intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

28
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIỀU HỒNG NHUNG KIÓM S¸T VIÖC TU¢N THEO PH¸P LUËT TRONG HO¹T §éNG §IÒU TRA CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KIỀU HỒNG NHUNG KIÓM S¸T VIÖC TU¢N THEO PH¸P LUËT TRONG HO¹T §éNG §IÒU TRA CñA VIÖN KIÓM S¸T NH¢N D¢N (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN KIỀU HỒNG NHUNG
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ..................................... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............ 8 1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự ......................................... 8 1.1.2. Đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự ......................................... 10 1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát .......... 11 1.3. Khái niệm, đặc điểm của kiểm sát hoạt động điều tra ................... 17 1.4. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự ..................................................... 22 1.4.1. Khái niệm ........................................................................................... 22 1.4.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự ............................................... 23 1.5. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................ 26 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN....................................................................................... 31
  5. 2.1. Qui định của pháp luật về kiểm sát hoạt động điều tra ............... 31 2.1.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án ................................................................ 33 2.1.2. Kiểm sát việc khởi tố bị can ............................................................... 39 2.1.3. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường ........................................... 44 2.1.4. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can ................................................... 48 2.1.5. Kiểm sát hoạt động khám xét ............................................................. 50 2.1.6. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ....... 51 2.1.7. Kiểm sát việc đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra..................................... 61 2.2. Thực tiễn thực thi công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................... 63 2.2.1. Thực trạng kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự ............. 64 2.2.2. Thực trạng kiểm sát hoạt động khám nghiệm hiện trường ................ 66 2.2.3. Thực trạng kiểm sát việc thực hiện pháp luật trong các biện pháp ngăn chặn ................................................................................... 67 2.3. Những hạn chế, tồn tại trong công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................. 69 2.4. Những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hạn chế công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .............. 73 2.4.1. Quy định của pháp luật ...................................................................... 73 2.4.2. Tổ chức thực hiện chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự ........... 74 2.4.3. Công tác cán bộ .................................................................................. 75 2.4.4. Cơ sở vật chất ..................................................................................... 76 Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ............................................................ 78
  6. 3.1. Cơ sở và định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................. 78 3.1.1. Cơ sở nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............... 78 3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ......... 84 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ........................................................ 85 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật .......................................................................... 85 3.2.2. Các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................................................................................ 90 3.2.3. Nâng cao về cơ sở vật chất ................................................................. 94 KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 97 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 99
  7. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Tố tụng Hình sự CQĐT Cơ quan điều tra KSĐT Kiểm sát điều tra VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Bảng thống kê các vụ án được đình chỉ từ 2009 - 2014 69 Bảng 2.2: Bảng thống kê số vụ án trả hồ sơ điều tra bổ sung từ năm 2009-2014 70
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết đề tài Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN), tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam, được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, không phụ thuộc hành chính nhà nước; chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân cùng cấp về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Trước yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong tình hình hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục khẳng định phải bảo đảm tốt hơn các điều kiện để VKSND thực hiện tốt hơn chức năng của mình và nhất quán xác định VKSND thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.... Nghị quyết Đại hội XI của Đảng một lần nữa khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân tiếp tục thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp [2]. Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND là một trong những nhiệm vụ quan trọng của VKSND nhằm bảo đảm công tác điều tra được tiến hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ và theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm, người phạm tội và không làm oan người vô tội. 1
  10. Trải qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển của VKSND, qua tổng kết thực tiễn về việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp cho thấy: VKSND đã có nhiều đổi mới và chuyển biến tích cực về mọi mặt, luôn bám sát và thực hiện đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và yêu cầu cải cách tư pháp; đổi mới về tổ chức và nhận thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ. Chính vì vậy, trong thời gian qua, chất lượng, hiệu quả các hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND được nâng lên rõ rệt, ngày càng được nhân dân đồng tình ủng hộ, tạo sự tin tưởng của Đảng, của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; góp phần tích cực bảo vệ và xây dựng CNXH; góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm các quyền dân chủ của công dân; chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử được nâng lên, tỷ lệ vụ án oan sai ngày càng giảm, một số vụ án hình sự với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội đã được khám phá, điều tra kịp thời, tuân thủ đúng quy định của pháp luật, góp phần quan trọng trong việc giữ vững, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, qua hơn 20 năm đổi mới, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý ở nước ta có những thay đổi sâu sắc, vấn đề về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND nói chung và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nói riêng đang là vấn đề mà Đảng, Nhà nước và các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý đặt ra trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Những quy định của pháp luật về quan hệ phối hợp và chế ước giữa VKSND và Cơ quan điều tra (CQĐT) còn bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc do thiếu những quy định bảo đảm hiệu lực của quan hệ phối hợp và chế ước được quy định trong BLTTHS. Do đó, vẫn còn nhiều quyết định gây tranh cãi; những quy định đảm bảo cho VKSND và CQĐT thực hiện chức năng, nhiệm vụ còn thiếu và không phù hợp với thực tế; hậu quả pháp lý của những yêu cầu, kiến nghị của VKSND trước những vi phạm của CQĐT mang tính hình thức, nên hiệu quả chưa cao. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND 2
  11. thực hiện chưa đầy đủ, chưa làm hết trách nhiệm theo quy định của pháp luật dẫn đến: Nhiều vụ án hình sự trong quá trình điều tra vi phạm nghiệm trọng về trình tự, thủ tục tiến hành thu thập chứng cứ, việc xây dựng hồ sơ chưa bảo đảm tính khách quan, hợp pháp, thậm chí còn có những vi phạm nghiêm trọng các quy định của BLTTHS; không xác định được người thực hiện hành vi phạm tội. Từ đó đã gây hậu quả là nhiều vụ án không đảm bảo căn cứ để truy tố, bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên vô tội hoặc bị cấp phúc thẩm cải sửa, hủy án để điều tra lại. Số lượng các vụ án hình sự hàng năm không giảm, tính chất của tội phạm ngày càng phức tạp, thủ đoạn gây án càng manh động, trắng trợn, xuất hiện các nhóm tội phạm có tổ chức làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang và giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự quản lý của Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật. Từ những vấn đề nêu trên, cho thấy cần phải làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn để nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, mối quan hệ giữa VKSND với CQĐT trong hoạt động điều tra, tìm ra và thực hiện được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Đó là lý do cơ bản làm cơ sở cho tác giả chọn đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Qua nghiên cứu một số công trình khoa học ở trong nước có liên quan đến đề tài, phần lớn các tài liệu tập trung nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ chung của Viện kiểm sát nhân dân; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự; một số hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm; vai trò, vị trí của Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Có thể, khái quát một số nội dung của các công trình khoa học đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn như sau: GS,TS. Lê Cảm (2011), bài viết về “Viện kiểm sát Việt Nam”, đã đề cập một 3
  12. cách sâu sắc chức năng, nhiệm vụ, thiết chế về Viện Công tố, Viện kiểm sát nhân dân các nước trên thế giới; vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta; phân tích sự cần thiết phải tiếp tục duy trì các chức năng của Viện kiểm sát nhân dân như quy định của Hiến pháp hiện hành. Đồng thời, tác giả khẳng định sự cần thiết phải duy trì vị trí hiện hành của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, để phân biệt vị trí của Toà án nhân dân, trong Hiến pháp cần đặt một chương riêng về Viện kiểm sát nhân dân ngay sau chương về Tòa án nhân dân. Nhiều nước XHCN trước đây ở Đông Âu hiện nay đã đi theo hướng đó. Cũng có quốc gia đặt chung trong một chương của Hiến pháp nhưng nói rõ tên chương là “Các cơ quan tư pháp”. Cách làm này cũng có nhiều yếu tố hợp lý, bởi vì cần khẳng định rằng, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta, nếu với hai loại chức năng như hiện nay, chắc chắn là nằm trong quỹ đạo của các hoạt động tư pháp. Việc đặt Viện kiểm sát nhân dân trong phạm vi các hoạt động tư pháp theo tinh thần các văn kiện của Đảng ta là hoàn toàn có cơ sở khoa học mà mục đích chủ đạo của cách lựa chọn này phải là bảo đảm yêu cầu về tính độc lập của các hoạt động tư pháp, trong đó có hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân [22]. Sách do GS,TS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên (xuất bản năm 2012), “Những vấn đề về Hiếp pháp và sửa đổi Hiến pháp”, đề cập đến sự ra đời và phát triển Viện kiểm sát, cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát qua các bản Hiến pháp, làm rõ sự cần thiết thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong từng thời kỳ lịch sử. Đồng thời, tác giả phân tích một cách sâu sắc việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát và khẳng định hoạt động điều tra là hoạt động quan trọng bậc nhất của quá trình tố tụng. Điều tra được xác định là khâu đầu tiên, đồng thời cũng là khâu có tính quyết định nhất trong toàn bộ quy trình của hoạt động tư pháp [21, tr.305]. Các hoạt động truy tố, xét xử là những hoạt động tiếp theo nhằm tìm ra tính xác thực của hoạt động điều tra, do đó hoạt động điều tra gắn bó với hoạt động công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Sách chuyên khảo do tiến sĩ Lê Hữu Thể làm chủ biên (năm 2008), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, 4
  13. Nhà xuất bản Tư pháp, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trong giai đoạn điều tra. Trong đó, mối quan hệ giữa quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là hai chức năng độc lập nhau, nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đặc biệt ở bậc cao học. Đề tài “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk” là một nghiên cứu chuyên sâu ở bậc cao học trong bối cảnh kinh tế, xã hội của tỉnh Đắk Lắk thời gian qua. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền trong việc xây dựng, thực thi pháp luật nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND và hoạt động điều tra của Lực lượng Cảnh sát điều tra các vụ án hình sự được khách quan, chính xác, toàn diện và theo đúng quy định của pháp luật. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Tập hợp hóa, nghiên cứu, phân tích, làm rõ, bổ sung để hoàn thiện những vấn đề lý luận về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND, để xác định cơ sở pháp lý cùng với thực trạng hiện nay của hoạt động kiểm sát này. Trên cơ sở đó, tìm ra giải pháp khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 5
  14. - Phạm vi nghiên cứu: Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND từ 2009 đến tháng 5 năm 2014. Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi tỉnh Đắk Lắk. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp luận biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đấu tranh và phòng ngừa tội phạm ở nước ta. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương pháp thống kê hình sự, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu dựa trên những tài liệu tổng kết, số liệu thống kê của VKSND tỉnh Đắk Lắk và CQĐT Công an tỉnh Đắk Lắk nhằm đánh giá thực trạng, mức độ, cơ cấu, diễn biến tội phạm, phân tích làm rõ nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm; các đặc điểm xã hội - nhân khẩu nhân thân người phạm tội; dự báo tình hình tội phạm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận khoa học pháp lý về công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, những kiến nghị luận văn là nguồn tài liệu để hoàn thiện những quy định pháp luật về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn hoạt động điều tra với hoạt động công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp. Luận văn sẽ là tài liệu bổ ích không những cho cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học tham khảo, mà còn giúp cho các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tham khảo xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung. Giúp cho các Kiểm sát viên những kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ kiểm sát cụ thể khi thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Những đề xuất trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm hình sự trong những năm tới. 6
  15. 7. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 7
  16. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra vụ án hình sự Khi có tội phạm xảy ra thì việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, do nhiều cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhằm xác định chính xác, khách quan bản chất vụ án, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ án được gọi là tố tụng hình sự. Theo giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội thì: "Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật" [18]. Quá trình giải quyết vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn tố tụng hình sự có nhiệm vụ giải quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn đó là chức năng cụ thể của mỗi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ do pháp luật quy định. BLTTHS nước ta chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành bốn giai đoạn bao gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình sự và truy tố; giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành bản án hình sự. Đối với hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm không phải là các giai đoạn tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà các hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có kháng cáo và kháng nghị. Luận văn này không có điều kiện xem xét tất cả các giai đoạn của Tố tụng hình sự, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân. 8
  17. BLTTHS quy định “Giai đoạn điều tra vụ án hình sự” trong 6 chương, từ chương VIII đến chương XIII, đây cũng là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự. Ở giai đoạn này được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ tài liệu và kết luận điều tra sang VKS để đề nghị truy tố. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt giai đoạn điều tra vụ án. Thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được Luật tố tụng hình sự quy định khá cụ thể, theo đó thời hạn điều tra (kể cả các lần gia hạn điều tra) đối với tội ít nghiêm trọng tối đa không quá 4 tháng, đối với tội nghiêm trọng không quá 8 tháng, đối với tội rất nghiêm trọng không quá 12 tháng, đối với tội đặc biệt nghiêm trọng không quá 20 tháng kể từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Riêng đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia ngoài các thời hạn điều tra nêu trên thì Viện trưởng VKSNDTC có quyền gia hạn thêm khi thấy cần thiết, thời hạn gia hạn thêm không quy định cụ thể mà tùy vào tính chất phức tạp của vụ án mà Viện trưởng VKSNDTC ấn định thời gian gia hạn. Giai đoạn điều tra có nhiệm vụ quan trọng, bởi vì trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thì kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử của Tòa án, mọi quyết định của Tòa án về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên cơ sở các chứng cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra. Vì vậy, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra là cơ quan tiến hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. Nhiệm vụ trên được thực hiện bởi các chủ thể là CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tất cả các hoạt động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể của giai đoạn điều tra đều phải tuân theo đúng các quy định của 9
  18. Luật tố tụng hình sự góp phần giải quyết vụ án hình sự được nhanh chóng, khách quan và đúng pháp luật. Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan. 1.1.2. Đặc điểm giai đoạn điều tra vụ án hình sự Giai đoạn điều tra vụ án hình sự có các đặc điểm cơ bản và đặc trưng cơ bản như sau: - Đây là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự, có thời hạn xác định bắt đầu từ khi các cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi CQĐT chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và kết luận điều tra sang VKS đề nghị truy tố hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. - Nhiệm vụ của giai đoạn này là các cơ quan có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để chứng minh tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án bao gồm cả tình tiết buộc tội và tình tiết gỡ tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp các ngành thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm. - Chủ thể thực hiện các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều chỉ là CQĐT hoặc các cơ quan khác được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Các tài liệu do chính hoạt động của các chủ thể nói trên tiến hành thu thập mới được coi là những chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Còn các tài liệu có liên quan đến vụ án do các hoạt động khác cung cấp như hoạt động trinh sát thì phải được CQĐT kiểm tra và thẩm định lại thì mới được coi là chứng cứ để chứng minh tội phạm. 10
  19. - Biện pháp mà các chủ thể áp dụng trong giai đoạn điều tra là mọi biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định, việc áp dụng các biện pháp đó tùy thuộc vào tính chất, mức độ của từng vụ án. Cụ thể các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng; lấy lời khai người bị hại; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; khám xét khẩn cấp; bắt tạm giam…v.v... Các biện pháp được áp dụng phải theo đúng quy định của Luật tố tụng hình sự. 1.2. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát Vấn đề phân biệt giữa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra với thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, cũng như mối quan hệ giữa chúng với nhau cần phải được làm rõ nhằm tạo cơ sở cho việc áp dụng vào hoạt động thực tiễn các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002. Thực tế “Quyền công tố” là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất Nhà nước và pháp luật, nó ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, do đó quyền công tố luôn luôn gắn liền với bản chất Nhà nước. Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình thì quyền công tố chủ yếu được phát sinh trong quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước (với tư cách là chủ thể quyền lực) và bên kia là người thực hiện hành vi phạm tội (với tư cách là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu hình phạt). Trong quan hệ đó Nhà nước muốn trừng trị được người phạm tội để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết Nhà nước phải buộc tội được người phạm tội. Nên theo tôi quyền công tố là việc Nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước (nhân danh quyền lực công) truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, quyền công tố có nội dung là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, với nội dung đó có thể khẳng định quyền công tố chỉ được thực hiện trong lĩnh vực hình sự, còn trong lĩnh lực tố tụng dân sự, hành chính, kinh tế thì VKS tham gia để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật. Với việc xác định quyền công tố chỉ có trong tố 11
  20. tụng hình sự đã tạo cơ sở cho việc xác định rõ đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, phạm vi quyền công tố không phải có trong mọi giai đoạn của tố tụng hình sự, điều này đã được thể hiện rõ trong Luật tổ chức VKSND năm 2002, thi hành án là một giai đoạn tố tụng hình sự nhưng ở giai đoạn này VKS chỉ tham gia với vai trò là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân và cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án hình sự (Điều 23 Luật tổ chức VKSND năm 2002). Do đó, giai đoạn thi hành án không có hoạt động thực hành quyền công tố. Như vậy, trong tố tụng hình sự, phạm vi quyền công tố được xác định từ khi có tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án được xét xử và bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Từ đó có thể hiểu quyền công tố là: Một loại quyền lực của Nhà nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện để truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc tội người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình khởi tố - điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Thuật ngữ thực hành quyền công tố đã được nhà làm luật nước ta ghi nhận và đề cập trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời hoạt động thực hành quyền công tố cũng đã gắn liền với hoạt động của VKS hơn 40 năm qua (từ năm 1960). Thế nhưng trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ trước đến nay (BLTTHS 1988, cũng như BLTTHS năm 2003 vừa được Quốc hội thông qua) nhà làm luật chưa ghi nhận một định nghĩa pháp lý về khái niệm "thực hành quyền công tố". Để bảo đảm thực hiện quyền công tố trong thực tế đấu tranh chống tội phạm thì Nhà nước phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố. Các quyền năng pháp lý đó Nhà nước giao cho cơ quan nhà nước nào thực hiện để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, thì cơ quan ấy được gọi là cơ quan có trách nhiệm thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp năm 1959 cho đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi) thì chức năng thực hành quyền công tố được giao cho cơ quan 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2