Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
lượt xem 15
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự"; thực tiễn thực hiện chức năng này của VKS dựa trên kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế từ đó luận văn đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ NHIÊN KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ NHIÊN KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí HÀ NỘI - 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để cho tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn. NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thị Nhiên
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ 7 VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án 7 hình sự 1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 9 1.1.2. Đặc điểm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 11 1.1.3. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 12 1.2. Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong khởi tố vụ án hình sự 13 1.2.1. Sự hình thành và phát triển chức năng kiểm sát các hoạt động tư 13 pháp trong luật tố tụng hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay 1.2.2. Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn 17 khởi tố vụ án hình sự 1.2.3. Mối quan hệ giữa kiểm sát các hoạt động tư pháp với thực 21 hành quyền công tố trong tố tụng hình sự Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP 28 TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN KIỂM SÁT 2.1. Quy định của pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong 28 giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 2.1.1. Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội 28 phạm và kiến nghị khởi tố
- 2.1.2. Kiểm sát quyết định khởi tố và quyết định không khởi tố vụ 36 án hình sự 2.1.3. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ 40 2.2. Thực tiễn kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố 52 vụ án hình sự 2.2.1. Tình hình và kết quả áp dụng trong thực tiễn 52 2.2.2. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình kiểm sát hoạt động tư 58 pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm sát 68 khởi tố vụ án hình sự 2.3.1. Quy định của pháp luật 68 2.2.2. Trình độ, năng lực nghiệp vụ trong áp dụng pháp luật của 69 Kiểm sát viên còn hạn chế 2.2.3. Điều kiện cơ sở vật chất và công tác tổ chức cán bộ chưa đáp 70 ứng yêu cầu Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU 72 QUẢ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 3.1. Cơ sở và định hướng của việc nâng cao hiệu quả kiểm sát 72 hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 3.1.1. Cơ sở của việc nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp 72 trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 3.1.2. Định hướng của việc nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư 76 pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự 3.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật 78 3.3. Các giải pháp khác 83 3.3.1. Giải pháp, kiến nghị để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ 83 3.2.2. Giải pháp, kiến nghị về công tác cán bộ của ngành kiểm sát 85 3.3.3. Giải pháp, kiến nghị về cơ sở vật chất 90 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Số liệu VKS đã yêu cầu CQĐT khởi tố và CQĐT đã khởi 55 tố theo yêu cầu của VKS 2.2 Số liệu thống kê trường hợp VKS hủy quyết định khởi tố 56 của CQĐT; VKS hủy quyết định không khởi tố của CQĐT cả nước từ năm 2013 - 2015 2.3 Số liệu người bị tạm giữ và tỷ lệ khởi tố vụ án hình sự 57 của cả nước từ năm 2006 - 2015 2.4 Số liệu các trường hợp CQĐT đình chỉ (khoản 2 Điều 107 61 BLTTHS) của cả nước từ 2010 đến 2015 2.5 Số liệu các trường hợp VKS đình chỉ (khoản 2 Điều 107 62 BLTTHS) của cả nước từ 2010 đến 2015 2.6 Số liệu về lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT không được VKS 64 phê chuẩn từ năm 2006 - 2015 2.7 Số liệu VKS đã hủy bỏ quyết định tạm giữ theo khoản 3 67 Điều 86 BLTTHS và không phê chuẩn gia hạn tạm giữ của CQĐT từ năm 2010 - 2015 của cả nước 2.8 Số liệu thống kê của Vụ 8, VKSNDTC về quá hạn tạm 68 giữ từ năm 2010 - 2015 của cả nước
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là một trong những chức năng của Viện kiểm sát (VKS), đây là giai đoạn kiểm sát đầu tiên của quá trình tố tụng. Việc kiểm sát chặt chẽ giai đoạn khởi tố vụ án giúp cho việc khởi tố vụ án đúng pháp luật, định hướng quá trình điều tra nhanh chóng, chính xác. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ trách nhiệm của VKS trong việc thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; trong đó "... hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự", không chỉ trong hoạt động công tố mà muốn kiểm sát chặt chẽ một vụ án hình sự nói chung phải đồng thời thực hiện tốt cả hai chức năng trong đó có chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp cũng phải được thực hiện từ giai đoạn khởi tố vụ án. Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án có ý nghĩa quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo đảm mọi tội phạm đã phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật; tránh bỏ lọt tội phạm. Đáp ứng yêu cầu này ngành Kiểm sát đã không ngừng nâng cao chất lượng trong việc kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố; kiểm sát chặt chẽ các căn cứ áp dụng bắt, tạm giữ, các căn cứ của các quyết định khởi tố vụ án hình sự và không khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền; kịp thời phát hiện những vi phạm của Cơ quan điều tra (CQĐT) trong giai đoạn khởi tố vụ án để có biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo quá trình khởi tố vụ án chính xác, đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh kết quả đạt được, quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của VKS vẫn còn có những hạn chế như nhiều nơi chưa chú trọng công tác kiểm sát tin báo tố giác tội phạm hoặc kiến nghị 1
- khởi tố nên tin báo giải quyết quá hạn còn nhiều; việc phát hiện các vi phạm của CQĐT trong quá trình bắt, tạm giữ còn hạn chế, vẫn để xảy ra trường hợp lạm dụng bắt khẩn cấp, tạm giữ, gia hạn tạm giữ không cần thiết; tình trạng khởi tố không đúng tội danh, oan, sai vẫn còn xảy ra... đã ảnh hưởng lớn đến quyền con người được pháp luật bảo vệ. Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên xuất phát từ việc các quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng; các bộ luật mới ra đời chưa có thông tư hướng dẫn; công tác phối hợp giữa VKS và CQĐT chưa chặt chẽ; trình độ một số cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát còn hạn chế… Trước yêu cầu cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra đòi hỏi vai trò của VKS không chỉ tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra mà còn tăng cường kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó nghiên cứu chuyên sâu chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án và thực tiễn thực hiện chức năng này là vấn đề cần thiết. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài "Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự không chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý mà còn thể hiện rõ vai trò của VKS trong quá trình kiểm sát giai đoạn khởi tố, giúp định hướng cho các giai đoạn tố tụng tiếp theo, đảm bảo quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật. Nghiên cứu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS, ở Việt Nam đã có các công trình nghiên cứu như sau: Ở cấp độ luận văn thạc sĩ có đề tài: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố, điều tra án hình sự của Nguyễn Thành Trì, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 1996; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Hải Phong, năm 1999; Kiểm sát việc tuân theo 2
- pháp luật trong giai đoạn khởi tố, điều tra án hình sự của Trần Công Hòa, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Thu Huệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004; Chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự của Võ Phước Long, năm 2007. Bài viết tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành: Tác giả Khuất Văn Nga, "Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Kiểm sát, số 7/2004; tác giả Nguyễn Minh Đức, "Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2006; tác giả Phạm Mạnh Hùng, "Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc khởi tố vụ án hình sự và việc kiểm sát việc khởi tố vụ án", Tạp chí Kiểm sát, số 02/2007; tác giả Lê Hữu Thể, "Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp", Tạp chí Kiểm sát, số 6/2008; tác giả Đào Trí Úc, "Đề xuất đổi mới Viện kiểm sát ở Việt Nam từ kinh nghiệm một số nước trên thế giới", Tạp chí Kiểm sát, số 12/2013... Trên cơ sở kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, ở nước ta chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu chức năng "Kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự"; thực tiễn thực hiện chức năng này của VKS dựa trên kết quả đạt được, những tồn tại 3
- hạn chế từ đó luận văn đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm sáng tỏ lý luận về giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; hoạt động kiểm sát khởi tố trong tố tụng hình sự (TTHS). - Nghiên cứu thực trạng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của VKS, đồng thời phân tích, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự - Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự kết hợp với thực tiễn thực hiện chức năng này, từ đó nghiên cứu giải pháp kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thực tiễn. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thời gian 10 năm (2006 -2015) trên địa bàn toàn quốc. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. 4
- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, trong đó nêu ra một số giải pháp kiến nghị nâng cao hiệu quả cho công tác kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự của VKS. Trong quá trình nghiên cứu tác giả cập nhật những điểm mới liên quan đến chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thể hiện Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKS năm 2014 (sửa đổi) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh giữa các quy định của BLTTHS năm 2003 với các quy định của BLTTHS năm 2015 để thấy được những điểm mới liên quan đến hoạt động kiểm sát khởi tố vụ án hình sự. Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ thực tiễn thực hiện kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; những tồn tại, hạn chế cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đã đề xuất giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự trong thực tiễn. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích cho các nhà nghiên cứu lập pháp, các cán bộ giảng dạy pháp luật, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự . Kết quả nghiên cứu của luận văn còn trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình. 5
- 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giai đoạn khởi tố và kiểm sát hoạt động khởi tố trong vụ án hình sự. Chương 2: Pháp luật về kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và thực tiễn kiểm sát. Chương 3: Những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VÀ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT KHỞI TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ Để giải quyết vụ án hình sự nói chung phải trải qua nhiều giai đoạn và do các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án. Mỗi giai đoạn TTHS có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi CQTHTT có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. Theo tác giả Lê Cảm cho rằng "quá trình giải quyết vụ án hình sự chia thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự". Cụ thể: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để xác định các tiền đề pháp luật về nội dung (vật chất) và về pháp luật về hình thức (tố tụng) của việc điều tra vụ án hình sự; thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi nhận được những thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội và kết thúc bằng quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự có liên quan đến hành vi đó. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành TTHS có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của CQĐT về việc đề nghị VKS truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. 7
- Giai đoạn truy tố có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi VKS nhận được các tài liệu của vụ án hình sự (bao gồm cả kết luận điều tra và đề nghị truy tố) do CQĐT chuyển đến và kết thúc bằng việc VKS ra một trong ba loại quyết định sau: 1) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng (kết luận về tội trạng), 2) Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc là 3) Đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án hình sự tương ứng). Giai đoạn xét xử vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định để: 1) Áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại phiên tòa, 2) Xét xử theo thủ tục sơ thẩm (hoặc xét xử theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản án hay quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật - nếu bị kháng nghị) và cuối cùng, 3) Tuyên bản án (quyết định) của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, giai đoạn TTHS được hiểu: Là bước của quá trình tố tụng hình sự tương ứng với chức năng nhất định trong hoạt động tư pháp hình sự của từng loại chủ thể tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định, có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc để giải quyết vụ án hình sự một cách công minh, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ vững chắc các quyền và tự do của công dân [7, tr. 24]. Bộ luật TTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản 8
- án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị. Nghiên cứu chuyên sâu về một giai đoạn cụ thể, luận văn này chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn khởi tố. Vì vậy, sau đây chúng tôi sẽ trình bày khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và hoạt động kiểm sát khởi tố trong TTHS. 1.1.1. Khái niệm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Trước khi bàn về khái niệm này, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm khởi tố vụ án hình sự như sau: Theo Từ điển Luật học thì: Khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này cơ quan có thẩm quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm [51, tr. 429]. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí cho rằng: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết định đó là quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự [8, tr. 64]. Tác giả Lê Cảm khái niệm: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng đầu tiên mà trong đó cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào các quy định 9
- của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành việc xác định việc có (hay không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó [7, tr. 26]. Các quan điểm trên đều có điểm chung cho rằng khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình tố tụng. Là một giai đoạn TTHS nên nó cũng có thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc. Do vậy, thời điểm bắt đầu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự được xác định kể từ khi các CQTHTT phát hiện hoặc tiếp nhận thông tin về tội phạm như: Tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; kiến nghị khởi tố của các cơ quan nhà nước; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm; người phạm tội tự thú. Thời điểm kết thúc của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là khi các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Khoảng thời gian của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự tùy thuộc vào tính phức tạp hay không phức tạp của các tin báo, tố giác về tội phạm mà các CQTHTT đã tiếp nhận, thụ lý. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 thì thời gian tối thiểu của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày và tối đa không quá bốn tháng kể từ khi CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiến hành kiểm tra, xác minh và ra quyết định giải quyết. Nhiệm vụ chính của giai đoạn này là các cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nhằm xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, ở giai đoạn khởi tố vụ án hình sự các CQTHTT chưa thể kết luận chính xác ngay được về tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu: Là giai đoạn đầu tiên của quá trình TTHS trong đó, các cơ quan có thẩm quyền xác định 10
- có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự nhằm làm cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo của quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.1.2. Đặc điểm giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Từ khái niệm chung nhất về khởi tố vụ án hình sự cho thấy giai đoạn này có đặc điểm chính sau đây: Thứ nhất, giai đoạn khởi tố vụ án là giai đoạn TTHS đầu tiên, có thời hạn được xác định từ khi các CQTHTT phát hiện hoặc tiếp nhận các tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thời điểm kết thúc khi các CQTHTT ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ hai, nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự chỉ xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố, ngoài các CQTHTT (CQĐT, VKS, Tòa án) còn có những cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như cơ quan Kiểm lâm, Hải quan,... Những cơ quan này trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm sẽ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thứ tư, các biện pháp mà các cơ quan có thẩm quyền được sử dụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Biện pháp yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân cung cấp tài liệu cần thiết liên quan đến thông tin về tội phạm; yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc công dân có liên quan giải thích làm rõ sự việc; khám nghiệm hiện trường và tiến hành các biện pháp khác theo quy định của pháp luật để xác định dấu hiệu của tội phạm; nếu bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì lấy lời khai của người bị bắt... 11
- 1.1.3. Ý nghĩa của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Về mặt pháp lý: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu có tính chất định hướng cho các giai đoạn TTHS tiếp theo để giải quyết vụ án hình sự. Nếu khởi tố vụ án hình sự không chính xác sẽ dẫn đến các giai đoạn tiếp theo cũng không chính xác, bởi các giai đoạn TTHS tuy độc lập nhưng có sự gắn kết chặt chẽ với nhau nhằm tìm ra sự thật của vụ án. Việc xác định một người có tội hay không có tội ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người được pháp luật bảo vệ. Vì vậy giai đoạn này rất quan trọng đòi hỏi vai trò của các CQTHTT cần nghiên cứu thận trọng căn cứ khởi tố vụ án hình sự để đảm bảo việc khởi tố vụ án nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự làm phát sinh quyền của các CQTHTT như CQĐT, VKS, Tòa án, Thi hành án hình sự trong việc xác định tội phạm và xử lý người phạm tội, góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thời điểm bắt đầu áp dụng các qui định của Bộ luật hình sự (BLHS) và BLTTHS là khi các CQTHTT có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự, từ thời điểm này các quan hệ pháp luật hình sự được thực hiện. Nếu không có giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thì sẽ không có các giai đoạn tố tụng tiếp theo. Về mặt chính trị - xã hội: Ngày nay đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều tội phạm nguy hiểm, tội phạm mang yếu tố quốc tế, có tổ chức, xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao... với thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm hình sự có tổ chức, băng nhóm "xã hội đen" gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội phạm ma túy có vũ trang ở khu vực biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm kinh tế trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ cương pháp luật XHCN, lợi ích của Nhà nước và xã hội, tài sản, tính mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm 12
- suy giảm niềm tin xã hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước. Công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm luôn là đòi hỏi sự quan tâm lãnh đạo và thực hiện nghiêm túc của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành các cấp, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp và mọi công dân trong đó CQĐT, VKS, Tòa án, Thi hành án giữ vai trò nòng cốt. Trên tinh thần đó, khởi tố vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong đấu tranh phòng, ngừa và chống tội phạm, là công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời cũng thể hiện sự trừng phạt đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật góp phần bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật "...không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất kể người nào phạm tội đều bị xử lý trước pháp luật" [36, Điều 9]. Việc khởi tố vụ án chính xác, khách quan, công bằng sẽ tạo niềm tin cho nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. 1.2. KIỂM SÁT CÁC HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.2.1. Sự hình thành và phát triển chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong luật tố tụng hình sự ở nước ta từ năm 1945 đến nay Sau khi cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa nước ta giành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tình hình trong nước bọn phản cách mạng và tội phạm diễn ra phức tạp. Trước yêu cầu đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án với mục tiêu bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, trừng trị kẻ phạm tội và phòng ngừa các tội phạm hình sự. Tiền thân của cơ quan VKS là cơ quan Công tố viện được thành lập theo Sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, vào giai đoạn đó Công tố viện là một 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn