Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 5
download
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó đánh giá chính xác nhất về giá trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý để từ đó đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ VIỆT HÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân HÀ NỘI - 2015 2
- Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ ViÖt Hµ 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP 7 PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của 12 luật sư 1.2.1. Khái niệm luật sư 12 1.2.2. khái niệm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 15 1.2.3. Đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam 20 1.2.4. Ý nghĩa hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 25 1.3. Mô hình trợ giúp pháp lý của luật sư ở một số nước trên thế giới 27 1.4.1. Tập thể luật sư của Ấn Độ 29 1.4.2. Quỹ đoàn luật sư thành phố tại thành phố New York 30 1.4.3. Trung tâm hỗ trợ pháp lý Nhật Bản 30 1.4.4. Một số đặc điểm chung về luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý 31 trên thế giới Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ 33 GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 33 sư từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay 2.1.1. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 33 sư từ sau cách mạng tháng tám 1945 đến năm 1987 2.1.2. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 36 sư từ năm 1987 đến năm 2006 4
- 2.1.3. Thực trạng pháp luật về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 41 sư từ năm 2006 đến nay 2.2. Thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 43 2.2.1. Số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý 43 2.2.2. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư 46 2.2.3. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư 49 2.2.4. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng của luật sư 51 2.2.5. Các hình thức trợ giúp pháp lý khác 52 2.3. Đánh giá chung về thực trạng hoạt động trợ giúp pháp lý của 53 luật sư 2.3.1. Những ưu điểm về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 53 2.3.2. Những bất cập, hạn chế về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư 55 2.3.3. Nguyên nhân 57 Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI 60 TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM 3.1. Các yêu cầu về bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp 60 pháp lý của luật sư ở Việt Nam 3.1.1. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 60 sư phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa 3.1.2. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 62 sư phải quán triệt quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp 3.1.3. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 63 sư ở Việt Nam phải gắn liền với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển trợ giúp pháp lý 3.1.4. Bảo đảm và tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật 64 sư ở Việt Nam gắn liền với chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý 5
- 3.1.5. Bảo đảm, tăng cường hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở 68 Việt Nam phải tương thích với hoạt động trợ giúp pháp lý của các luật sư trong khu vực và trên thế giới 3.2. Những giải pháp nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động 69 trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 3.2.1. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về trợ giúp pháp lý 69 3.2.2. Tăng cường công tác thông tin, truyền thông về trợ giúp pháp 71 lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của người dân nói riêng 3.2.3. Kiện toàn, nâng cao năng lực đội ngũ luật sư tham gia trợ 72 giúp pháp lý 3.2.4. Xây dựng nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý của luật sư 73 3.2.5. Hoàn thiện chế độ chính sách đối với luật sư thực hiện trợ 82 giúp pháp lý 3.2.6. Tăng cường hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý 83 3.2.7. Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động trợ giúp 84 pháp lý của luật sư KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chủ trương của Đảng về việc "cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân... nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật", ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên và có hiệu lực cao nhất về lĩnh vực trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý ở nước ta. Công tác trợ giúp pháp lý sau 17 năm hình thành và phát triển đã đạt được những kết quả quan trọng: 63 Trung tâm, 199 Chi nhánh với 1.244 biên chế trong đó có 483 là Trợ giúp viên pháp lý (trung bình mỗi Trung tâm có 08 Trợ giúp viên pháp lý) và 8.980 cộng tác viên trong đó có 1.055 luật sư chiếm 11,7%. Từ khi mạng lưới tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được thành lập đến nay, tổng số vụ việc trợ giúp pháp lý đã được thực hiện là là 1.825.178 vụ việc trợ giúp được cho 1.891.425 đối tượng, trung bình mỗi năm đã có trên 100 nghìn vụ việc được thực hiện, để đáp ứng được nhu cầu này thì số lượng Trợ giúp viên pháp lý hiện nay của các Trung tâm là không đủ đặc biệt là số lượng vụ việc tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng của người được trợ giúp pháp lý ngày càng tăng. Không chỉ dừng lại ở việc tranh tụng tại Tòa án đối với các vụ án hình sự, hoạt động tham gia tố tụng của tổ chức trợ giúp pháp lý còn được hiểu là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong vụ án dân sự, lao động... đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW: "Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ 7
- động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình" [19]. Việc có mặt của Trợ giúp viên pháp lý hay luật sư là cộng tác viên của tổ chức trợ giúp pháp lý tại phiên tòa, trong quá trình tố tụng là điều vô cùng cần thiết nhằm góp phần đem lại những phán quyết phù hợp với pháp luật cho mỗi người dân đặc biệt là những nhóm người yếu thế trong xã hội. Đồng thời, luật sư tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý đã thể hiện được chức năng xã hội nghề nghiệp của luật sư trong việc góp phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, từ thực tiễn hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư cũng bộc lộ những khó khăn, hạn chế, yếu kém làm ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động này. Vì vậy, cần nghiên cứu một cách đầy đủ các yếu tố tác động hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư như: số lượng luật sư nói chung và số lượng luật sư tham gia trợ giúp pháp lý tại một số địa phương còn thấp, chất lượng luật sư chưa cao, kinh phí bảo đảm cho hoạt động này còn nhiều thiếu thốn và hạn chế chưa tương xứng với nhiệm vụ... Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, việc nghiên cứu đề tài: "Hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay" là yêu cầu khách quan, cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2. Tình hình nghiên cứu Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ quan trọng hệ thống chính trị trong đó ngành Tư pháp giữ vai trò trung tâm. Việc ban hành chính sách trợ giúp pháp lý và triển khai chính sách này trên thực tế đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng chính sách trên phương diện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đánh dấu bước phát 8
- triển vượt bậc của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam - xóa đói giảm nghèo về cả vật chất và tinh thần, tạo điều kiện cho người chịu thiệt thòi trong xã hội được bình đẳng tiếp cận với pháp luật, công bằng trước pháp luật. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp Bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến lĩnh vực trợ giúp pháp lý, cụ thể như sau: Luận án tiến sĩ Luật học "Điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới" của Tạ Thị Minh Lý. Luận án đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý của điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý; thực trạng điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện đổi mới. Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" của Vũ Hồng Tuyến. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn về người thực hiện trợ giúp pháp lý, từ đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý. Luận văn thạc sĩ Luật học "Bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý" của Phan Thị Thu Hà. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về quyền được trợ giúp pháp lý và các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người dân. Luận văn thạc sĩ Luật học "Phát triển trợ giúp pháp lý ở cơ sở" của Đặng Thị Loan. Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn về các mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở và đưa ra các giải pháp để phát triển mô hình trợ giúp pháp lý ở cơ sở. Luận văn thạc sĩ Luật học "Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam" của Phạm Quang Đại. Luận văn đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý cũng như làm rõ thực trạng chất 9
- lượng trợ giúp pháp lý hiện nay và quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý. Luận văn thạc sĩ Luật học "Pháp luật về Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam" của Nguyễn Thị Mận. Luận văn nghiên cứu lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý và tổ chức, hoạt động của Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam từ đó làm rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa của Quỹ, đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động của Quỹ. Các công trình trên đã nghiên cứu các mặt, khía cạnh khác nhau của hoạt động trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, đến nay vấn đề đánh giá vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và tổng thể về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, với đề tài "Hoạt động trợ giúp pháp lý của Luật sư ở Việt Nam hiện nay", tác giả luận văn sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vấn đề có liên quan cả về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần tìm ra giải pháp, định hướng phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trên cơ sở đó đánh giá chính xác nhất về giá trị của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý để từ đó đưa ra định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian tới. Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu các nội dung sau đây: - Các khái niệm, đặc điểm hoạt động trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. - Phân tích đánh giá thực trạng và hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam trong thời gian qua, phát hiện những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân để có giải pháp hoàn thiện. 10
- - Nghiên cứu quan điểm đổi mới, hoàn thiện hoạt động trợ giú pháp lý của luật sư ở Việt Nam. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trợ giúp pháp lý là một lĩnh vực tương đối rộng, bao gồm nhiều khái niệm, đối tượng, phương thức, phạm vi, mô hình tổ chức, quản lý nhà nước... về trợ giúp pháp lý, do đó cần nhiều công trình nghiên cứ với quy mô và thời gian thích hợp. Về phần đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý do luật sư thực hiện với những vấn đề liên quan đến tiêu chuẩn, điều kiện để luật sư có thể tham gia thực hiện trợ giúp pháp, cũng như các quyền, nghĩa vụ, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư khi thực hiện trợ giúp pháp lý. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở cơ sở lý luận và thực tiễn, thực trạng, phương hướng hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý và pháp luật về luật sư để bảo đảm cho vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý đạt kết quả tốt nhất. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm của Đảng về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý nói riêng. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Luật sư và các văn bản hướng dẫn thi hành. - Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng thời, tác giả còn sử dụng phương pháp khai thác và sử dụng các tư liệu thực tiễn, kết quả khảo sát để hoàn chỉnh luận văn. 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải 11
- pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam hiện nay. Luận văn đã nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, pháp lý về trợ giúp pháp lý nói chung và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư nói riêng; đánh giá đúng những kết quả đã đạt được của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý, cũng như phát hiện những khó khăn, hạn chế, tồn tại làm ảnh hưởng đến hoạt động này của luật sư; từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp nhằm nâng cao hoạt động này. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chính sách liên quan đến hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư trong thời gian tới. Đồng thời, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư. Chương 2: Thực trạng pháp luật và hoạt động trợ giúp pháp lý của luật sư ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của luật sư trong hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. 12
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 1.1. KHÁI NIỆM TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nguồn gốc từ tiếng Anh là "legal aid" được sử dụng phổ biến trên thế giới từ giữa thế kỷ 20. Theo đó "legal aid" được dịch ra tiếng Việt với nhiều tên gọi và thuật ngữ khác nhau. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì "legal aid" có nghĩa là "trợ cấp pháp lý". Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì "legal aid" trong cụm từ "legal aid schem" (kế hoạch bảo trợ tư pháp) có nghĩa là "bảo trợ tư pháp". Trong một số tài liệu khác còn dịch là "hỗ trợ pháp luật", "hỗ trợ pháp lý" hoặc "hỗ trợ tư pháp". Từ điển Anh - Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999) không đưa ra thuật ngữ chung bằng tiếng Việt về cụm từ "legal aid" mà diễn giải nghĩa của thuật ngữ này bằng tiếng Việt là "lấy tiền từ công quỹ để trả chi phí cho việc cố vấn hoặc làm đại diện pháp lý". Thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" là một cụm từ ghép "trợ giúp" và "pháp lý". Theo Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là "giúp đỡ" [44, tr. 767], pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật" [44, tr. 1045]. Theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, thì "trợ giúp" là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn "pháp lý" là "nguyên lý của pháp luật" [24, tr. 1431]. Theo Đại Từ điển tiếng Việt, thì "trợ giúp" được hiểu là "sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì, lúc khó khăn, đang lúc cần đến", thuật ngữ "pháp lý" được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, nói một cách khái quát pháp lý là lý luận; theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, 2006, thì pháp lý 13
- là những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật của một quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý luận về pháp luật [45, tr. 606]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay "hỗ trợ" cũng có thể được hiểu là "trợ giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần và cái họ đang cần ở đây là pháp lý. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa với thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nhưng thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu bật được sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trường hợp có khó khăn về mặt pháp lý. Ở Việt Nam, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu từ năm 1995, bắt đầu từ Đề án nghiên cứu về hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam của Bộ Tư pháp. Đến năm 1996, thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay" của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tiếp đó, các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện Quyết định 734/TTg và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác cũng đề cập đến thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" như Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư ban hành kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BTP ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp… Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách khác của Nhà nước đã nhắc đến thuật ngữ "Trợ giúp pháp lý". Đặc biệt, tại Điều 3, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 đã đưa ra khái niệm về trợ giúp pháp lý như sau: 14
- Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật [35]. Đồng thời, qua tham khảo một số khái niệm về trợ giúp pháp lý của một số nước trên thế giới, có thể thấy đa số các nhà quản lý cũng như các nhà xây dựng pháp luật đều đưa ra khái niệm về trợ giúp pháp lý trên cơ sở lý luận về dân chủ, nhân quyền và bảo đảm quyền con người, họ cho rằng trợ giúp pháp lý chính là một biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho nhóm người yếu thế trong xã hội không có điều kiện tiếp cận và sử dụng pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Tuy về ngữ nghĩa, nội dung và cách biểu đạt của mỗi quốc gia khác nhau nhưng trên cơ bản khái niệm về trợ giúp pháp lý đều hàm chứa tính chất chung của trợ giúp pháp lý là hoạt động mang tính kinh tế, xã hội và nhân đạo. Với những phân tích về nội hàm thuật ngữ "trợ giúp pháp lý" nêu trên, trợ giúp pháp lý có một số thuộc tính như sau: - Trợ giúp pháp lý là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc thù. Trợ giúp pháp lý mang những đặc điểm chung của một loại hình dịch vụ pháp lý (về chủ thể thực hiện, do những người có trình độ am hiểu pháp luật thực hiện; về mục đích, đối tượng: đáp ứng nhu cầu cần giúp đỡ về pháp luật của một bộ phận người dân; về nội dung dịch vụ cung cấp: pháp luật; về quy trình thực hiện: trên cơ sở các quy định của pháp luật). Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý có tính đặc thù, đó là: chủ thể thực hiện bao gồm Nhà nước và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt tổ chức thực hiện; về mục đích, đối tượng: giúp đỡ về pháp luật cho những người có hoàn cảnh đặc biệt không đủ khả năng để 15
- sử dụng các dịch vụ pháp lý thông thường như: người nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật, trẻ em, người già cô đơn không nơi nương tựa…; về nội dung dịch vụ cung cấp: giúp đỡ về pháp luật thông qua các hình thức như tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, giúp đỡ thực hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính, giải quyết khiếu nại…; về quy trình thực hiện: trên cơ sở các nguyên tắc và quy định của pháp luật, nhằm bảo đảm chất lượng và mục đích của nó là giúp đỡ, hỗ trợ mà không phải là cung cấp dịch vụ có tính chất ngang giá; miễn hoặc giảm phí). Tính chất đặc thù của trợ giúp pháp lý thể hiện rõ nét nhất đó là trợ giúp pháp lý không phải là dịch vụ pháp lý có tính chất ngang giá, thỏa thuận giữa chủ thể cung cấp và đối tượng cung cấp mà nó có mục đích giúp đỡ, hỗ trợ cho những người có hoàn cảnh đặc biệt (không có khả năng tiếp cận với dịch vụ pháp lý có thu phí) tiếp cận và sử dụng pháp luật để nâng cao nhận thức pháp luật, tự bảo vệ hoặc được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhằm bảo đảm công bằng trong tiếp cận pháp luật giữa nhóm người này với những người khác có điều kiện kinh tế trong xã hội. Vì vậy, so với dịch vụ pháp lý chung, trợ giúp pháp lý có đối tượng, phạm vi, lĩnh vực pháp luật trợ giúp, tổ chức, người thực hiện hẹp hơn. Ở Việt Nam, cách tiếp cận của Luật Trợ giúp pháp lý về khái niệm trợ giúp pháp lý cũng phù hợp với tính chất của hoạt động này trong lịch sử hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý trên thế giới. Đó là giúp đỡ cho những đối tượng yếu thế trong xã hội (chủ yếu về kinh tế) tiếp cận với dịch vụ pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Đồi thời, cũng thể hiện rõ đặc thù của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam. Hoạt động trợ giúp pháp lý mở rộng và vươn tới không chỉ người nghèo mà còn đối với người có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em không nơi nương tựa, người được trợ giúp pháp lý theo các Điều ước 16
- quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Những vụ việc về tố tụng (hình sự, dân sự, lao động, đất đai…) liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp và thiết thực của người nghèo và đối tượng chính sách nhưng họ không có luật sư đại diện, bào chữa để bảo vệ hoặc trong những vụ việc do cơ quan, cán bộ nhà nước giải quyết chưa thỏa đáng, có vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của người dân đã được trợ giúp pháp lý thông qua nhiều hình thức. Ngoài ra, trợ giúp pháp lý ở Việt Nam còn có điểm đặc thù khác là kiến nghị thi hành pháp luật (gồm: kiến nghị giải quyết vụ việc trợ giúp pháp lý, kiến nghị công vụ và kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới văn bản pháp luật). Đối tượng thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí không phải trả bất kỳ một khoản lệ phí nào, kể cả lệ phí giấy tờ khi yêu cầu trợ giúp và thuê luật sư. Các chi phí sẽ do ngân sách Nhàn ước bảo đảm hoặc được huy động trong cộng đồng, sự hỗ trợ của các tổ chức nước ngoài và quốc tế thông qua các Dự án hoặc Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam. Trợ giúp pháp lý miễn phí đã trở thành nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý còn là một dịch vụ pháp lý chứa đựng tính nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu hướng tới, đối tượng phục vụ là những người có hoàn cảnh đặc biệt cần phải được Nhà nước và xã hội quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ. Sự hỗ trợ này sẽ làm giảm bớt những khó khăn của nhóm đối tượng yếu thế, góp phần tạo sự công bằng trong xã hội. Trợ giúp pháp lý thể hiện tính chính trị - xã hội: Trợ giúp pháp lý được xác định là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, thuộc chức năng xã hội của Nhà nước nhằm góp phần khắc phục sự bất bình đẳng trong tiếp cận với pháp luật và xóa nghèo về pháp luật. Thông qua đó, góp phần thiết lập sự ổn định về chính trị, bảo vệ chế độ chính trị và các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước, làm tăng niềm tin của người dân và chế độ. Trợ giúp pháp lý là một trong những phương thức có hiệu quả để Nhà 17
- nước giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, giữ đoàn kết cộng đồng, bảo đảm ổn định trật tự và an toàn xã hội. Trợ giúp pháp lý mang tính pháp lý rõ nét bởi chính phương thức hoạt động và mục đích hướng tới của nó. Trợ giúp pháp lý là sự giúp đỡ, hỗ trợ về các vấn đề có liên quan đến pháp luật như tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được Trợ giúp pháp lý theo quy định, góp phần tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống tạo cơ hội tiếp cận pháp luật thuận lợi cho các đối tượng này. Trợ giúp pháp lý ở một số nước nhấn mạnh đến tính pháp lý như Hàn Quốc: Trợ giúp pháp lý là việc một luật sư hoặc một cán bộ pháp lý nhà nước cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật, đại diện hoặc các dịch vụ trợ giúp khác có liên quan đến pháp luật. Ở Anh, xứ Wales, Trợ giúp pháp lý được hiểu là giúp đỡ cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi trả cho việc tư vấn, hỗ trợ và đại diện pháp lý; ở Đức, trợ giúp pháp lý là việc giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước Tòa án. 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ CỦA LUẬT SƯ 1.2.1. Khái niệm luật sư Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, khi xã hội được phân chia thành giai cấp thì xuất hiện đấu tranh giai cấp nhằm bảo vệ quyền cơ bản của con người. Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi viết bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy trong Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789) những giá trị bền vững: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". 18
- Xuất phát từ nguyên lý, ở đâu có sự buộc tội, hoặc sự khởi kiện trước cơ quan tư pháp thì ở đó có sự gỡ tội, sự chống lại việc khởi kiện; khi có bên bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo thì cũng phải có bên bảo vệ cho người bị hại; khi có bên nguyên đơn khởi kiện về vấn đề dân sự, hành chính thì bao giờ cũng có bên bị đơn dân sự, hoặc những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Mặt khác, trong thực tế hoạt động tố tụng hình sự, bên buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người tiến hành tố tụng) là chuyên gia buộc tội dày dạn kinh nghiệm thực tiễn với khả năng hùng biện, am hiểu tường tận pháp luật, là người đại diện cho quyền lực của nhà nước có đủ khả năng pháp lý. Ngược lại, bị can, bị cáo, và những người tham gia tố tụng có quyền lợi pháp lý khác luôn ở địa vị bất lợi, là người có trình độ văn hóa thấp, vị trí xã hội thấp kém, không hiểu hoặc hiểu biết pháp luật hạn chế, kinh nghiệm tham gia tố tụng chưa có, tâm trạng bất ổn định, lo lắng, bị sức ép về mặt tâm lý, không quen nói trước đám đông v.v... Chính vì thế, cần thiết phải có một tổ chức, mà pháp luật quy định là tổ chức hành nghề Luật sư bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi liên quan đến vụ án. Bằng hoạt động của mình, tổ chức luật sư góp phần tích cực bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và các tổ chức; góp phần vào việc giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật; góp phần thực hiện quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa; giáo dục công dân tuân theo Hiến pháp, pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Hiện nay theo quy định của pháp luật thì luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Tại Điều 2 Luật Luật sư 19
- năm 2006 quy định "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức" [34]. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư như sau "Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [34]. Ngoài ra, người có đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư muốn hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật và gia nhập một Đoàn luật sư. Nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì việc hành nghề luật sư còn phải tuân theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề. Vì vậy, xét về bản chất thì luật sư có những tính chất cơ bản như sau: Thứ nhất, tính chất trợ giúp: nói đến trợ giúp là nói đến sự giúp đỡ, bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị trí thấp kém. Những người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính chất này thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư. Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ những vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo đức, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện pháp nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn