intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

26
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm dưới khía cạnh lập pháp TTHS và áp dụng chúng trong thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện trong luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG TIẾN MẠNH KIÓM S¸T VIÖC GI¶I QUYÕT TIN B¸O, Tè GI¸c TéI PH¹M trong luËt tè tông h×nh sù viÖt nam Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phƣợng HÀ NỘI - 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Dƣơng Tiến Mạnh
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ................................................................ 2 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...................... 4 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu ............................... 5 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn ............................................. 6 6. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 6 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ..................................................................................................... 7 1.1. Các khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân .............. 7 1.1.1 Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm ............................................ 7 1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân ................................................................... 13 1.2. Các đặc điểm về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân ........................................................... 19 1.2.1. Chủ thể có quyền kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm. 19 1.2.2. Về đối tượng và phạm vi của hoạt động kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ........................................................................... 20 1.2.3. Về hình thức kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ... 21
  4. 1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát ............ 23 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước năm 1988 ............................... 23 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003 ............................... 24 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 27 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH.......... 28 2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ..................................................... 28 2.1.1. Chủ thể và đối tượng của kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ............................................................................................... 28 2.1.2. Trình tự, thủ tục, thời hạn của kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ....................................................................................... 32 2.2. Thực tiễn thi hành công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ................................................................................................. 39 2.2.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân .................................... 39 2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân .................................... 46 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 58 Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .. 59 3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ...................................................................................................... 59 3.1.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự ................ 60 3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật khác ..................................... 66
  5. 3.2. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm ................................................................................................. 67 3.2.1. Chú trọng công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm về nghiệp vụ kiểm sát ........................................................ 67 3.2.2. Đổi mới công tác cán bộ, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ, Kiểm sát viên; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cần thiết. . 68 3.2.3. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát .................................................................................................... 72 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân CQĐT : Cơ quan điều tra XHCN : Xã hội chủ nghĩa THQCT : Thực hành quyền công tố TTHS : Tố tụng hình sự
  7. DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU Số hiệu Tên gọi bảng Trang bảng Tổng số tin tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi 2.1. 40 tố và kết quả giải quyết Kết quả kiểm sát công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội 2.2. 40 phạm của VKSND toàn quốc trong giai đoạn 2010 – 2014
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Là một trong những cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, được ghi nhận tại Chương X Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014 theo đó VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Với tư cách là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp, một trong những chức năng quan trọng của VKSND là kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền. Việc tiếp nhận, giải quyết kịp thời và có hiệu quả tin báo, tố giác về tội phạm có ý nghĩa quyết định, then chốt đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao. Là cơ quan đấu tranh phòng, chống tội phạm, trách nhiệm của VKSND phải tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm do cá nhân, cơ quan tổ chức chuyển đến, sau đó chuyển cho CQĐT có thẩm quyền giải quyết đồng thời trực tiếp kiểm sát việc giải quyết toàn bộ tin báo, tố giác về tội phạm của CQĐT. Làm tốt công tác này là tiền đề để VKS thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử được thuận lợi, hạn chế tối đa tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm, hạn chế được số vụ phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng như số vụ Tòa án tuyên không phạm tội. Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của ngành kiểm sát đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt trước yêu cầu đấu tranh phòng 1
  9. chống tội phạm trong tình hình mới nên các quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm đã bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế dẫn, tỷ lệ kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm thấp, tình hình tội phạm ẩn còn nhiều, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm để làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định trên thực tiễn có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài "Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật TTHS Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Tin báo, tố giác về tội phạm là một trong những cơ sở để xác định dấu hiện của tội phạm làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, do đó hoạt động kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu đặc biệt là các cán bộ làm công tác chuyên môn nhưng chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở những bài báo khoa học như: ThS. Nguyễn Duy Giảng, Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát việc giải 2
  10. quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 18-20/2008; Nguyễn Tiến Sơn, Một số vướng mắc, bất cập và giải pháp nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hiện nay, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; Phạm Đình Sự, Những kinh nghiệm tổ chức, thực hiện và biện pháp trong công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; Lưu Trọng Nguyên, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; Vũ Việt Hùng, Quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Thực trạng và một số đề xuất kiến nghị, Tạp chí kiểm sát, số 12/2009; ThS. Lê Ra, Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội phạm, Tạp chí kiểm sát, số 20/2012, ThS. Lê Minh Long, Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm giết người, Tạp chí kiểm sát số 4/2011; Nguyễn Quang Thành, Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội với cục điều tra trong việc phát hiện và giải quyết tố giác, tin báo về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, Tạp chí kiểm sát số 11/2012;... Như vậy nhìn một cách tổng quan có thể khẳng định rằng, vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm chưa được khoa học luật TTHS Việt Nam quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những nghiên cứu về vấn đề này chỉ dừng lại ở những bài báo khoa học luận bàn về những khía cạnh đơn lẻ chứ chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có tính chất hệ thống, toàn diện và sâu sắc cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn thực hiện. 3
  11. Với tình hình nghiên cứu trên, lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trong luật TTHS Việt Nam" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm dưới khía cạnh lập pháp TTHS và áp dụng chúng trong thực tiễn. Từ đó, luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện trong luật TTHS Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung như: Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm; khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm; - Khái quát sự phát triển của chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND từ năm 1960 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản có liên quan, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của tồn tại, hạn chế đó; 4
  12. - Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định về chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản có liên quan, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật TTHS Việt Nam và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND trên toàn quốc, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn. Luận văn không nghiên cứu về thực tiễn kiểm sát giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKS quân sự các cấp. Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong 05 năm 06 tháng (2010 – tháng 6/2015) trên địa bàn cả nước. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống 5
  13. kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn liên quan chức năng kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND từ đó xây dựng khái niệm về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, tạo cơ sở áp dụng pháp luật thống nhất và có căn cứ. Đồng thời luận văn chỉ ra những đặc điểm công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKSND; - Qua nghiên cứu thực tiễn kiểm sát việc giải quyết tin báo tố giác về tội phạm của VKSND, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện công tác kiểm sát này. - Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, học viên và người làm thực tiễn. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn thi hành Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân 6
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Các khái niệm về tin báo, tố giác về tội phạm và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân 1.1.1 Khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm Tin báo, tố giác về tội phạm là nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có cơ sở, căn cứ để tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Quy định về tin báo, tố giác về tội phạm góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch cho các chủ thể này có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người khác đến cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động xử lý tin báo, tố giác về tội phạm là một hoạt động quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, qua đó CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có căn cứ không khởi tố vụ án hình sự hoặc khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra. Điều 100 BLTTHS năm 2003 quy định: " Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;...". Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự thể hiện sự phản ứng nhanh chóng từ phía nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần điều tra, xử lý một cách có căn cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội. Việc khởi tố vụ án đúng, kịp thời có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề mở ra hàng loạt những hoạt động tố tụng sau này. Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu của tội phạm xảy ra dựa 7
  15. trên năm cơ sở được quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003, trong số đó là tố giác của công dân; tin báo của cơ quan, tổ chức; tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Dưới góc độ ngôn ngữ học, các thuật ngữ: Tố cáo, tin báo, tố giác được hiểu là: Khái niệm “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: Thứ nhất, tố cáo là báo cho mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn [21, tr.1199]. Khái niệm “Tố giác” được hiểu là: báo cho cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó [21, tr.1200]. Khái niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất là, điều được truyền đi, báo đi cho biết sự việc, tình hình xảy ra. Thứ hai là, sự truyền đạt, sự phản ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những quá trình xảy ra trong nó [21, tr.1183]. Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất là, cho biết việc gì đó đã xảy ra. Thứ hai là, cho người có trách nhiệm nào đó biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung…là dấu hiệu biết trước [21, tr.342]. Trên bình diện pháp lý, Luật Tố cáo năm 2011 quy định: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức (khoản 1 Điều 2) [26]. Tố cáo ở đây là khái niệm chung, là việc công dân thực hiện quyền của mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật nói chung cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh vực pháp luật bị vi phạm mà 8
  16. người ta phân biệt các loại tố cáo khác nhau. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về TTHS (khoản 3 Điều 31). Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định của pháp luật về TTHS (khoản 1 Điều 3) [26]. Như vậy, trong TTHS tố cáo hành vi phạm tội được gọi là tố giác về tội phạm. Đây chính là việc thuộc nội dung khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm [39]. Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, không phân biệt tính chất, mức độ vi phạm. Còn tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được quy định trong BLHS. Do đó, có thể nói khái niệm tố cáo rộng hơn và cơ bản đã bao hàm cả khái niệm tố giác về tội phạm theo luật TTHS. Điểm khác biệt cơ bản giữa hai khái niệm này là: Tố cáo là quyền của công dân, còn tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của công dân. Quan hệ pháp luật về tố cáo hành vi vi phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, còn quan hệ pháp luật tố giác về tội phạm thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công dân có quyền quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm pháp luật nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã biết rõ về một số tội phạm quy định tại Điều 313 BLHS đang được chuẩn bị hoặc đã được thực hiện. Công dân có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội: “Không tố giác tội phạm” theo Điều 314 BLHS nếu biết mà không tố giác tội phạm. Ở phương diện phản ánh, những thông tin về tội phạm là kết quả phản ánh của những tội phạm đó trong hiện thực khách quan, tồn tại ở dạng vật chất, đó là tín hiệu thông tin. Sự thay đổi trong môi trường do tội phạm gây ra là nội dung, còn hình thức biểu hiện của những thông tin đó là tiếng nói và chữ viết của con người. Trong hoạt động điều tra tội phạm, tín hiệu thông tin có thể tồn tại ở hai dạng: Vật chất và tư tưởng, ý nghĩ. Hai hình thức tồn tại 9
  17. của tín hiệu thông tin này chính là sự đa dạng của những dấu vết do tội phạm để lại trong môi trường xung quanh. Ở phương diện điều tra khám phá tội phạm tin báo, tố giác về tội phạm là những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét tính chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo tin, tố giác đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu hiệu của tội phạm hay không… Tin báo, tố giác về tội phạm là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động điều tra, xác minh theo luật định. Có nhiều cách hiểu về tin báo, tố giác về tội phạm. Có quan điểm xác định: Chỉ có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức cung cấp, kiến nghị mới là tin báo, tố giác về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng mọi thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin báo, tố giác. Có quan điểm nêu: Tố giác về tội phạm là việc công dân tố giác về hành vi tội phạm được quy định trong BLHS, còn tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú [50]. Quan điểm khác cho rằng: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của BLTTHS năm 2003. Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của BLTTHS năm 2003 [44]. 10
  18. Trái lại, có quan điểm xác định rằng không thể phân biệt giữa tin báo và tố giác về tội phạm. Hiện nay, có quan điểm đưa ra khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm không rõ đối tượng; dựa theo sự phân loại tin báo, tố giác về tội phạm mà người báo tin, tố giác và kể cả CQĐT tiến hành xác minh nhưng không xác định rõ đối tượng gây ra. Ví dụ, một người báo mất chiếc xe mô tô trị giá trên 30 triệu đồng nhưng không xác định ai là người đã trộm cắp chiếc xe đó. Cách hiểu này không đúng với bản chất của tin báo, tố giác về tội phạm. Dù rõ hay không rõ đối tượng, đó vẫn là tin báo, tố giác về tội phạm. Cách hiểu trên dẫn đến tình trạng các cơ quan có thẩm quyền không đưa vào giải quyết và kiểm sát việc giải quyết đối với tin báo, tố giác về tội phạm loại này, hệ quả của nó là việc đánh giá tình hình tội phạm chưa chính xác, làm hạn chế kết quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Các quan điểm trên chưa nêu rõ, đầy đủ về khái niệm tin báo và tố giác về tội phạm, chưa phân biệt rõ tố giác và tin báo, hoặc là nhấn mạnh tiêu chí không thuộc nội hàm của khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm. Tại Thông tư Liên ngành số 03/TT-LN ngày 15/5/1992 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) - Bộ Quốc phòng - Bộ Lâm nghiệp - Tổng cục Hải quan về: “Hướng dẫn thi hành các quy định của luật TTHS về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm” đã nêu định nghĩa: Tin báo và tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được qui định trong BLHS do công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú [43]. 11
  19. Định nghĩa này đến nay có nhiều điểm chưa phù hợp. Trong khi đó, BLTTHS năm 2003 không quy định thế nào là tin báo, tố giác về tội phạm. Do đó, năm 2013 liên ngành tư pháp trung ương đã ban hành thông tư mới hướng dẫn về giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-VKSTC-BCA-BNNPTNT-BTC- BQP ngày 02/8/2013 (sau đây gọi là Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT) hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS năm 2003 về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm được hiểu như sau: Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết [51]. Như vậy, trong khái niệm tin báo, tố giác về tội phạm đều có đã chỉ ra, tin báo, tố giác đều là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm, chỉ khác nhau ở chủ thể cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết. Theo Điều 101 BLTTHS năm 2003, chúng ta thấy chủ thể của tố giác về tội phạm chỉ có thể là cá nhân; chủ thể của tin báo về tội phạm chỉ có thể là cơ quan, tổ chức. Cơ quan, tổ chức ở đây được hiểu là bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Như vậy, theo chúng tôi có thể rút ra các khái niệm tin báo và tố giác về tội phạm như sau: Tin báo về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo qui định của BLTTHS. 12
  20. Tố giác về tội phạm được hiểu là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo qui định của BLTTHS. Và có thể nêu khái niệm chung về tin báo, tố giác về tội phạm như sau: Tin báo, tố giác về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong BLHS do công dân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các hình thức thông tin khác nhau; do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú để cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết theo qui định của BLTTHS. 1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân Vận dụng tư tưởng của LêNin vào thực tiễn xây dựng tổ chức bộ máy Nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã nhận định rằng, để đảm bảo cho pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách nghiêm minh và thống nhất thì việc tổ chức một cơ quan có chức năng kiểm tra và giám sát hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước và công dân là đòi hỏi mang tính khách quan nên đã quyết định thành lập cơ quan VKS. Quan điểm trên đã được thể chế hóa trong các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1959, năm 1992 (sửa đổi). Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) trong đó có sự điều chỉnh chức năng của cơ quan VKS quy định "VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật" (Điều 137) [22]. Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã cụ thể hóa quy định trên với nội dung quy định rõ VKS thực hiện chủ yếu hai chức năng đó là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự điều chỉnh đã đưa ra tiền đề cho việc nghiên cứu làm rõ chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2