intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Luật Hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

27
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Luật Hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM THỊ HIỀN HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
  2. PHẠM THỊ HIỀN HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ HÀ NỘI - 2007
  3. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Chương 2: HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM 37 GIỮ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Trang 2.1. Trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 39 Trang phụ bìa 2.2. Theo Bộ luật hình sự 1985 39 Lời cam đoan 2.3. Theo Bộ luật hình sự 1999 45 Lời cảm ơn Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CẢI 59 TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ MỘT SỐ Mục lục KIẾN NGHỊ MỞ ĐẦU 1 3.1. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ 59 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH 5 và những bất cập vướng mắc PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 3.1.1. Thực tiễn áp dụng 59 1.1 Khái niệm hình phạt 5 3.1.2. Những bất cập vướng mắc 63 1.1.1. Định nghĩa 5 3.2. Một số kiến nghị 68 1.1.2. Mục đích hình phạt 8 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về cải tạo không giam giữ 68 1.1.3. Hệ thống hình phạt 11 3.2.2. Thống nhất nhận thức về áp dụng hình phạt cải tạo 72 1.2. Hình phạt cải tạo không giam giữ 15 không giam giữ 1.2.1. Khái niệm 15 3.2.3. Các biện pháp tăng cường hiệu quả áp dụng hình 73 1.2.1.1. Bản chất pháp lý 15 phạt cải tạo không giam giữ 1.2.1.2. Đặc điểm 17 KẾT LUẬN 78 1.2.1.3. Điều kiện áp dụng 21 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 1.2.2. Ý nghĩa của hình phạt cải tạo không giam giữ 23 1.2.2.1. Ý nghĩa chính trị xã hội 23 1.2.2.2. Ý nghĩa pháp lý 24 1.2.3. So sánh hình phạt cải tạo không giam giữ với một số 25 hình phạt và biện pháp hình sự khác 1.2.3.1. So sánh với một số hình phạt khác 25 1.2.3.2. So sánh với biện pháp pháp lý hình sự khác - án treo 27 1.3. Hình phạt cải tạo không giam giữ theo pháp luật hình 30 sự một số nước 1 2
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội phạm là trừng trị kết hợp với cải tạo, giáo dục cảm hóa; thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện; qua đó bồi dưỡng mọi công dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân thủ pháp luật, chủ động tích cực tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Nghị quyết xác định: Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp với mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm khác…[3]. Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo, giáo dục. Đồng thời, áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội sẽ tạo điều kiện cho người đó được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó làm việc, 1
  5. công tác, học tập, cư trú và của chính gia đình của người đó, nhanh chóng giúp cho họ tái hòa nhập cộng đồng, không bị cách ly khỏi xã hội. Mặc dù mang bản chất nhân đạo cao cả, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cao và động viên được các lực lượng xã hội khác nhau trong phòng chống tội phạm, hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức trong luật hình sự nước ta. Trong phần quy định về các loại tội phạm cụ thể trong phần riêng của Bộ luật Hình sự năm 1999, việc cho phép áp dụng hình phạt này còn hạn chế; Trong thực tiễn xét xử, hình phạt cải tạo không giam giữ còn ít được Tòa án áp dụng; Việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ còn nhiều bất cập và thiếu hiệu quả v.v.. Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề chung về hình phạt cải tạo không giam giữ, thực tế áp dụng hình phạt đó có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn, góp phần hoàn thiện Bộ luật Hình sự và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án các cấp. Những phân tích trên lý giải cho việc chúng tôi chọn đề tài cho luận văn thạc sĩ luật học của mình là "Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Luật Hình sự Việt Nam". 2. Tình hình nghiên cứu Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những chế định pháp lý hình sự quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Bản thân hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, được đề cập trong nhiều bài viết nghiên cứu - trao đổi, xây dựng pháp luật… và được thể hiện trên báo chí trung ương và địa phương, nhất là các báo, tạp chí chuyên ngành pháp luật. Ví dụ như: Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, 2006, của PGS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng; Tìm hiểu về hình 2
  6. phạt và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, của ThS. Đinh Văn Quế; Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 1994, của tập thể nhiều tác giả. Tuy nhiên, hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các nghiên cứu về hình phạt cải tạo không giam giữ thường mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu chung với các hình phạt khác hoặc từ góc độ khác. Cho đến nay chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về hình phạt cải tạo không giam giữ để trên cơ sở đó đưa ra được giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và hệ thống hình phạt nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này. - Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ + Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự về cải tạo không giam giữ + Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ + Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ; cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong những năm qua ở nước ta. 3
  7. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân đạo của chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp lịch sử, thống kê, so sánh, tham khảo chuyên gia và khảo sát thực tiễn. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nghiên cứu hình phạt cải tạo không giam giữ một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hình phạt cải tạo không giam giữ và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hình phạt cải tạo Chương 2: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật hình sự Việt Nam Chương 3: Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và một số kiến nghị. 4
  8. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.1. KHÁI NIỆM HÌNH PHẠT Để có cái nhìn toàn diện về hình phạt cải tạo không giam giữ - những vấn đề lý luận và thực tiễn, trước tiên, chúng ta cần xem xét một cách tổng thể lý luận về hình phạt. 1.1.1 . Định nghĩa "Hình phạt không phải là một cái gì khác ngoài phương tiện của xã hội để tự bảo vệ mình chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó" [28, tr. 513]. Với khẳng định này, Mác đã chỉ dẫn về tính phổ biến, tính giai cấp và tính lịch sử của hình phạt. Theo đó, hình phạt là một trong những công cụ, phương tiện chủ yếu và lâu đời để thực hiện chính sách hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và giai cấp lãnh đạo nói riêng, của xã hội nói chung. Lịch sử phát triển của Hình phạt trong luật hình sự ghi nhận nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt nhưng tựu chung lại xoay quanh hai quan điểm chủ chốt: Thời kỳ trung cổ, với phương ngôn "nợ máu phải trả bằng máu", hình phạt đã từng được coi là công cụ trả thù người phạm tội. Nhà cầm quyền đã nghĩ ra những biện pháp hà khắc, dã man nhất để trừng phạt người phạm tội như: phanh thây, bêu đầu, tùng xẻo, chặt tay… Trong xã hội văn minh và dân chủ, Hình phạt được coi là công cụ đấu tranh phòng và chống tội phạm. Các hình phạt dã man đã bị loại bỏ. Các hình phạt mang tính hà khắc cao như tử hình cũng đã được một số nhà nước loại bỏ khỏi hệ thống hình phạt của luật hình sự. 5
  9. Trong khoa học luật hình sự cũng đã tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về hình phạt. Xét về khía cạnh lý luận luật hình sự, các quan điểm về hình phạt từng được đưa ra khá nhiều và chưa đi đến một quan điểm thống nhất. "Hình phạt được quyết định đối với kẻ phạm tội căn cứ vào pháp luật, nó mang lại những thiệt hại cho chính người phạm tội về thể chất, tinh thần hoặc tài sản của họ" - Gura, nhà luật học người Ấn Độ đã khẳng định như trên [26, tr. 266]. Tác giả Kusnetzova trong cuốn "Những nguyên lý của Luật hình sự Xô - viết" quan niệm khá đầy đủ và tiến bộ: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, được Tòa án tuyên trong bản án, đối với người thực hiện tội phạm, với mục đích phòng ngừa người bị kết án phạm tội mới và phòng ngừa những người khác phạm tội" [20, tr. 137]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TS Đỗ Ngọc Quang có quan điểm: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định với mục đích cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [19, tr. 675]. Tìm hiểu tiến trình phát triển của luật thực định nước ta, chúng ta nhận thấy rằng chỉ đến Bộ luật Hình sự năm 1999 khái niệm hình phạt mới được ghi nhận lần đầu tiên (tại Điều 26): Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. 6
  10. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định [10]. Bắt đầu từ đây, các nhà luật học đã đưa vào các tài liệu, sách báo pháp lý chuyên khảo xuất bản ở nước ta một quan niệm khá thống nhất về hình phạt. Tuy nhiên, chúng ta đồng tình với quan điểm của Tiến sĩ khoa học - PGS Lê Văn Cảm, tại Điều 26 Bộ luật Hình sự 1999 nên sửa thuật ngữ pháp lý "người phạm tội" thành "người bị kết án". Các dấu hiệu đặc trưng được chỉ ra từ khái niệm hình phạt nói trên bao gồm: - Hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước. Hình phạt là biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền, lợi ích của người bị kết án. Việc áp dụng hình phạt đối với người bị kết án sẽ đưa đến hậu quả pháp lý là người đó bị coi là có án tích. Chịu hình phạt, người bị kết án có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị, thậm chí cả quyền sống - Hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Hình phạt là một trong những dấu hiệu cấu thành tội phạm (là một dạng của trách nhiệm hình sự). Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính trái pháp luật hình sự và tính có lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. - Cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng hình phạt là tòa án. Ngoài tòa án không có cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt. - Hình phạt phải và chỉ được quy định trong Pháp luật hình sự, được Tòa án áp dụng theo một trình tự đặc biệt do luật Tố tụng Hình sự quy định. - Hình phạt chỉ mang tính chất cá nhân vì một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá 7
  11. nhân người phạm tội. Luật hình sự Việt Nam hiện hành không cho phép việc chấp hành hình phạt thay cho người phạm tội dưới mọi hình thức. Những phân tích trên một lần nữa đã khẳng định tính đúng đắn và toàn diện của khái niệm về hình phạt mà Tiến sĩ khoa học - PGS Lê Văn Cảm đã đưa ra: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được áp dụng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, tự do, lợi ích của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự" [19, tr. 677]. 1.1.2. Mục đích hình phạt Để nâng cao và bảo đảm hiệu quả của hình phạt, cần phải có cái nhìn xác thực về mục đích của hình phạt bởi lẽ nó được coi là một tiêu chí rất quan trọng để đánh giá hiệu quả hình phạt. Bên cạnh đó, lý luận khoa học hình sự đã cho thấy mục đích của hình phạt có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác xây dựng và áp dụng các quy định về hình phạt. Mọi hoạt động giáo dục, đào tạo, tuyên truyền và phổ biến pháp luật hình sự cũng chịu sự chi phối đặc biệt này. Giới hạn của hình phạt hay nói cách khác nội dung chế tài của hình phạt đồng thời được xác định dựa trên mục đích của hình phạt. Luật hình sự của các quốc gia trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Bộ luật Hình sự của Liên Bang Nga có hiệu lực từ ngày 01 tháng 03 năm 1996 quy định: "Hình phạt có mục đích lập lại sự công bằng xã hội, cũng như cải tạo người bị kết án và phòng ngừa tội phạm mới". Trong khi đó, Bộ luật Hình sự Cộng hòa Cu Ba quy định mục đích của hình phạt tại Điều 27 như sau: "Hình phạt không chỉ có nhằm trừng trị người phạm tội, mà còn nhằm giáo dục người bị kết án có thái độ đúng đắn đối với lao động, tuân thủ pháp luật và tôn trọng các quy tắc cuộc sống xã hội chủ nghĩa, cũng như phòng ngừa phạm tội mới, không chỉ riêng đối với người bị kết án mà cả những người khác". 8
  12. Pháp luật hình sự Mỹ (Đ3 - 101 Điều 3 "Các hình phạt'' trong Luật mẫu năm 1978 về quyết định và thi hành hình phạt), tại các quy phạm liên quan đến các mục đích của hình phạt đã khẳng định những đặc điểm cơ bản như sau: 1. Khi trừng trị kết án cần phải đảm bảo việc quyết định hình phạt cho phù hợp với tội phạm mà người đó đã thực hiện. 2. Khi quy định tính chất ngăn ngừa hợp pháp của bản án và thủ tục công bằng trong việc tuyên án phải đảm bảo sự đối xử công minh với tất cả những người bị kết án bằng cách loại trừ sự bất bình đẳng không thể chấp nhận được trong việc thi hành hình phạt. 3. Ngăn ngừa việc phạm tội và đảm bảo sự tôn trọng pháp luật được thực hiện bằng cách: a) Tìm phương pháp có hiệu quả để răn đe những người khác có khả năng thực hiện tội phạm tương tự; b) Cách ly những người có quá khứ về hình sự lâu dài (ý nói những kẻ phạm tội hình sự chuyên nghiệp); c) Hỗ trợ cho việc thực hiện các chương trình cải tạo nhằm mục đích đạt được sự tự nguyện trong việc hợp tác và tham gia của những người phạm tội vào các chương trình đó. Luật hình sự Việt Nam có quan điểm chính thức của Nhà nước về mục đích hình phạt, thể hiện tại Bộ luật Hình sự năm 1985 và Bộ luật Hình sự 1999. Theo đó: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [10, Điều 27]. Tuy đã được quy định trong luật nhưng cho đến nay mục đích của hình phạt vẫn là một đề tài tranh luận khá gay gắt trong giới luật học trong nước. Vấn đề tranh luận chủ yến xoay quanh việc có thừa nhận hình phạt có mục đích trừng trị hay không. 9
  13. Một số nhà luật học cho rằng: Người bị kết án phải bị trừng trị để bảo vệ lợi ích xã hội và Nhà nước, đem đến công bằng xã hội. Chính vì điều đó nên mục đích của hình phạt bên cạnh phòng ngừa tội phạm, giáo dục, cải tạo phải có sự trừng trị. Bên cạnh đó, phần lớn các quan niệm lại đồng nhất với nhau khi cho rằng mục đích của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội. Trừng trị chỉ là biện pháp để đạt được mục đích đó Khi phân tích Điều 27 Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999, nhiều người cho rằng, sự thật hiển nhiên, luật hình sự đã quy định mục đích trừng trị của hình phạt là một lẽ tất nhiên không thể phủ nhận. Bản chất của hình phạt là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, của xã hội, là công cụ "bảo vệ xã hội khỏi các vi phạm điều kiện tồn tại của nó" [28, tr.513]. Trừng trị vừa là thuộc tính, vừa là nội dung vừa là phương thức thực hiện hình phạt. Với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự, trừng trị không thể là mục đích của hình phạt. Theo quan điểm của cá nhân tôi, mục đích của hình phạt bao gồm hai mục đích chính là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Mục đích cuối cùng, cơ bản và quan trọng nhất của hình phạt là bảo đảm công bằng xã hội. Công bằng xã hội đòi hỏi hình phạt phải có tính trừng trị. Công bằng xã hội vừa là xuất phát điểm, vừa là giới hạn của trừng trị trong hình phạt. Có những người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng bị tước quyền sống, có những người chỉ bị tước tự do… Từng giới hạn hình phạt đảm bảo cho công bằng xã hội được thiết lập và duy trì vững chắc. Song song với bảo đảm công bằng xã hội, hình phạt còn hướng tới mục đích phòng ngừa tội phạm. Trong mục đích này tồn tại ba nội dung cơ bản: - Cải tạo và giáo dục người bị kết án, đồng thời ngăn ngừa họ phạm tội mới - ngăn ngừa riêng. Tác động của phòng ngừa riêng chủ yếu ở sự giáo 10
  14. dục cho người phạm tội nhận thức đầy đủ và đúng đắn về pháp luật, hướng người phạm tội hoàn lương, kìm chế không cho họ phạm tội mới. - Góp phần giáo dục các thành viên khác trong xã hội ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật - ngăn ngừa chung. Hình phạt có tác động nâng cao ý thức pháp luật của công dân, ngăn cản và phòng ngừa họ có các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Hiệu quả phòng ngừa chung phụ thuộc một phần quan trọng vào kết quả phòng ngừa riêng. Nếu phát sinh xung đột giữa phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng thì mục đích của phòng ngừa riêng phải dựa vào phòng ngừa chung. - Hỗ trợ cho cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Ở góc độ này, hình phạt có tác dụng giáo dục, động viên, tập hợp quần chúng nhân dân tham giam vào quá trình đấu tranh phòng và chống tội phạm. Bên cạnh đó, hình phạt là công cụ để cơ quan thi hành pháp luật tiến hành các hoạt động tố tụng của mình để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội và Nhà nước. Tóm lại, trừng trị và cải tạo, giáo dục là phương tiện để hình phạt đạt được mục đích cuối cùng là bảo đảm công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm. Với từng hình phạt cụ thể, nội dung thực chất của mục đích hình phạt cũng theo đó mà đậm nhạt khác nhau. Điều đó dẫn đến đòi hỏi sự linh hoạt tối đa của những người cầm cân nẩy mực trong các quyết định hình phạt. Một hình phạt không công bằng sẽ không có tác dụng cải tạo người phạm tội và răn đe, giáo dục chung đối với xã hội. Sự công bằng phải luôn được duy trì song song với phòng ngừa tội phạm (đặc biệt là phòng ngừa chung) sẽ đem đến hiệu quả cao cho hình phạt. 1.1.3. Hệ thống hình phạt Hệ thống hình phạt được xây dựng phụ thuộc vào các điều kiện, hoàn cảnh xã hội, yêu cầu của công tác phòng ngừa và chống tội phạm, lý luận về 11
  15. hình phạt trong nước và quốc tế cũng như kinh nghiệm lập pháp hình sự. Số lượng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt của mỗi nước, mỗi thời kỳ có sự khác biệt và thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố tác động nói trên. Nhưng nhìn chung: Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Pháp luật hình sự, căn cứ vào mức độ nghiêm khắc của mỗi loại được sắp xếp thành một danh mục cụ thể theo trình tự nhất định từ nhẹ đến nặng (hay ngược lại) và chỉ do Tòa án quyết định trong bản án kết tội đối với bị cáo vì đã thực hiện tội phạm [19, tr. 688]. Điều này đã lý giải rất rõ ràng cho sự thay đổi (lược bớt hoặc quy định thêm) các hình phạt quy định trong pháp luật hình sự. Đặc điểm của hệ thống hình phạt trong luật hình sự nước ta thể hiện tính đa dạng, cho phép trong mọi trường hợp thực hiện được nguyên tắc công bằng trách nhiệm, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc nhân đạo sâu sắc, kết hợp hài hòa các yếu tố cưỡng chế và thuyết phục. Các hình phạt nhằm khủng bố, trả thù, làm nhục hình, đày đọa thể xác và chà đạp phẩm giá của con người hoàn toàn không tồn tại trong các quy định hình sự liên quan. Lịch sử phát triển của luật hình sự Việt Nam cho thấy, trước khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời, chưa có bất kỳ văn bản pháp lý nào thống kê đầy đủ và chi tiết các loại hình phạt có tính chất bắt buộc với tòa án. Các hình phạt được quy định rải rác trong hai nhóm văn bản là các văn bản luật hình sự và các văn bản khác có tính chất hình sự và bao gồm 12 hình phạt: 1. Tử hình; 2. Tù chung thân; 3. Tù có thời hạn; 4. Cải tạo không giam giữ; 5. Tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. 6. Buộc phải bồi thường thiệt hại đã gây ra; 7. Tước một số quyền công dân; 8. Cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định hoặc làm nghề nhất định; 9. Cư trú bắt buộc; 10. Cấm cư trú; 11. Quản chế; 12. Phạt tiền. 12
  16. Bộ luật Hình sự 1985 ra đời tạo một bước ngoặt phát triển quan trọng của pháp luật hình sự. Lần đầu tiên một hệ thống hình phạt gồm 11 loại hình phạt được quy định chặt chẽ và chính xác với những điều kiện áp dụng cụ thể có tính chất bắt buộc với Tòa án thành một điều luật (Điều 21). Theo đó hình phạt cảnh cáo được quy định bổ sung, đồng thời các hình phạt buộc phải bồi thường thiệt hại đã gây ra, cư trú bắt buộc bị loại bỏ. Ngoài ra, có hai loại hình phạt nữa được quy định để áp dụng riêng đối với quân nhân phạm tội là: Cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội và Tước danh hiệu quân nhân. Điều 28, Bộ luật Hình sự 1999 quy định hệ thống hình phạt như sau: Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. 1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù chung thân; g) Tử hình. 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; b) Cấm cư trú; c) Quản chế; d) Tước một số quyền công dân; đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. 3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung [10]. Bộ luật Hình sự hiện hành đã đưa ra một hệ thống hình phạt mà ở đó các hình phạt được sắp xếp theo trật tự nhất định. Các điều luật quy định cụ thể từng loại hình phạt bao gồm nội dung, điều kiện áp dụng, phạm vi và giới hạn áp dụng. Hệ thống hình phạt của Bộ luật Hình sự 1999 đã ghi nhận hình phạt tiền và hình phạt trục xuất là hai hình phạt vừa là chính vừa là bổ sung. 13
  17. Cũng từ đây, hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội cũng không còn được áp dụng. Tiến trình phát triển của luật hình sự đã chỉ ra các hình phạt trong luật hình sự Việt Nam được quy định thành hệ thống hình phạt với hai loại hình phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt cụ thể của hai loại hình phạt này đều được Luật hình sự quy định cụ thể về nội dung, mức độ cũng như về điều kiện áp dụng. Căn cứ chủ yếu để phân biệt hình phạt chính với hình phạt bổ sung là khả năng áp dụng hình phạt đối với mỗi tội phạm. Về nguyên tắc, hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập, mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một hình phạt chính. Hình phạt bổ sung là hình phạt không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo một hình phạt chính đối với một tội phạm. Nghiên cứu về khái niệm và đặc điểm của hệ thống hình phạt, chúng ta hướng tới xây dựng một hệ thống hình phạt hoàn thiện đáp ứng các tiêu chí chủ yếu: - Các quy định về hình phạt tại phần chung và các chế tài cụ thể đối với tội phạm trong Phần riêng Bộ luật Hình sự phải được xây dựng một cách khoa học, cân đối và tương xứng với nhau. - Hệ thống hình phạt phải thể hiện rõ được tính chất và mức độ nghiêm khắc khác nhau của các loại hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của các nhóm tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Yêu cầu này đòi hỏi hệ thống hình phạt phải phản ánh được thực tại khách quan - phản ánh tội phạm, phải được xây dựng trong mối tương quan với các điều kiện xã hội, các biện pháp đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. - Hệ thống hình phạt phải có tính linh hoạt đảm bảo các điều kiện cần thiết để các loại hình phạt phát huy tác dụng của mình. - Hệ thống hình phạt phải có tính khả thi. Điều đó đòi hỏi việc quy định trình tự áp dụng các loại hình phạt trong hệ thống hình phạt phải tương 14
  18. ứng với sự phân chia các tội phạm thành các loại nhất định. Mặt khác, hệ thống hình phạt phải được quy định một cách cụ thể, rõ ràng và chính xác nội dung và điều kiện áp dụng, cũng như giới hạn tối thiểu và tối đa của các loại hình phạt. 1.2. HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ 1.2.1. Khái niệm 1.2.1.1. Bản chất pháp lý Cải tạo không giam giữ được quy định tại Điều 31 Bộ luật Hình sự 1999 như sau: 1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. 2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. 3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc 15
  19. biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án [10]. Mục đích đảm bảo công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm của hình phạt đòi hỏi các hình phạt phải được xây dựng đa dạng và linh hoạt. Cải tạo không giam giữ là một hình phạt đáp ứng được yêu cầu đó, được thực hiện bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy hiệu quả cao giữa trừng trị và cải tạo giáo dục. Bản chất của hình phạt vẫn là sự hạn chế tự do thể hiện ở việc người bị kết án dù được cải tạo, giáo dục tại địa phương nhưng tự bản thân họ luôn biết rằng mọi việc làm của họ đều bị theo dõi, giám sát, hoàn toàn không được tự do như bình thường Trong pháp luật hình sự Việt Nam, cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù, nặng hơn phạt tiền và cảnh cáo. Việc quy định hình phạt này đã tạo khả năng cho Tòa án có thể lựa chọn và áp dụng đối với các trường hợp phạm tội mà nếu áp dụng hình phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền thì chưa đủ tính chất để trừng trị và giáo dục răn đe người phạm tội, răn đe người khác, nhưng cũng không cần thiết phải sử dụng hình phạt tù - hình phạt mà tính trừng trị nghiêm khắc được đảm bảo rõ nét. Là hình phạt chính, vì vậy, khi Tòa án tuyên áp dụng cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể đồng thời tuyên một hoặc nhiều hình phạt bổ sung kèm theo. Theo tinh thần Nghị quyết 49 -NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cải tạo không giam giữ được đánh giá cao và lựa chọn là một trong những phương pháp đảm bảo cho hoạt động phòng và chống tội phạm ngày càng phát huy hiệu quả. Cũng như các hình phạt khác, cải tạo không giam giữ một mặt có tính cả đến đặc điểm của hình phạt nhưng mặt khác có nội dung, điều kiện và giới hạn áp dụng cụ thể riêng. 16
  20. 1.2.1.2. Đặc điểm - Điểm nổi bật của hình phạt này chính là khả năng tiến hành trừng trị và giáo dục, cải tạo người bị kết án nhưng không cần cách ly họ ra khỏi xã hội. Người bị kết án được thi hành án trong môi trường bình thường trước sự giám sát, giáo dục của cơ quan tổ chức hoặc chính quyền địa phương cụ thể. Người bị kết án hoàn toàn được quyền tham gia lao động, được bố trí làm việc trong những vị trí hợp lý, được sinh hoạt bình thường, được trả công lao động và tiếp tục hưởng các chế độ xã hội như họ đã từng được hưởng trước khi phạm tội và bị kết án. - Khác với các hình phạt tù, việc thi hành án cải tạo không giam giữ không phải được giao cho một cơ quan chuyên trách thực hiện. Thẩm quyền giám sát giáo dục này thuộc về cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người bị kết án cư trú hoặc lao động sản xuất. Hình phạt này thể hiện rất rõ chính sách xã hội hóa công tác thi hành án của Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây. Sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức và gia đình người bị kết án là điều cần thiết để tạo ra hiệu quả của hình phạt này. Những cơ quan này được tự do thực hiện các biện pháp giám sát để quản lý người bị kết án. Pháp luật hiện hành quy định rất cụ thể về các cơ quan, tổ chức có thể được tòa án giao trách nhiệm giáo dục, giám sát là: + Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án, nếu người đó là cán bộ, công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo; + Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người bị kết án là quân nhân, công nhân quốc phòng; + Doanh nghiệp, hợp tác xã nếu người bị kết án là người lao động làm công ăn lương; + Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu người đó không thuộc đối tượng của ba cơ quan, tổ chức trên. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2