóa được hình phạt phù hợp với vai trò và các tình tiết của vụ án đối với họ. Những luận điểm nêu trên đã chứng tỏ lý do nghiên cứu đề tài “Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam” (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang) là quan trọng và cấp thiết trong việc hoàn thiện và áp dụng đúng pháp luật hình sự nhằm bảo đảm xét xử vụ án hình sự được nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu Đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là những vấn đề có nội dung phong phú và phức tạp được các luật gia và các nhà nghiên cứu luật quan tâm chú ý và đề cập đến trong những công trình nghiên cứu của mình dưới góc độ luật hình sự, tội phạm học hoặc xã hội học pháp luật. Hiện nay, ở nước ta có rất nhiều cách tiếp cận, nghiên cứu vấn đề đồng phạm nói chung và đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản nói riêng dưới các góc độ khác nhau ở mức chuyên sâu hoặc khái quát hóa đã được công bố trên các sách, tạp chí, luận văn luận án, nhưng tựu chung lại thì các nghiên 2
- cứu chủ yếu theo ba xu hướng đó là: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: tiếp cận dưới góc độ tội phạm học, luật hình sự và theo sự xuất hiện các vấn đề mới của xã hội. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Lê Văn Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS.Trần Quang Tiệp (2007), Đồng phạm trong luật Hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội; Đặng Xuân Mai (1989), Làm gì để phòng chống tội phạm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 phần các tội phạm, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2001), Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh;Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (1993), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Văn Hảo (1962), Bộ luật hình sự Việt Nam, Bộ Tư Pháp, Sài Gòn; Phạm Văn Beo (2009), Luật hình sự Việt Nam, (Quyển I – Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội… Ngoài ra, còn phải kể đến một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ Luật học chuyên ngành Tư pháp hình sự nghiên cứu có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản như: Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội; Lê Thị Khanh (2002), Đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội; Phí Thành Trung (2010), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội; Trần Thị Phương 3
- (2011), Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại Học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội… và một số bài viết, nghiên cứu khác có liên quan như: Lê Văn Cảm (2005) “Những vấn đề lý luận về bốn yếu tố cấu thành tội phạm”, Tạp chí TAND; Lê Thúy Phượng (1999), “Vấn đề định lượng tài sản bị chiếm đoạt trong bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí TAND; Lê Thị Sơn (2004), “Về dấu hiệu định lượng trong BLHS”, Tạp chí luật học; Bùi Đăng Hiếu (2005), “Tiền một loại tài sản trong quan hệ pháp luật hình sự”, Tạp chí Luật học; Bộ Tư pháp (1998),“Luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề; TS.Nguyễn Khắc Hải (2007) “Đấu tranh phòng chống tội phạm có tổ chức theo pháp luật hình sự Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học – ĐHQG Hà Nội, Số 23/2007, “Nhận diện tội phạm có tổ chức”, Kỷ yếu hội thảo khoa học về sửa đổi Bộ luật hình sự năm 1999… Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam cũng đã đề cập trên một số góc độ về trường hợp đồng phạm hoặc tội trộm cắp tài sản, nhưng chưa công trình nào đi sâu vào các khía cạnh đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản cả về phương diện lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích cơ bản của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề mặt lý luận và thực tiễn tại tỉnh Hà Giang về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản, phân tích một cách khoa học và có căn cứ một số vấn đề có liên quan đến đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản để qua đó có được cái nhìn thống nhất, tương đối đầy đủ và đóng góp về mặt khoa học để góp phần giải quyết những vướng mắc đang được đặt ra khi xác định giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm. 4. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu lý luận về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề sau: 4
- - Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản - Các dấu hiệu pháp lý của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản - Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản - Thực tiễn xét xử và một số tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân đối với việc giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm tại tỉnh Hà Giang 6. Phạm vi nghiên cứu Về giới hạn vấn đề nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về đồng phạm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam trong một tội phạm cụ thể đó là tội trộm cắp tài sản. Về giới hạn không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu việc áp dụng các quy định của pháp luật đồng phạm trong việc xét xử tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Về giới hạn thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trong giai đoạn 6 năm từ 2010 - 2015. 7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài nêu trên là thành tựu từ các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử nhà nước và pháp luật, lý luận về pháp luật, xã hội học pháp luật, pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự, tội phạm học, lĩnh vực triết học, thành tựu từ các công trình nghiên cứu, luận văn, luận án, sách chuyên khảo cũng như các bài đăng trên tạp chí và các báo của các nhà khoa học – luật gia trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà nước trong việc giải thích thống nhất các trường hợp cụ thể trong thực tiễn xét xử có liên quan đến trường hợp trên trong các văn bản thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự do các cơ quan bảo vệ pháp luật ban hành ở các mức độ khác nhau. Phương pháp luận được sử dụng để làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra trong nghiên cứu là: phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Để từ đó xây dựng, đề cập đến những vấn đề tương ứng trong các quan điểm về tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, củng cố pháp chế và bảo vệ các quyền con người. 5
- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tác giả còn đồng thời sử dụng các phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từ vấn đề được đặt ra. Các phương pháp tiếp cận được sử dụng đó là: phương pháp phân tích – chứng minh, logic, phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp lịch sử, liệt kê,...Đặc biệt trong đó tác giả nhấn mạnh chú ý tới các phương pháp tổng hợp – hệ thống, đối chiếu so sánh, lịch sử phân tích, thống kê, khảo sát thực tiễn, phương pháp xã hội học,... để qua đó đưa ra được những kết luận khoa học mang tính thuyết phục cao, đề xuất các phương án cụ thể sao cho phù hợp nhằm hoàn thiện và hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật hình sự có liên quan đến vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. 8. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ giúp xác định được khái niệm, các đặc điểm của đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản; Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999; Trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản từ đó đưa ra những kiến nghị về mặt lập pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Việc xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp, đầy đủ, có hệ thống sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu một cách khá toàn diện và có hệ thống về việc áp dụng các quy định pháp luật về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang, phân tích những vấn đề chung về giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh, từ đó tìm ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc giải quyết vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản trên địa bàn, nêu lên những điểm bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về vấn đề này, đồng thời đưa ra những giải pháp, kiến giải để nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam và trong thực tiễn áp dụng những quy định này trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 6
- 9. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, có tính hệ thống và tương đối toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đồng phạm trong vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với những đóng góp về mặt khoa học đã nêu trên. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định và áp dụng đúng đắn, thống nhất các vấn đề về định tội danh và quyết định hình phạt trong quá trình giải quyết vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản có đồng phạm được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. 10. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề chung về đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn xét xử tội trộm cắp tài sản có đồng phạm tại Hà Giang. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và giải pháp bảo đảm áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về đồng phạm đối với tội trộm cắp tài sản. 7
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỒNG PHẠM TRONG TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm đồng phạm “Đồng” theo Từ điển tiếng Việt nghĩa là cùng như nhau, không thể khác được. “Phạm” là làm tổn hại đến cái cần tôn trọng, mắc phải điều cần tránh. Đồng phạm nghĩa là cùng phạm tội hiểu theo nghĩa của luật hình sự” [3, tr. 245]. Nghiên cứu pháp luật hình sự các nước, chúng ta thấy quan niệm không giống nhau về khái niệm đồng phạm. Điểm qua quy định của một số nước trên thế giới quy định về khái niệm đồng phạm thấy rằng: Bộ luật hình sự (BLHS) Thụy Điển quy định về người đồng phạm là người phối hợp với người khác cùng thực hiện một hành vi phạm tội hoặc một người tìm cách xúi giục người khác phạm tội hoặc đề nghị người khác phạm tội. “Khi xét xử từng người đồng phạm phải căn cứ vào việc người đó tham gia thực hiện tội phạm do cố ý hay vô ý” (Điều 4 – Chương 23). Như vậy, luật hình sự một số nước quan niệm đồng phạm có cả trong những tội phạm thực hiện do lỗi vô ý. BLHS Pháp cũng quy định về chính phạm và đồng phạm (tòng phạm). Theo đó, chính phạm là người thực hiện các hành vi bị coi là tội phạm hoặc chuẩn bị thực hiện một trọng tội hoặc khinh tội trong trường hợp luật quy định (Điều 121.4). Người có ý thức giúp đỡ hoặc trợ lực và đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị hoặc thực hiện tội phạm bị coi là đồng phạm của một trọng tội hoặc khinh tội. Người dùng tặng vật, hứa hẹn, đe dọa, dùng mệnh lệnh, lạm dụng chức vụ hoặc quyền hạn để xúi giục hoặc có các chỉ dẫn để cho người khác thực hiện tội phạm cũng bị coi là đồng phạm (Điều 121.7). BLHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 1979 tại Điều 22 quy định: “Hai hay nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm”. Theo Điều 33 BLHS của Liên Bang Nga cũng có quy định: “Hai hay nhiều người cùng cố ý 8
- thực hiện một tội cố ý là đồng phạm”. Như vậy pháp luật hình sự của các nước trên thế giới có những quy định rất đa dạng về đồng phạm. Tại Việt Nam, trước khi ban hành BLHS năm 1985 thì chưa có một văn bản pháp luật hình sự nào quy định thống nhất về khái niệm đồng phạm đối với tội phạm nói chung. Để có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc xử lý về hình sự đối với những trường hợp nhiều người cố ý cùng thực hiện một tội phạm, BLHS đã có điều luật riêng quy định về đồng phạm. Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự 1999 quy định đồng phạm là trường hợp “có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về khái niệm đồng phạm như sau:“Đồng phạm là hình thức phạm tội do cố ý được thực hiện với sự tham gia của 2 người trở lên” [5, tr. 458]. 1.1.2. Khái niệm tội trộm cắp tài sản Tội trộm cắp tài sản là một loại tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chất phổ biến trong xã hội. Hiện nay trên thế giới tồn tại hai khuynh hướng khi quy định về tội trộm cắp tài sản trong văn bản pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là điển hình cho khuynh hướng này, Điều 264 Bộ luật hình sự nước này quy định: “Người nào trộm cắp tài sản, tiền bạc công hoặc tư, thì bị phạt đến ba năm tù”. Khuynh hướng thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Các nước như Liên bang Nga, Cộng hòa liên băng Đức, Nhật Bản, Malaixia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào… đều thuộc khuynh hướng này. Điều 158 Liên bang Nga năm 1986 quy định: “Trộm cắp là (hành vi) bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác” [2, tr. 32]. Dựa trên cơ sở khái niệm này có thể xác định dấu hiệu cơ bản của tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản; sự chiếm đoạt tài sản được thể hiện một cách bí mật; tài sản bị chiếm đoạt phải là tài sản của người khác. Điều 142 BLHS của Cộng hòa liên băng Đức được ban hành năm 1871 và được sửa đổi bổ sung nhiều lần phù hợp với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội đưa ra khái niệm của tội trộm cắp tài sản: “Người nào lấy đi vật là động sản của người khác, với 9
- mục đích chiếm đoạt vật này, thì bị phạt tù đến năm năm hoặc phạt tiền”. Khái niệm này cho thấy đối tượng của tội trộm cắp tài sản phải là động sản, bất động sản không thể là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Điều 253 BLHS Nhật Bản ban hành năm 1907 đã sửa đổi bổ sung nhiều lần cũng quy định: “Người nào lấy cắp tài sản của người khác thì bị phạt tù đến 10 năm”. Như vậy, bộ luật chỉ xác định đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản của người khác, không mô tả thêm bất kỳ dấu hiệu pháp lý nào khác của tội phạm. Từ những dẫn chứng trên ta thấy rõ một số nét tương đồng cơ bản trong pháp luật hình sự ở một số nước. Sự khác biệt xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống lập pháp hình sự và kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của từng nước. Tại Việt Nam, trong các bộ luật phong kiến trước đây đều đã từng thể hiện rõ cả hai khuynh hướng này. Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long tuy có quy định nhiều về tội trộm cắp cụ thể nhưng không có quy phạm định nghĩa về tội này. Ngược lại, Hình Luật Canh Cải và Hoàng Việt Luật Lệ lại có quy định về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Ví dụ Điều 381 Hình Luật Canh Cải quy định: “Người nào dùng sự gian mà lấy đồ (vật) của người ta, thì phạm tội ăn trộm” [13, tr. 141-149]. Các văn bản pháp luật hình sự của nhà nước ta sau Cách mạng Tháng 8 lại thể hiện khuynh hướng thứ nhất, không có quy phạm định nghĩa về tội trộm cắp tài sản, chỉ quy định tội danh một cách đơn giản. Cách quy định này thể hiện rõ trong các Điều 132, 155 Bộ luật hình sự năm 1985 và Điều 138 BLHS năm 1999. Giáo trình trường Đại học luật Hà Nội đưa ra định nghĩa về tội trộm cắp tài sản: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có chủ” [69, tr. 383]; Bình luận khoa học BLHS phần các tội phạm, Tập 2 – Đinh Văn Quế “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác” [25, tr. 196]. Khái niệm trên không thể hiện rõ một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể tội phạm. Để đưa ra được khái niệm về tội trộm cắp tài sản, trước hết cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm mà theo TSKH.PGS Lê Cảm là phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm của nó là: 10
- a) bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan- tôi phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [4, tr.105]. Tổng kết các quan điểm trên ta có thể đưa ra một khái niệm về tội trộm cắp tài sản như sau: Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác, do người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. 1.1.3. Khái niệm đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản Tội phạm nói chung cũng như tội trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ thực hiện bởi một người mà có thể được thực hiện bởi nhiều người mà giữa họ đã có sự thống nhất ý chí cùng thực hiện một tội phạm, trường hợp phạm tội đặc biệt này trong khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm. “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” (Điều 20 BLHS), do đó đồng phạm trộm cắp tài sản là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của nước ta, chúng ta thấy vấn đề đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản đã được luật hình sự Việt Nam quy định từ rất sớm. Trong thời kỳ phong kiến, Bộ luật Gia Long đã có quy định về trường hợp đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản tại Điều 238: “10 người cùng ăn trộm của cải một nhà, tính tang của (giá trị tang vật) đến 40 lạng bạc dẫu chia nhau, mỗi người được 4 lạng, nhưng mà tính gộp một chỗ thì 10 người đều phải ăn trộm 40 lạng” nghĩa là đối với giá trị tài sản bị chiếm đoạt được tính gộp lại và những người đồng phạm đều phải chịu trách nhiệm chung về tội phạm. Ở thời Pháp thuộc, Hình Luật Canh Cải bên cạnh việc đưa ra quy định về khái niệm tội trộm cắp tài sản tại Điều 379 còn quy định về trường hợp “Trộm cắp tài sản có từ hai người trở lên tham gia” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của Tội trộm cắp tài sản. Sau này trong Hình luật An Nam và Hoàng Việt Luật Lệ cũng sao chép lại quy định này từ Hình Luật Canh Cải. 11
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, pháp luật hình sự nước ta đã có sự phân biệt giữa các hình thức đồng phạm khác như: “Trộm cắp phạt tù từ ba tháng đến ba năm; cướp đường hay trộm có tổ chức, có bạo lực, có dùng vũ khí để dọa nạt thì phạt tù từ ba đến mười năm” (Thông tư 442 – TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày 19/01/1955 về trừng trị một số tội phạm) để phân biệt với các hình thức đồng phạm đơn giản, “phạm tội có tổ chức” trở thành tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tinh thần này vẫn được Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 giữ vững. Trong thực tế, đồng phạm trong trộm cắp tài sản được thể hiện dưới những hình thức khác nhau như đồng phạm giản đơn, đồng phạm phức tạp và phạm tội có tổ chức trong đó phạm tội trộm cắp tài sản có tổ chức là hình thức đồng phạm rất phổ biến, gây thiệt hại lớn cho xã hội. Đồng phạm đơn giản là hình thức đồng phạm không có sự thông mưu trước của những người cùng thực hiện tội phạm, tất cả những người đồng phạm đều có vai trò là người thực hành. Có nghĩa là, mỗi người đồng phạm đều thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm của Điều 138 BLHS. Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm có sự phân công vai trò của những người cùng tham gia thực hiện tội phạm, trong đó ngoài một hoặc một số người có vai trò là người thực hành, còn có sự tham gia của những người đồng phạm khác như người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Ở hình thức đồng phạm phức tạp chỉ có một hoặc một số người đồng phạm (người đồng thực hành) thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999). Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 thì trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người cùng thực hiện tội phạm phải có sự câu kết chặt chẽ với nhau, có sự phân công vai trò, nhiệm vụ cụ thể, có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo trong việc cùng tham gia thực hiện tội phạm. Theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16/11/1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 12
- 02/HĐTP ngày 05/01/1986 khi giải thích khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999 về "Phạm tội có tổ chức" thì phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, sự câu kết này, theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, có thể thể hiện dưới các dạng sau: a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như đảng phái, hội đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những người chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập trung những người chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội; b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước; c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch đã được tính toán kỹ càng, chu đáo, có sự chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Chính vì tính nguy hiểm cao hơn của hình thức đồng phạm này so với hình thức đồng phạm thông thường nên Điều 138 BLHS năm 1999 quy định tình tiết “phạm tội có tổ chức” là tình tiết định khung tăng nặng (điểm a Khoản 2 Điều 138 BLHS). Ngoài ra, đối với đồng phạm trộm cắp tài sản, không chỉ có đồng phạm hành động mà còn có đồng phạm không hành động, đó là trường hợp những người đồng phạm trộm cắp tài sản không hành động phạm tội, ví dụ: A đã thỏa thuận với B là bảo vệ của cơ quan không khóa cửa kho để đến đêm A vào kho lấy trộm tài sản của cơ quan. Trong trường hợp này A và B là đồng phạm trộm cắp tài sản, A là người thực hành còn B là người giúp sức (không hành động). Với các phân tích trên cho thấy đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản là việc hai hay nhiều người cố ý cùng lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. 1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản có đồng phạm Luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ sở hữu, quyền và lợi ích hợp pháp 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn