intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hiến pháp với vấn đề nhân quyền

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

37
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là trình bày và phân tích nhân quyền là đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp; cách thức quy định, phạm vi điều chỉnh vấn đề nhân quyền trong Hiến pháp; so sánh các nguyên tắc và quy định về nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hiến pháp với vấn đề nhân quyền

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN BÌNH AN HIẾN PHÁP VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà nội – 2011
  2. MỤC LỤC MỤC LỤC ......................................................................................................... 2 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...................................................................... 6 3. Mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................ 7 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài .......................................................... 7 5. Cơ cấu của đề tài ....................................................................................... 8 CHƢƠNG 1....................................................................................................... 9 NHÂN QUYỀN - ĐỐI TƢỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA HIẾN PHÁP ............... 9 1.1. Khái quát về nhân quyền ........................................................................ 9 1.1.1. Khái niệm về quyền con người ........................................................ 9 1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người ......................................... 10 1.2. Nhân quyền – Đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp ............................ 23 1.2.1. Nhân quyền là đối tượng điều chỉnh cơ bản của Hiến pháp ........ 23 1.2.2. Cách thức, phạm vi điều chỉnh nhân quyền trong Hiến pháp ...... 28 CHƢƠNG 2..................................................................................................... 32 HIẾN PHÁP MỘT SỐ QUỐC GIA VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN ........... 32 2.1. Hiến pháp Hoa Kỳ ................................................................................ 32 2.2. Hiến pháp Cộng hòa Pháp .................................................................... 44 2.3. Hiến pháp Anh quốc: ........................................................................... 47 CHƢƠNG 3..................................................................................................... 49 HIẾN PHÁP VIỆT NAM VỚI VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN............................ 49 3.1. Quyền con ngƣời ở Việt Nam trƣớc Hiến pháp năm 1946 .................. 49 3.2. Hiến pháp năm 1946 với vấn đề nhân quyền ....................................... 55 3.3. Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 với vấn đề nhân quyền ............... 59 2
  3. 3.4. Bảng so sánh các quy định về quyền và nghĩa vụ công dân trong các bản văn Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 .............................................. 68 3.5. Một số ý kiến đóng góp hoàn thiện chế định quyền con ngƣời, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992 .......................................................... 84 3.5.1. Cách thức quy định quyền con người trong Hiến pháp ................ 84 3.5.2. Sửa đổi quy định một số quyền cụ thể trong Hiến pháp ............... 85 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 93 PHỤ LỤC ........................................................................................................ 95 3
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử nền văn minh nhân loại là một quá trình đấu tranh khẳng định các quyền cơ bản của con ngƣời. Mặc dù còn tồn tại những tranh cãi mang tính học thuật về quyền tự nhiên hay quyền pháp lý của quyền con ngƣời nhƣng có thể khẳng định, quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận trong các văn kiện pháp luật của hầu hết các quốc gia. Từ thời kỳ Trung cổ ở châu Âu, ngƣời Anh đã ban hành Hiến chƣơng Magna Carta năm 1215, theo đó khẳng định một số quyền con ngƣời nhƣ quyền sở hữu, thừa kế tài sản, quyền tự do buôn bán, quyền đƣợc xét xử đúng đắn và đƣợc bình đẳng trƣớc pháp luật. Năm 1776, mƣời ba thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh, thành lập Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông qua Tuyên ngôn độc lập khẳng định “…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cộng hòa Pháp cũng công bố Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền khi thành lập năm 1789, đã xác định các quyền cơ bản của con ngƣời nhƣ quyền tự do và bình đẳng, quyền bình đẳng trƣớc pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền đƣợc coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội… và đề cập đến những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền này. Sau này, những luận điểm về các quyền con ngƣời của bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền cũng đƣợc ghi nhận trong nhiều bản Hiến pháp đã đƣợc thông qua tại nhiều quốc gia ở châu Âu, theo đó, các quyền con ngƣời đƣợc xác định nhƣ một bộ phận cấu thành không thể thiếu đƣợc của Hiến pháp, là mục tiêu phấn đấu và thực hiện của các nhà nƣớc đó. Ở Việt Nam, quyền con ngƣời đã đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập do ngƣời soạn thảo và công bố ngày 02/9/1945 khai 4
  5. sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Kể từ ngày độc lập cho đến nay, Việt Nam cũng đã tham gia nhiều hơn vào các diễn đàn quốc tế, trong đó có diễn đàn về quyền con ngƣời. Tăng cƣờng đối thoại, chủ động tham gia ký kết và thực hiện các cam kết và điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời đang là một chủ trƣơng nhất quán của Đảng và Nhà nƣớc ta. Việt Nam đã ký kết và gia nhập nhiều Công ƣớc quốc tế về nhân quyền nhƣ Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (Liên hợp quốc thông qua năm 1966, Việt Nam gia nhập năm 1982), Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Liên hợp quốc thông qua năm 1966, Việt Nam gia nhập năm 1982), Công ƣớc xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Liên hợp quốc thông qua năm 1979, Việt Nam gia nhập năm 1982)… Nghị quyết Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định.” Có thể thấy rằng, quyền con ngƣời ảnh hƣởng ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng trong các lĩnh vực đời sống xã hội, chính trị, văn hóa, pháp luật và đƣợc luật pháp quốc tế, pháp luật các quốc gia ghi nhận, xác lập và thúc đẩy cơ chế bảo đảm thực hiện. Vì vậy, đề tài này nghiên cứu vấn đề nhân quyền, đối tƣợng điều chỉnh, cách thức, phạm vi điều chỉnh trong bản văn Hiến pháp của một số quốc gia trong đó có Việt Nam theo những chuẩn mực quốc tế đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận, góp phần nâng cao nhận thức khoa học 5
  6. của chúng ta về quyền con ngƣời, xây dựng các căn cứ lý luận và chính sách, hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền con ngƣời ở Việt Nam, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong nhiều thập niên qua, vấn đề quyền con ngƣời đƣợc nghiên cứu nhiều ở cả bình diện quốc tế và quốc gia. Nhiều tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc coi quyền con ngƣời là nội dung quan trọng trong các hoạt động của mình. Cơ quan này đã hỗ trợ cho nhiều hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến quyền con ngƣời. Cho đến nay, Liên hợp quốc đã hình thành đƣợc cơ chế bảo vệ quốc tế về quyền con ngƣời với sự ra đời của hàng chục điều ƣớc, tuyên ngôn, tuyên bố về quyền con ngƣời. Quyền con ngƣời đã đƣợc nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu nhƣ: UNDP, Human Development Report 2000: Human Rights and Human Development, New York, 2000; United Nations, Frequently asked questions on a human rights – based approach to development cooperation; Johannes Morsink, The Universal Declaration of Human rights: Origins, Drafting, and Intent, Philadelphia: University of Pennsylvania Press, 1999; trong đó, một số cuốn sách đã đƣợc dịch sang tiếng Việt nhƣ: Jacques Mourgon, Quyền con người, Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời, Hà Nội, 1995; Wolfgang Benedek (Chủ biên), Tìm hiểu về quyền con người, nhà xuất bản Tƣ pháp, 2008; … Năm 2005, Bộ Ngoại giao Việt Nam chủ trì, công bố tập tài liệu: “Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam”; Trung tâm nghiên cứu quyền con ngƣời (nay là Viện nghiên cứu quyền con ngƣời trực thuộc Học viện Chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), Việt Nam với vấn đề quyền con người; và đề tài độc lập cấp nhà nƣớc, Quyền con người trong thời kỳ đổi mới – thành tựu – vấn đề và phương hướng giải quyết; đề 6
  7. tài: “Việt Nam với vấn đề quyền con người” – một công trình nghiên cứu do Bộ Tƣ pháp chủ trì cùng với sự tham gia của nhiều cơ quan… Một số cuốn sách chuyên khảo về quyền con ngƣời trong hiến pháp đã đƣợc xuất bản nhƣ: Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của Hiến pháp và bản tính của các cơ quan nhà nước, nhà xuất bản Tƣ pháp, 2004; Nguyễn Văn Động, Các quyền hiến định về xã hội của công dân Việt Nam, nhà xuất bản Tƣ pháp, 2006… Ngoài ra, một số luận án tiến sĩ và thạc sĩ cũng đã có những nghiên cứu nhất định liên quan đến quyền con ngƣời… 3. Mục tiêu, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài a. Mục tiêu - Trình bày và phân tích nhân quyền là đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp. - Cách thức quy định, phạm vi điều chỉnh vấn đề nhân quyền trong Hiến pháp. - So sánh các nguyên tắc và quy định về nhân quyền trong các bản Hiến pháp Việt Nam. b. Phạm vi nghiên cứu Đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu các quyền hiến định về nhân quyền trong Hiến pháp của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Hiến pháp của Cộng Hòa Pháp, nguồn pháp luật của Hiến pháp bất thành văn của vƣơng quốc liên hiệp Anh & bắc Ailen và Hiến pháp của Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Theo tính chất của chủ đề, nội dung nghiên cứu, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, các phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sẽ là phƣơng pháp tập hợp và phân tích văn bản và tài liệu. 7
  8. 5. Cơ cấu của đề tài Nội dung đề tài đƣợc chia làm ba chƣơng: - Chƣơng 1: Nhân quyền – đối tƣợng điều chỉnh của Hiến pháp - Chƣơng 2: Hiến pháp một số quốc gia với vấn đề nhân quyền - Chƣơng 3: Hiến pháp Việt Nam với vấn đề nhân quyền 8
  9. CHƢƠNG 1 NHÂN QUYỀN - ĐỐI TƢỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA HIẾN PHÁP 1.1. Khái quát về nhân quyền 1.1.1. Khái niệm về quyền con người Theo Đại từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể đƣợc dịch thuần Việt là quyền con người hoặc đồng nghĩa Hán - Việt là nhân quyền [8]. Do đồng nghĩa về mặt ngôn ngữ học nên hai từ này đƣợc sử dụng đồng thời trong đề tài này. Từ những thế kỷ XVII, XVIII, xã hội tƣ bản chủ nghĩa ra đời ở Châu Âu; các cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản đã tạo ra những cơ sở chính trị, pháp lý của quyền con ngƣời: đó là Luật về các quyền của Anh năm 1689, Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 và Hiến pháp 1789 của Hoa Kỳ, Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền 1789 của Pháp, những văn kiện nhân quyền tiêu biểu, có ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của quyền con ngƣời trên thế giới. Theo đó, quyền con ngƣời là những quyền cơ bản mà tạo hóa đã ban cho họ và không ai có thể xâm phạm đƣợc. Đến năm 1994, theo một tài liệu của Liên hợp quốc, United Nations: Human Rights: Question and Answer [16], khoảng 50 định nghĩa về quyền con ngƣời đã đƣợc công bố trên thế giới. Nhân quyền đƣợc định nghĩa một cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con ngƣời mà nếu không đƣợc hƣởng thì chúng ta sẽ không thể sống nhƣ một con ngƣời. Cho đến nay, từ Đông sang Tây, rất nhiều định nghĩa về quyền con ngƣời đã đƣợc đƣa ra, có những định nghĩa mang tính liệt kê một vài quyền con ngƣời, có những định nghĩa mang tính khái quát, học giả Trung Quốc Đồng Vân Hồ quan niệm: "có thể nói gọn lại, nhân quyền là quyền tồn tại, phát triển một cách tự do, bình đẳng"… [3]. 9
  10. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con ngƣời nhƣng các nhà nghiên cứu thƣờng trích dẫn định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con ngƣời, theo đó, quyền con ngƣời là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự đƣợc phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con ngƣời [17]. Một định nghĩa khác có ảnh hƣởng từ những học thuyết về các quyền tự nhiên cũng thƣờng đƣợc trích dẫn, theo đó, quyền con ngƣời là những sự đƣợc phép (entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội,…; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con ngƣời. Tại Việt Nam, định nghĩa về quyền con ngƣời của một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu cũng không hoàn toàn giống nhau, thƣờng đƣợc hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con ngƣời đƣợc ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [10]. Cũng có định nghĩa tƣơng tự về quyền con ngƣời, là nhân phẩm, các nhu cầu (về vật chất và tinh thần), lợi ích cùng với nghĩa vụ của con ngƣời đƣợc thể chế hóa trong các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Nhƣ vậy, mặc dù có những khác biệt nhất định tùy thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân hoặc cơ quan nghiên cứu, nhƣng quyền con ngƣời trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều đƣợc ghi nhận nhƣ là những chuẩn mực đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi và phấn đấu thực hiện. 1.1.2. Tính chất cơ bản của quyền con người Các nguyên tắc của quyền con ngƣời (human rights principles) hay còn gọi là các tính chất cơ bản của quyền con ngƣời, theo nhận thức chung của 10
  11. cộng đồng quốc tế thể hiện trong cuốn United Nations: UN common understanding on human rights – based approaches to development [17], bao gồm: tính phổ biến (universal), tính không thể chuyển nhƣợng (tƣớc đoạt) (inalienable), tính không thể phân chia (indivisiable) và tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent). a) Tính phổ biến (universal) Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời nêu rõ, tất cả mọi ngƣời sinh ra đều tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền. Mọi ngƣời đều đƣợc phú cho lý trí và lƣơng tri và cần phải đối xử với nhau trên tình anh em. Thông qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời, tính phổ biến của quyền con ngƣời đƣợc cộng đồng quốc tế thừa nhận thể hiện ở chỗ quyền con ngƣời là những gì bẩm sinh, vốn có của con ngƣời. Quyền con ngƣời đƣợc áp dụng bình đẳng cho mọi ngƣời, không có sự phân biệt đối xử bởi bất kỳ lý do nào về chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, thành phần xuất thân… Nhƣ vậy, quyền con ngƣời là một giá trị chung của nhân loại, là mục đích vƣơn tới của nhân loại. Xét về nguồn gốc tự nhiên, quyền con ngƣời là những giá trị vốn có và chỉ tồn tại ở loài ngƣời. Những tƣ tƣởng về quyền "tự nhiên", "trời phú” cho con ngƣời ngay từ khi con ngƣời xuất hiện đã có từ thời cổ đại. Trong nền văn minh Lƣỡng Hà, một trong những nền văn minh cổ đại rực rỡ khoảng năm 3000 – 1500 trƣớc CN, khoảng năm 1780 trƣớc CN, nhà vua Hammurabi của xứ Babylon đã ban hành bộ luật Hammurabi với nhiều quy định mang nội dung tiến bộ, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để “…kẻ mạnh không còn ức hiếp được người yếu, …làm cho người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem lại hạnh phúc chân chính và đặt nền thống trị nhân từ cho mọi thần dân trên vương quốc…”. Cho đến nay, tuy còn khá nhiều quan điểm khác nhau từ các 11
  12. học giả, nhƣng xét trên nhiều khía cạnh về nội dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể xem là một đạo luật ban hành bằng văn bản đầu tiên của nhân loại đề cập đến quyền con ngƣời. Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con ngƣời còn sớm đƣợc đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu nhƣ Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 – 529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka ban hành vào khoảng các năm 272 – 231; Hiến pháp Medina do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622. Ở Trung Quốc, Mặc Tử (479 – 381 trƣớc Công nguyên) đã cho rằng quyền bình đẳng tự nhiên của con ngƣời đó là "ý trời". Theo đó, mỗi ngƣời đều có quyền tham gia công việc nhà nƣớc tùy theo đạo đức và tài năng của họ, chứ không phải do dòng dõi quyết định. Cũng nhƣ vậy, mỗi ngƣời đều có các quyền giống nhau và đều bị trừng phạt nếu phạm tội. Vào thời Hậu Lê của Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều Hình Luật (1470 – 1497) cũng có thể đƣợc coi là một trong những bộ luật cổ tiêu biểu trên thế giới về quyền con ngƣời. Bởi lẽ, Bộ luật chứa đựng nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, ... và đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu pháp luật trong nƣớc và nƣớc ngoài đánh giá rất cao. Phát triển theo thời gian, thời kỳ Phục hƣng ở Châu Âu là giai đoạn phát triển rực rỡ của các quan điểm, học thuyết về quyền con ngƣời. Các học giả phƣơng Tây đã nghiên cứu, xây dựng và phát triển các vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời, có thể kể đến một số triết học gia sau: o Triết học gia ngƣời Anh Thomas Hobbes (1588 – 1679) với cuốn sách Leviathan viết năm 1658 đƣa ra quan điểm lý thuyết về khế ƣớc xã hội với các nguyên tắc cơ bản của tƣ tƣởng tự do châu Âu: quyền đƣợc bầu cử của các cá nhân; quyền bình đẳng tự nhiên của tất cả mọi 12
  13. ngƣời; tính nhân tạo của địa vị chính trị; quan điểm tất cả quyền lực chính trị hợp pháp phải mang tính "đại diện" và dựa trên sự đồng thuận của nhân dân; và sự diễn giải luật khá phóng thoáng cho phép mọi ngƣời đƣợc làm bất kỳ điều gì mà pháp luật không cấm; o Triết học gia ngƣời Anh John Locke (1632 – 1704), cũng nhƣ Hobbes, ông quan niệm, trong trạng thái tự nhiên, tất cả mọi ngƣời đều bình đẳng và độc lập, không ai có quyền làm tổn hại đến ngƣời khác và mọi ngƣời đều có quyền trừng phạt kẻ vi phạm (Luận thuyết thứ hai về chính quyền – Second Tract of Government); o Triết học gia ngƣời Thụy Sỹ Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778) với tác phẩm Khế ƣớc xã hội (The Social Contract) xuất bản năm 1762, khế ƣớc xã hội là cơ sở, nguồn gốc của xã hội dân sự và chủ quyền nhân dân; o Triết học gia ngƣời Anh Thomas Paine (1731 – 1809), trong cuốn Quyền con ngƣời (The Rights of Man) năm 1791, danh từ "quyền của con ngƣời" do ông nêu ra là ý tƣởng cách mạng. Con ngƣời ở đây mang ý nghĩa trừu tƣợng, không chỉ rõ một quốc tịch, giòng giống hay giới tính nào. Con ngƣời là danh từ chỉ nhân loại nói chung và không có ý định áp dụng cho nam giới. Phát triển những tƣ tƣởng về quyền con ngƣời của các nhà triết học ở thời kỳ này, ngƣời Anh đã cụ thể hóa trong Luật về các quyền ở Anh năm 1689. Trong cuộc cách mạng tƣ sản ở Mỹ, Tuyên ngôn độc lập năm 1776 đã thống nhất với cách nhìn nhận về quyền con ngƣời của John Locke: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…” [12]. 13
  14. Khác với ngƣời Mỹ, trong cuộc cách mạng tƣ sản của mình năm 1789, ngƣời Pháp công bố Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền, một văn bản mang đầy dấu ấn của các học thuyết về nhân quyền của thời kỳ này, theo đó, con ngƣời sinh ra đều sống tự do và bình đẳng về quyền và phải luôn đƣợc tự do và bình đẳng về quyền lợi [9]. Hai bản văn kiện này đã có ảnh hƣởng sâu rộng không chỉ ở hai nƣớc này mà còn trên toàn thế giới về sự phát triển của quyền con ngƣời cũng nhƣ đặt nền móng cho quá trình lập pháp về quyền con ngƣời trong hệ thống văn bản pháp luật của các quốc gia và trong các văn bản pháp luật quốc tế. Sau này, Hoa Kỳ đã cam kết tôn trọng và thực hiện bảo vệ quyền con ngƣời thông qua việc cụ thể hóa các quyền đã đƣợc ghi nhận trong mƣời Tu chính án Hiến pháp. Hiến pháp của Pháp năm 1791 cũng có những quy định bảo đảm các quyền con ngƣời đã đƣợc nêu trong Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền. Học thuyết về quyền con ngƣời và những cơ sở lý luận cơ bản về quyền con ngƣời đã đƣợc phát triển sớm trong điều kiện tự nhiên – xã hội của phƣơng Tây và quyền con ngƣời đã đƣợc ghi nhận trong nhiều văn kiện chính trị - pháp lý khác nhau. Những học thuyết này, xét cho cùng vẫn bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế, xã hội và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Và quyền con ngƣời trong các văn kiện chính trị - pháp lý đó cũng là những sản phẩm của các điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Để quyền con ngƣời tiến tới là một giá trị chung của nhân loại, kế thừa những tinh hoa của những tƣ tƣởng Cận đại về nhân quyền và vƣợt lên trên những hạn chế của các văn kiện vừa nêu trên, Liên hợp quốc, ở buổi sơ khai đã tốn hơn ba năm bàn bạc, xây dựng, để có thể công bố Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời năm 1948, sự khởi đầu của ngành luật quốc tế về quyền con ngƣời. Bản Tuyên ngôn là thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về 14
  15. quyền con ngƣời, đƣợc đại đa số các nƣớc chấp nhận, ký kết, thông qua, thừa nhận tính phổ quát của các quyền con ngƣời, dựa trên việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Đây là thành quả của sự phát triển, sự tiến bộ và văn minh của lịch sử nhân loại, không chỉ mang tính tất yếu khách quan mà còn thể hiện nguyện vọng chủ quan của con ngƣời trên toàn thế giới, ai cũng có quyền tồn tại, có quyền phát triển và có quyền mƣu cầu hạnh phúc. Ngày nay, tính phổ biến của quyền con ngƣời đƣợc thừa nhận trên phạm vi toàn cầu nhƣng vẫn tiếp tục trở thành vấn đề nổi cộm trong các cuộc tranh luận của giới nghiên cứu cũng nhƣ giữa các chính trị gia bởi tồn tại những quan niệm khác nhau về tính phổ biến và nội dung của quyền con ngƣời. Mặc dù nội hàm quan niệm về quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời của Liên hợp quốc có bao hàm các quan niệm nhân quyền của phƣơng Tây nhƣng không có nghĩa là cũng đồng nhất với họ, cũng bị giới hạn quyền con ngƣời phổ quát theo quan niệm đó. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời đã xem xét quyền con ngƣời không chỉ với tƣ cách quyền tự nhiên bẩm sinh, mà còn là quyền có tính xã hội, không chỉ đơn thuần xem quyền con ngƣời là những quyền chính trị mà còn là những quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền phát triển. Theo nhà nghiên cứu Ngô Đình Xây, quyền con ngƣời bao giờ và ở đâu cũng luôn luôn là sản phẩm của một trình độ phát triển sản xuất – xã hội nhất định [14]. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, không phải Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời của Liên hợp quốc không có những hạn chế của nó; không phải những chuẩn mực mang tính phổ biến về quyền con ngƣời trong Tuyên ngôn và các văn kiện pháp lý quốc tế đã đƣợc Liên hợp quốc thông qua đều mang tính bất biến, không thể thay đổi theo dòng lịch sử và phản ánh đầy đủ 15
  16. quyền con ngƣời. Ngƣời ta có thể nói đến việc trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời không có một số quyền con ngƣời đặc biệt quan trọng mà các văn kiện quốc tế khác phải bổ sung (các Công ƣớc quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966, Công ƣớc quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966, Tuyên bố về quyền của các dân tộc đƣợc sống trong hòa bình 1984…), nhƣ các quyền của nhóm, quyền phát triển, quyền đƣợc sống trong hòa bình, quyền đƣợc sống trong môi trƣờng trong lành, quyền với các nguồn tài nguyên thiên nhiên,… Cùng với các công ƣớc quốc tế này, rất nhiều các văn kiện khác sau này đã đƣợc thông qua với mục tiêu hƣớng tới hoàn thiện hơn những chuẩn mực quốc tế về quyền con ngƣời cũng nhƣ phản ánh đầy đủ và toàn diện quyền con ngƣời trong xu thế phát triển của xã hội. Mặc dù còn nhiều bất đồng trong quan niệm về quyền con ngƣời giữa các nhà nghiên cứu, các chính trị gia cũng nhƣ giữa nhiều quốc gia, nhƣng trong các quan niệm ấy đều tồn tại một cơ sở chung làm nên tính phổ biến về quyền con ngƣời, đó là nhân phẩm (hay phẩm giá con ngƣời – human dignity). Ngay từ lời nói đầu của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời, phẩm giá con ngƣời đã đƣợc thừa nhận là cơ sở chung của quyền con ngƣời: “Việc thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là cơ sở cho tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới”. Tuyên ngôn cũng đã khẳng định mọi ngƣời đều đƣợc tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền (Điều 1). Phẩm giá con ngƣời là những giá trị phản ánh và tạo nên phẩm chất của chính bản thân con ngƣời, chỉ con ngƣời mới có và phân biệt giữa con ngƣời với thế giới động vật. Một nhà nghiên cứu cho rằng, quyền con ngƣời đƣợc xây dựng trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi cá nhân có nghĩa là tất cả các quyền con ngƣời đều xuất phát từ chính nhân phẩm và giá trị của con ngƣời [11]. 16
  17. Con ngƣời là một chủ thể đặc thù trong thế giới tự nhiên, bản chất của từng con ngƣời gắn liền với phẩm giá và giá trị của con ngƣời họ. Phẩm giá chỉ thuộc về con ngƣời, mang giá trị tuyệt đối không bị lệ thuộc hoặc phân chia hay xâm phạm bởi bất kỳ sự phân biệt hoặc ngoại lệ nào về dân tộc, chủng tộc, giới tính, trình độ, địa vị xã hội… bởi vì phẩm giá con ngƣời có tính phổ biến. Việc này đã đƣợc ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời: “Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm” (điều 4); “Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm” (điều 5). Phẩm giá con ngƣời là giá trị phổ biến của quyền con ngƣời, phản ánh bản chất của từng con ngƣời. Bên cạnh tính phổ biến, quyền con ngƣời còn có tính không thể chuyển nhƣợng. b) Tính không thể chuyển nhƣợng (tƣớc đoạt) (inalienable) Hệ thống pháp luật quốc gia của đa số các quốc gia trên thế giới cũng nhƣ các văn kiện pháp lý quốc tế đã có những ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và đảm bảo cơ chế thực thi các quyền con ngƣời trong điều kiện sống bình thƣờng để con ngƣời sống đúng với tƣ cách ngƣời. Mỗi con ngƣời tự do tham gia vào đời sống xã hội, có quyền tự do ý chí, thể hiện nguyện vọng của bản thân và tự gánh chịu trách nhiệm về hành vi, hoạt động của mình và mọi hậu quả pháp lý của những hành vi, hoạt động đó. Trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời, điều 9 nhấn mạnh: “ Không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”. Bất kỳ một chủ thể nào bao gồm cả cơ quan công quyền hay công chức nhà nƣớc cũng không có quyền tƣớc đoạt một cách tùy tiện các quyền tự do ý chí, thể hiện nguyện vọng đó của mỗi cá nhân trong xã hội. Sự tùy tiện tƣớc đoạt quyền con ngƣời 17
  18. bởi một chủ thể nào đó là sự vi phạm các quyền con ngƣời đã đƣợc pháp luật bảo vệ. Bên cạnh đó, bất cứ ai, không những không đƣợc quyền tƣớc đoạt mà còn không đƣợc quyền hạn chế hoặc xâm phạm một cách tùy tiện các quyền con ngƣời của mỗi cá nhân. Điều 12 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời quy định: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”. Tất cả những quy định đó của pháp luật đều hƣớng tới mục đích chung, đó là bảo vệ con ngƣời và bảo vệ quyền con ngƣời, sự bình đẳng pháp lý của mọi cá nhân, quyền tự do dân chủ của họ và những bảo đảm cho các quyền và tự do đó. Nhƣ vậy, có thể hiểu rằng, quyền tƣớc đoạt hoặc quyền hạn chế các quyền con ngƣời chỉ có thể xảy ra hay đƣợc thực hiện trong những trƣờng hợp cụ thể, đặc biệt. Đó là khi một ngƣời thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đã đƣợc xác định bởi một phán quyết của tòa án có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật thì ngƣời đó mới bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế một số quyền con ngƣời. Sự tƣớc đoạt hoặc hạn chế một số quyền con ngƣời của ngƣời bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế thực chất là nhằm bảo vệ các quyền con ngƣời của ngƣời khác bị ảnh hƣởng bởi hành vi vi phạm pháp luật của ngƣời bị tƣớc đoạt hoặc bị hạn chế gây ra. Do đó, cơ sở lý luận cho sự tƣớc đoạt hoặc hạn chế ở đây có thể đƣợc hiểu ở góc độ bảo vệ các quyền con ngƣời. Chính vì vậy, điều 29.2 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con ngƣời khẳng định: Khi thụ hƣởng các quyền và tự do của mình, mọi ngƣời chỉ phải tuân thủ những hạn chế do luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và 18
  19. tự do của ngƣời khác, cũng nhƣ nhằm đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. Các quyền và tự do của con ngƣời không chỉ mang tính không thể chuyển nhƣợng, không thể bị tƣớc đoạt hoặc hạn chế một cách tùy tiện, mà bản thân các quyền còn có giá trị quan trọng nhƣ nhau, đó là tính không thể phân chia. c) Tính không thể phân chia (indivisiable) Trong sự vận động phát triển của xã hội, các mối quan hệ về chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng phong phú, phức tạp và đa dạng, làm tiền đề bổ sung cho sự phát triển các quyền con ngƣời, đáp ứng các nhu cầu của con ngƣời, đó là các quyền kinh tế, quyền chính trị, quyền dân chủ, quyền văn hóa… Trong các văn kiện pháp lý quốc tế, về nguyên tắc, các quyền con ngƣời này đƣợc xác định có tầm quan trọng nhƣ nhau, không có quyền nào đƣợc xem là quan trọng hơn hoặc cao hơn các quyền khác. Các quyền đều ngang nhau về mặt giá trị. Tổng thể các quyền và tự do của con ngƣời có sự giao thoa, sự đan xen quan hệ và sự gắn bó mật thiết với nhau giữa các quyền. Các quyền chính trị, dân sự mặc dù cần thiết và quan trọng nhƣng không thể cao hơn, quan trọng hơn các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội. Có thể nhận thấy, sự xác nhận về mặt nguyên tắc tầm quan trọng nhƣ nhau của các quyền con ngƣời bảo đảm tự do, nhân phẩm của con ngƣời. Bởi vì, nhân phẩm và giá trị của con ngƣời là cơ sở chung để xây dựng nên tất cả các quyền con ngƣời. Bất kỳ một quyền con ngƣời nào không đƣợc thực hiện hay bị hạn chế hoặc tƣớc bỏ cũng nhƣ việc đề cao một quyền nào đó và hạ thấp quyền khác đều gây bất lợi, ảnh hƣởng tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển con ngƣời. Tác động tiêu cực đến sự phát triển con ngƣời là do con ngƣời có thể phát triển toàn 19
  20. diện khi đƣợc thụ hƣởng đầy đủ các quyền con ngƣời và ngang nhau về giá trị, hay nói cách khác, các quyền con ngƣời khi đƣợc xác định có tầm quan trọng ngang nhau tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện của con ngƣời. Nhƣ nhà nghiên cứu nhân quyền nổi tiếng Philip Aston đã phát biểu rằng: “Do tất cả các quyền con người đều là cần thiết và cốt yếu nên không được coi quyền nào quan trọng hơn quyền nào” [10]. Tuy nhiên, tùy thuộc vào những hoàn cảnh khác nhau và những chủ thể khác nhau, dựa trên những yêu cầu thực tế, một số quyền nhất định có thể đƣợc nhấn mạnh, đƣợc ƣu tiên thực hiện hoặc đƣợc chú ý bảo vệ. Trong một phạm vi hẹp, có thể kể đến một số trƣờng hợp cụ thể nhƣ trƣờng hợp những ngƣời bị bệnh tật hoặc trƣờng hợp dịch bệnh bùng phát tại một nơi nào đó. Lúc này, quyền đƣợc chăm sóc y tế cùng với những biện pháp cần thiết để bảo đảm thực thi quyền đó sẽ đƣợc ƣu tiên thực hiện. Việc ƣu tiên thực hiện quyền đƣợc chăm sóc y tế có thể làm ảnh hƣởng đến các quyền khác trong khoảng thời gian bị bệnh tật hoặc bị dịch bệnh, nhƣng không đồng nghĩa rằng quyền này có giá trị hoặc đƣợc đánh giá có mức độ quan trọng cao hơn các quyền khác. Trên cơ sở những yêu cầu thực tế, quyền đƣợc chăm sóc y tế là nhu cầu cấp thiết của con ngƣời, hoàn toàn phù hợp với tình hình tại thời điểm đó. Sức khỏe con ngƣời đƣợc đảm bảo mới có thể bảo đảm các quyền con ngƣời khác. Trong phạm vi rộng hơn, nhóm chủ thể là phụ nữ và trẻ em cũng đƣợc bảo đảm một số quyền ƣu tiên. Phụ nữ và trẻ em là những nhóm ngƣời có dễ bị tổn thƣơng về các quyền cơ bản của con ngƣời. Họ là nạn nhân của sự vi phạm các quyền con ngƣời đƣợc che đậy và bao biện bởi các yếu tố khách quan nhƣ lý do truyền thống, văn hóa… Chính vì vậy, cộng đồng quốc tế đã thông qua một số công ƣớc quốc tế (Công ƣớc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979; Công ƣớc về quyền trẻ em năm 1989) 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
14=>2