Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm
lượt xem 5
download
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nội dung, bản chất của mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu về vai trò của các yếu tố đó đối với một số hoạt động thực tiễn pháp lý như định tội danh, quyết định hình phạt cũng như xây dựng khái niệm khoa học về tội phạm trong luật hình sự.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ PHƯƠNG THÙY MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
- KHOA LUẬT LÊ PHƯƠNG THÙY MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM VỚI TƯ CÁCH LÀ MỘT YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM Chuyên ngành: LUẬT HÌNH SỰ Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI – 2011
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU………………………………………………………………………..1 Chương 1. KHÁI NIỆM MẶT KHÁCH QUAN VÀ DẤU HIỆU HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM………………….4 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm........................................................................................4 1.2. Hành vi khách quan của tội phạm……………………………............7 1.2.1. Khái niệm về hành vi khách quan của tội phạm………………..........7 1.2.2. Đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm…………………...10 1.2.3. Hình thức thể hiện của hành vi và phân nhóm hành vi khách quan của tội phạm………………………………………………………...13 1.2.4. Hành vi khách quan của tội phạm trong các giai đoạn thực hiện tội pham………………………………………………….................18 1.2.5. Hành vi khách quan của tội phạm trong đồng phạm…………….....24 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................32 Chương 2. CÁC DẤU HIỆU KHÁC THUỘC MẶT KHÁCH QUAN CỦATỘI PHẠM…………………………………………………33 2.1. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm……………………….33 2.1.1. Khái niệm về hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm………...33 2.1.2. Các dạng thể hiện hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm…...35 2.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm………...........................................................................38 2.2. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm………………………………...42 2.2.1. Nhận thức chung về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội
- và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong luật hình sự...42 2.2.2. Nội dung mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong luật hình sự………...44 2.2.3. Một số dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong luật hình sự………...47 2.3. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm……………48 2.3.1. Phương tiện phạm tội……………………………………………….48 2.3.2. Phương pháp, thủ đoạn phạm tội…………………………………..50 2.3.3. Thời gian phạm tội………………………………………………….52 2.3.4. Địa điểm phạm tội…………………………………………………..53 2.3.5. Hoàn cảnh phạm tội………………………………………………...55 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ………………………………………………...….58 Chương 3. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM ĐỐI VỚI VIỆC ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT…………60 3.1. Mặt khách quan của tội phạm đối với việc định tội danh………….60 3.1.1. Những vấn đề cơ bản về định tội danh……………………………..60 3.1.2. Đánh giá về mặt pháp lý hình sự vai trò của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm đối với việc định tội danh…………..61 3.2. Mặt khách quan của tội phạm đối với việc quyết định hình phạt…..76 3.2.1. Những vấn đề cơ bản về quyết định hình phạt……………………...76 3.2.2. Đánh giá về mặt pháp lý hình sự vai trò của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm đối với việc quyết định hình phạt…..77 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ………………………………………………...….92 KẾT LUẬN……………………………………………………………………93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………………....96
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tội phạm là hiện tượng xã hội - pháp lý tồn tại trong bất kỳ xã hội nào, dưới bất kỳ thời đại khái niệm pháp lý về tội phạm, được cụ thể hoá trong các điều luật cụ thể cũng như trong đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, mặt khách quan 123123của tội phạm còn là căn cứ để xây dựng các chế định khác nhau về tội phạm và hình phạt như: phân loại tội phạm, định tội danh, quyết định hình phạt... Các quy định này còn là một trong những căn cứ để xây dựng Phần các tội phạm, sắp xếp và hệ thống các tội phạm theo khách thể, quy định các cấu thành tội phạm, các khung hình phạt một cách nhất quán. Như vậy, nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình nào. Nó là hiện tượng tiêu cực tồn tại trong mọi quốc gia, trái với pháp luật hình sự và được phản ánh trong pháp luật hình sự của quốc gia đó cùng với biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất là hình phạt được áp dụng đối với chủ thể. Trong luật hình sự, bản chất của tội phạm được thể hiện một cách tập trung thông qua mặt khách quan hay nói cách khác, tội phạm được phản ánh rõ nét thông qua những biểu hiện khách quan bên ngoài mà con người có thể nhận biết được. Vì vậy, quy định về mặt khách quan của tội phạm và các yếu tố xung quanh khái niệm tội phạm trong Bộ luật hình sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động lập pháp và áp dụng luật hình sự. Thông qua hoạt động lập pháp, mặt khách quan của tội phạm được biểu hiện trong sự về tội phạm, có thể thấy rằng mặt khách quan của tội phạm là một trong những nội dung cơ bản và xuyên suốt đối với các chế định về tội phạm cũng như hình phạt, được cụ thể hoá tại các điều luật và là cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Xuất phát từ việc nghiên cứu khái niệm tội phạm và vai trò của mặt khách quan với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm đối với hoạt động lập pháp và áp dụng pháp luật hình sự, đòi hỏi cần nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm một cách đầy đủ, toàn diện. Về mặt lý luận, việc nghiên cứu về mặt khách 1
- quan của tội phạm trước hết nhằm làm rõ những vấn đề chung về khái niệm tội phạm - khái niệm cơ bản trong luật hình sự, xây dựng và hoàn thiện khái niệm khoa học về tội phạm cũng như các chế định khác có liên quan. Việc nghiên cứu về mặt lý luận các quy định về tội phạm và mặt khách quan của tội phạm cũng góp phần phân tích và đánh giá một cách đầy đủ, có hệ thống các chế định cơ bản về tội phạm và hình phạt nói chung cũng như các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm nói riêng, qua đó có thể đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự, tạo điều kiện cho việc áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội phạm trong thực tiễn. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về mặt khách quan của tội phạm và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm và những quy định của pháp luật hình sự được cụ thể hoá trong các điều luật về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm trong thực tiễn xét xử và đề xuất việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự có liên quan như các chế định về tội phạm, hình phạt, cấu thành tội phạm... trên cơ sở những nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về nội dung, bản chất của mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm. Ngoài ra, luận văn còn nghiên cứu về vai trò của các yếu tố đó đối với một số hoạt động thực tiễn pháp lý như định tội danh, quyết định hình phạt cũng như xây dựng khái niệm khoa học về tội phạm trong luật hình sự. Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm trên phương diện lý luận chung và trong các quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Qua đó, nghiên cứu, phân tích, đánh giá cơ sở khoa học và cơ sở pháp lý của việc xây dựng các chế định khác về tội phạm, chỉ ra những điểm chưa hợp lý, chưa hoàn thiện của các quy định đó để đề xuất 2
- việc chỉnh sửa và hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật hình sự trong thực tiễn. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp: phương pháp phân tích, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh kết hợp với các phương pháp xã hội học, phương pháp tổng kết thực tiễn xây dựng luật cũng như áp dụng luật hình sự trong đấu tranh phòng chống tội phạm, hệ thống và phân tích làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận văn. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn Thông qua việc nghiên cứu về mặt khách quan của tội phạm một cách toàn diện và đầy đủ, đặc biệt là nghiên cứu về ý nghĩa và vai trò của các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm đối với các chế định pháp luật hình sự như tội phạm, phân loại tội phạm, hình phạt, định tội danh, quyết định hình phạt, luận văn góp phần làm sáng tỏ các nội dung thuộc mặt khách quan trên cơ sở lý luận và thực tiễn pháp lý, thông qua đó hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự. Trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ khái niệm về mặt khách quan và các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm về mặt lý luận, luận văn cũng góp phần đánh giá tính chính xác và căn cứ khoa học của quy định về tội phạm và hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành, thông qua đó đề xuất sửa đổi và hoàn thiện những quy định này theo hướng đầy đủ và thống nhất. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung, bản chất vấn đề mặt khách quan của tội phạm trong luật hình sự về mặt lý luận cũng như trong thực tiễn pháp lý, góp phần hoàn thiện các chế định; tổng kết và đánh giá việc xây dựng và áp dụng những quy định về mặt khách quan của tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. 7. Bố cục của luận văn Luận văn gồm Lời mở đầu, Ba chương, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo. 3
- Chương 1 KHÁI NIỆM MẶT KHÁCH QUAN VÀ DẤU HIỆU HÀNH VI KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, trong bất kỳ thời đại nào, vai trò của con người luôn được khẳng định trong mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Chỉ có con người với ý thức của mình mới có thể nhận thức được thế giới, tác động vào thế giới để cải tạo nó theo mục đích của mình. Sự tồn tại của con người trong thế giới vật chất cho thấy rằng, hoàn cảnh và môi trường xung quanh đã tác động đến họ bằng cách này hay cách khác và làm xuất hiện ở con người các quá trình tâm lý diễn ra bên trong và hành vi diễn ra bên ngoài. Có thể nói rằng, hành vi xuất hiện một cách khách quan trong mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh. Trong hoàn cảnh nhất định, con người sẽ có những xử sự phù hợp về cả khía cạnh pháp luật và đạo đức. Tuy nhiên, hành vi của con người không phải lúc nào cũng phù hợp pháp luật, một trong số đó là hành vi vi phạm pháp luật và được quy định là “tội phạm”. Tội phạm là hiện tượng tiêu cực tồn tại trong mọi quốc gia. Nó cũng là hành vi của con người nhưng hành vi đó có những đặc trưng riêng. Tất cả những đặc trưng cơ bản của tội phạm và những chế định liên quan đều được quy định trong pháp luật hình sự của mỗi nước. Căn cứ vào đó, chúng ta xác định được hành vi nào bị coi là tội phạm và phải chịu chế tài tương ứng do pháp luật quy định. Ở Việt Nam, tội phạm được luật hình sự quy định là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý. Sự tồn tại của con người trong thế giới khách quan được biểu hiện bằng hoạt động đối với môi trường xung quanh và thông qua hành vi. Hành vi đó luôn chứa đựng cái “tôi” của chủ thể, đó chính là mặt chủ quan. Để nhận thức về hành vi và chủ thể thực hiện hành vi ấy, phải thông qua những diễn biến và biểu hiện bên ngoài, hay nói cách khác phải thông qua mặt khách quan. Chính vì vậy, khi nghiên cứu về tội phạm, một vấn đề được đặt ra 4
- đó là bên cạnh khái niệm được quy định trong luật thì những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, những gì diễn ra trong thế giới khách quan, đã được con người nhận thức như thế nào, vai trò của những yếu tố đó trong tổng thể các yếu tố của cấu thành tội phạm được thể hiện ra sao? Bởi xét đến cùng, thì hành vi phạm tội là thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan, giữa những diễn biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và những biểu hiện diễn ra bên ngoài mà ta có thể nhận biết trực tiếp bằng các giác quan. Hai mặt khách quan và chủ quan của tội phạm có liên hệ chặt chẽ với nhau, bên cạnh việc nghiên cứu mặt chủ quan, thì việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm là cần thiết vì tội phạm thể hiện một cách rõ nét nhất các yếu tố của nó thông qua mặt khách quan, những diễn biến bên ngoài mà con người nhận thức được không phụ thuộc vào ý thức của chủ thể. Bất kỳ tội phạm nào xảy ra trong thực tế khách quan cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể nhận biết trực tiếp được. Những biểu hiện đó bao gồm: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện việc thực hiện hành vi phạm tội và gắn liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. Những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm với tư cách là một yếu tố cấu thành tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan[59, tr.91]. Từ những định nghĩa trên đây về mặt khách quan của tội phạm, đồng thời trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nói chung và thực tiễn xét xử nói riêng, có thể khẳng định các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội - hành vi nguy hiểm cho xã hội (bằng hành động hoặc không hành động); hậu quả phạm tội - hậu quả nguy hiểm cho xã hội (nếu nó được quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng); mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội; các dấu hiệu không bắt buộc 5
- như công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. Giữa những biểu hiện bên ngoài - mặt khách quan và những quan hệ tâm lý bên trong - mặt chủ quan của bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng có mối quan hệ thống nhất. Những hành vi đó đều là hoạt động của con người cụ thể, xâm hại hoặc nhằm xâm hại những quan hệ xã hội nhất định.[59, tr.64]. Các yếu tố khách quan và chủ quan có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và được thể hiện trong hành vi phạm tội của chủ thể. Cùng với chủ thể, khách thể và mặt chủ quan của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Trong cấu thành tội phạm, các yếu tố thuộc mặt khách quan có ý nghĩa không giống nhau. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc và được quy định trong tất cả các cấu thành tội phạm, không có hành vi thì không có cấu thành tội phạm và cũng không thể có tội phạm. Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan có thể là dấu hiệu định tội hoặc là dấu hiệu định khung hình phạt. Mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn. Căn cứ vào những biểu hiện như hành vi được chủ thể thực hiện và một số nội dung biểu hiện khác, người ta biết được tội phạm đã xảy ra, các tình tiết, diễn biến của vụ án, xác định được đó là tội gì trong số các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự. Do vậy, mặt khách quan của tội phạm có ý nghĩa trước hết đối với việc định tội. “Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm nếu xác định đúng thì sẽ giúp cho các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án phân biệt đúng từng tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu cơ bản và điển hình nhất được nhà làm luật ghi nhận với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tại điều (khoản) tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật hình sự”[13, tr.5]. Ngoài ý nghĩa trong việc định tội, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm còn có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt. Trong nhiều trường hợp, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan được phản ánh là dấu hiệu định khung trong cấu thành tội phạm tăng nặng của một số tội phạm. Mặt khách quan còn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xác định lỗi, đánh giá mức độ lỗi, mức độ trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi. Ngoài ra, thông 6
- qua mặt khách quan, có thể xác định các yếu tố khác của cấu thành tội phạm như mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của tội phạm. 1.2. Hành vi khách quan của tội phạm 1.2.1. Khái niệm về hành vi khách quan của tội phạm Có thể nói rằng, trong tất cả các yếu tố thuộc mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản nhất và cũng là biểu hiện cơ bản nhất của tội phạm nói chung. Tất cả các biểu hiện khác của tội phạm luôn gắn liền với hành vi. Có hành vi khách quan xuất hiện trong thực tế thì mới có các biểu hiện khác của tội phạm.[29, tr.56]. Hành vi là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm, không có hành vi thì không có cấu thành tội phạm và cũng không thể có tội phạm. Xung quanh khái niệm hành vi có nhiều quan điểm khác nhau. Khái niệm hành vi lần đầu tiên được J.B.Watson (nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ) đưa ra năm 1913. Khái niệm hành vi được xây dựng trên nền móng thực chứng luận và chỉ dựa trên những hiện tượng có thể quan sát được từ bên ngoài. Hành vi được xem như là tổng hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài theo công thức S – R (Stimulant: kích thích; Reaction: phản ứng). Điều này có nghĩa là bất kỳ một hành vi nào của người và động vật đều diễn ra theo cơ chế: có kích thích thì có phản ứng chứ không liên quan gì tới ý thức, tới những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội. Trong từ điển Tâm lý học do R.J.Corsini chủ biên có viết: “Hành vi là những những hành động, phản ứng, những tương tác đáp lại kích thích bên trong và bên ngoài bao gồm những cử chỉ quan sát được một cách khách quan, những cử chỉ thuộc về nội tâm và những quá trình vô thức”[16, tr.99]. Hành vi có hai phạm trù: hành vi hiện ra bên ngoài và hành vi diễn ra bên trong. Hành vi hiện ra bên ngoài là những hành động mà người khác có thể quan sát trực tiếp được. Hành vi diễn ra bên trong đầu là những gì chúng ta làm mà người khác không thể quan sát trực tiếp được nhưng có thể nhận biết thông qua suy luận. Chủ nghĩa hành vi cổ điển chỉ quan tâm đến hành vi bộc lộ ra bên ngoài, bỏ qua những gì diễn ra bên trong đầu thuộc bình diện nhận thức. Tuy nhiên, chủ nghĩa hành vi hiện đại coi trọng cả 7
- hai phạm trù này. Còn theo tâm lý học Nga, hành vi của con người được xem như hoạt động, tuy ít nhiều mang những yếu tố bẩm sinh, nhưng chủ yếu chịu sự chi phối từ phía xã hội thông qua ngôn ngữ và các hệ thống tín hiệu ý nghĩa khác. Từ điển Tâm lý học do A.V.Peetrovxki và M.G.Iarôsevxki chủ biên định nghĩa: “Hành vi là sự tác động qua lại giữa cơ thể sống, thông qua hoạt tính bên ngoài (vận động) và bên trong (tâm lý). Thuật ngữ hành vi được sử dụng để chỉ hành vi của các cá thể riêng lẻ, các cá nhân cũng như của nhóm, loài (hành vi của một loài sinh vật, hay một nhóm xã hội)”. Ở Việt Nam, khi bàn đến khái niệm hành vi cũng có những ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng hành vi là một bộ phận của hoạt động và luôn được điều khiển bởi ý thức. Tác giả khác cũng cho rằng hành vi là bộ phận của hoạt động nhưng hành vi có thể có ý thức và có thể không có ý thức, nhưng điều quan trọng là hành vi phải mang tính ý nghĩa xã hội. “Hành vi là những biểu hiện bên ngoài của các quá trình sinh lý của hoạt động. Nó gắn với động cơ, nhu cầu và có ý nghĩa xã hội nhất định”[33, tr.40]. Một số tác giả khác lại cho rằng hành vi là tất cả những phản ứng của con người, bao gồm phản ứng máy móc, vô thức và cả phản ứng có ý thức. “Hành vi là cách ứng xử trong một hoàn cảnh nhất định được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ nhất định”[64, tr.781]. Như vậy, vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về khái niệm hành vi, bởi mỗi tác giả khi đưa ra khái niệm hành vi đã nhìn nhận và nghiên cứu hành vi ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở các quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể nhận thấy một điều rằng, cuộc sống của con người mà cụ thể là thái độ của con người đối với các chuẩn mực đạo đức, pháp luật và các phong tục, tập quán truyền thống luôn được biểu hiện thông qua các hành vi. Thông qua hành vi, có thể phán đoán về các đặc điểm nhân cách của chủ thể. Biểu hiện đặc trưng ở hành vi của con người là các cách xử sự của họ trước những hoàn cảnh cụ thể. Cách xử sự theo nghĩa đích thực của nó, không phải là bất cứ hành động nào của con người mà chỉ là những hành động có ý thức thể hiện thái độ của họ đối với người khác, đối với xã hội và đối với các chuẩn mực đạo đức trong xã hội. Cách xử sự là những thao tác của hành vi được xã hội đánh giá là 8
- tích cực hoặc tiêu cực, trong đó có sự đánh giá của pháp luật. Xử sự của con người không phụ thuộc một cách thụ động vào hoàn cảnh mà có sự tác động qua lại với hoàn cảnh đó. Con người luôn là chủ thể tích cực của hoạt động, tác động một cách có ý thức nhằm cải tạo hoàn cảnh và điều chỉnh bản thân mình trong hoạt động sống. Do vậy, trong những hoàn cảnh giống nhau, nhưng ở mỗi người lại có thể lựa chọn cho mình cách xử sự khác nhau. Tuy nhiên, cách xử sự của con người trong những hoàn cảnh và điều kiện cụ thể đó có thể được kiểm duyệt bởi ý thức (hành vi có ý thức), nhưng cũng có thể không được kiểm duyệt bởi ý thức (hành vi vô thức). Như vậy, khi nói đến hành vi của con người là bao gồm cả hành vi có ý thức và hành vi vô thức. Từ những phân tích trên, có thể đưa ra kết luận: “Hành vi là cách xử sự của con người trong một hoàn cảnh cụ thể, được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉ nhất định”[39, tr.77]. Khái niệm hành vi phạm tội là một dạng của hành vi và cũng có đầy đủ các yếu tố cấu thành của hành vi. Do đó, khi xây dựng khái niệm hành vi phạm tội, khoa học pháp lý xuất phát từ những nguyên lý cơ bản của các học thuyết hành vi để cụ thể hóa vào hoàn cảnh tiêu cực, đó là xu hướng chống đối xã hội, phương thức thực hiện mục đích và hậu quả tiêu cực cho xã hội mà một người nào đó đã gây ra. Xu hướng chống đối xã hội của hành vi phạm tội được biểu hiện rõ khi phân tích quá trình hình thành động cơ, đề ra mục đích, quyết định thực hiện hành vi, sự lựa chọn phương thức nhằm đạt mục đích đã đề ra và sự thay đổi ý định phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm với các hình thức lỗi khác nhau. Trên cơ sở các học thuyết về hành vi, các nhà tâm lý học pháp lý người Nga M.I.Enhikev và A.V.Xakharov cho rằng, hành vi phạm tội là hành vi có lý trí, có ý chí, nguy hiểm cho xã hội, trái với pháp luật và phải chịu hình phạt. Còn theo Iu.V.Trupharovski thì hành vi phạm tội là một hành động có động cơ, có định hướng, có ý thức và được điều khiển chống đối pháp luật để đạt một mục đích nhất định và hành động đó không thể chia nhỏ được nữa. Ở Việt Nam, khoa học pháp lý hình sự và tâm lý học tư pháp đưa ra một số quan điểm về hành vi phạm tội: “Hành vi phạm tội là hành vi hoàn chỉnh gồm cả mặt khách quan và chủ quan thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội 9
- phạm”[28, tr.60] hay “hành vi phạm tội là những hành vi chệch hướng - xã hội, vi phạm các quy phạm pháp luật đến mức phải xử lý bằng hình phạt”[58, tr.25]. Trong luật hình sự, hành vi phạm tội được hiểu là biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt được mục đích và mong muốn của chủ thể thực hiện hành vi đó. Những biểu hiện đó được con người cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan chứ không phải là những gì diễn ra bên trong tư tưởng, suy nghĩ của chủ thể mà người khác không thể trực tiếp nhận biết được. Một người nếu chỉ có ý định, tư tưởng phạm tội nhưng không biểu hiện ra thế giới khách quan bằng những hành vi cụ thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội thì không thể bị coi là tội phạm. Tội phạm trước hết phải được xem xét là hành vi của con người, không có hành vi thì không thể có tội phạm. Thực tiễn pháp lý cũng chỉ ra rằng tại bất kỳ một quốc gia nào, tội phạm bị đưa ra xét xử đều phải dựa vào hành vi của chủ thể đã thực hiện, chỉ có hành vi phạm tội mới là bằng chứng thuyết phục nhất để buộc tội một người, hành vi đó đã cấu thành một tội cụ thể nhất định được quy định trong pháp luật hình sự và họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với hành vi đó. Qua những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về hành vi khách quan của tội phạm như sau: Hành vi khách quan của tội phạm (hành vi nguy hiểm cho xã hội) là xử sự cụ thể của con người được thể hiện ra thế giới khách quan dưới những hình thức nhất định, gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [7, tr.147]. 1.2.2. Đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm Thứ nhất, hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội Theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm được quy định là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi thể hiện ở chỗ, hành vi đó xâm hại đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thông qua việc gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ đó [59, tr.96]. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. 10
- “Các vi phạm pháp luật khác tuy cũng có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng còn ở mức độ chưa đáng kể. Tội phạm là những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể. Khi tội phạm đã được quy định trong luật hình sự, ranh giới giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác có thể đã được xác định một cách dứt khoát, hành vi bị quy định chỉ có thể là tội phạm mà không thể là vi phạm pháp luật khác được”[59, tr.57]. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà nhà làm luật xác định những hành vi bị coi là tội phạm và quy định trong luật hình sự. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi khách quan có thể được đánh giá thông qua tầm quan trọng và tính chất của đối tượng tác động của tội phạm hay quan hệ xã hội mà hành vi đó xâm hại đến. Ví dụ: Tại bản án số 35/2010/HSST ngày 24/9/2010 của Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã tuyên án bị cáo Nguyễn Tiến Tùng (sinh năm 1994) phạm tội “giết người” và áp dụng điểm n, khoản 1, Điều 93; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 69 và Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 8 năm 6 tháng tù. Bị cáo Tùng đã bị xử lý hình sự về hành vi phạm tội như sau: Ngày 04/3/2010, do có lời qua tiếng lại với nhau, Vũ Văn Quân đã chửi bới, thách đố và tát Nguyễn Tiến Tùng. Sau khi được mọi người can ngăn, Tùng nhìn thấy Quân đi từ trong chợ ra, hai bên lại xảy ra xô xát, Tùng đã dùng dao nhọn đâm 2 nhát liên tiếp vào bụng và ngực làm Quân gục ngay tại chỗ. Hậu quả Quân đã chết trên đường đi cấp cứu. Vụ án trên có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó đã tước đoạt tính mạng của một công dân trái pháp luật, gây mất trật tự trị an địa phương và xã hội, gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân, vì vậy cần phải được xử lý nghiêm mình bằng pháp luật hình sự. Thứ hai, hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và ý chí Cách xử sự của một người bị coi là hành vi phạm tội trong luật hình sự là cách xử sự mà trong đó phải có sự tham gia của ý thức và ý chí, nghĩa là chủ thể phải nhận thức và điều khiển được cách xử sự đó. “Những xử sự thể hiện ra thế giới khách quan nhưng không được ý thức của chủ thể nhận thức và điều khiển 11
- hoặc tuy nhận thức được nhưng không điều khiển được thì không có ý nghĩa trong luật hình sự, không phải là hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm”[7, tr.147]. Trong luật hình sự, bất kỳ xử sự nào của con người biểu hiện trong thực tế cũng phải được chủ thể nhận thức và điều khiển. Những xử sự của con người như: hành động bản năng (những hành động được hình thành bởi những kích thích tác động trực tiếp đến cơ thể được thực hiện ngoài sự kiểm soát của ý thức), hành động phản xạ không điều kiện, phản xạ bẩm sinh (những hành động thực hiện như phản ứng mà không cần có sự kiểm soát của ý thức), những phản ứng trong tình trạng choáng, hành động xung động (những hành động không được ý thức một cách đầy đủ) đều không được chủ thể nhận thức hoặc chủ thể nhận thức được nhưng không điều khiển được. Đó đều được coi là những xử sự không có chủ định.[39, tr.78]. Trong dạng hành động này, con người không hề suy nghĩ gì về hành động của mình, không cân nhắc việc có nên hành động hay không, họ phản ứng một cách nhanh chóng và trực tiếp. Những hành động đó, thực tế đã gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ nhưng không phải là hành vi phạm tội, vì chúng không phải là kết quả của sự nhận thức và sự điều khiển của chủ thể mà là kết quả trực tiếp của sự tác động từ bên ngoài. Xét về mặt lý luận, mỗi con người bình thường đều có khả năng hình thành và phát triển năng lực nhận thức và năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức cho phù hợp với những đòi hỏi của xã hội. Tuy nhiên, không phải khi sinh ra con người đã có những năng lực đó mà chúng chỉ hình thành và phát triển khi con người đạt đến một độ tuổi nhất định, đồng thời phải thông qua một quá trình hoạt động, giáo dục trong điều kiện gia đình và môi trường xã hội. Dựa trên cơ sở này, Điều 12 Bộ luật hình sự quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Có những trường hợp dù đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng do bệnh tật và ảnh hưởng của hệ thần kinh nên họ hoàn toàn không có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm 12
- cho xã hội của hành vi mình thực hiện. Đó là những người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự” (Khoản 1, Điều 13 Bộ luật hình sự). Do đó, nếu một người không có khả năng nhận thức hoặc có khả năng nhận thức nhưng không có khả năng điều khiển hành vi của mình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì hành vi đó không bị coi là hành vi phạm tội. Thứ ba, hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự Điều 2 Bộ luật hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, nghĩa là nếu như chủ thể thực hiện hành vi không được quy định trong luật hình sự hoặc hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì cũng không có tội phạm [13, tr.5]. Hành vi được chủ thể thực hiện phải thỏa mãn đầy đủ những đặc điểm của hành vi khách quan của tội phạm cụ thể đã được quy định trong luật hình sự mới được coi là hành vi khách quan của tội phạm, tức là hành vi khách quan của tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. 1.2.3. Hình thức thể hiện của hành vi và phân nhóm hành vi khách quan của tội phạm a. Hình thức thể hiện của hành vi khách quan của tội phạm Hành vi khách quan của tội phạm có hai hình thức thể hiện là hành động phạm tội và không hành động phạm tội. Hành động phạm tội là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm [59, tr.97]. Hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng hành động là trường hợp chủ thể làm những việc mà pháp luật hình sự cấm, hành động đó “có thể chỉ là một động tác đơn giản xảy ra một lần trong thời gian ngắn, có thể là tập hợp nhiều động tác khác nhau, cũng có thể là một động tác đơn giản hay tập hợp nhiều 13
- động tác nhưng được thực hiện lặp đi lặp lại trong khoảng thời gian dài”[7, tr.148]. Ví dụ: hành động cầm súng bắn chết người hay hành động giật lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát chỉ là động tác đơn giản, xảy ra trong thời gian ngắn còn hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 151 Bộ luật hình sự) cũng chỉ gồm một động tác cất giữ trái phép chất ma túy trong người, trong nhà hoặc ở nơi nào đó, không kể thời gian bao lâu, nhưng hành vi này thường được thực hiện trong một khoảng thời gian dài. Hành vi hành hạ được mô tả trong mặt khách quan của tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình (Điều 151 Bộ luật hình sự) được mô tả là hành vi người phạm tội đối xử tàn ác, gây ra đau đớn về thể xác cho người bị hại, có thể gồm nhiều động tác khác nhau như đánh đập, bắt làm việc nặng nhọc quá sức… đối với những người có mối quan hệ hôn nhân và gia đình với họ làm cho người bị hành hạ rơi vào trạng thái bị giày vò về tình cảm, bị tổn thất về danh dự, đau khổ về tinh thần hoặc bị thương tích, tổn hại về sức khỏe, ảnh hưởng cho sự phát triển bình thường trong quan hệ gia đình. Không hành động phạm tội là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm [59, tr.97]. Không hành động phạm tội có thể được hiểu là “sự kiềm chế của chủ thể trước một hành động nào đó trong một hoàn cảnh cụ thể, nếu như sự kiềm chế này thể hiện được quan điểm, thái độ của chủ thể đối với các sự việc, hiện tượng đang diễn ra”[39, tr.78]. Ví dụ: hành vi của người không cứu giúp người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng được quy định tại Điều 102 Bộ luật hình sự. Người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng là người mà tính mạng của họ đang trực tiếp bị đe dọa, đòi hỏi phải có sự cứu giúp kịp thời của người khác, nếu không sẽ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến chết người. Người phạm tội là người có đủ điều kiện để cứu giúp, ngăn chặn hậu quả chết người xảy ra và việc cứu giúp đó không gây nguy hiểm cho bản thân và những người khác. Khả năng của bản thân và điều kiện bên ngoài hoàn toàn cho phép 14
- người phạm tội thực hiện việc cứu giúp nhưng họ đã không thực hiện hành vi mà pháp luật và đạo đức yêu cầu phải làm. Tính trái pháp luật hình sự của hành vi thể hiện ở chỗ chủ thể mặc dù có đủ khả năng và điều kiện để thực hiện một việc mà pháp luật quy định phải làm nhưng họ đã không làm hoặc làm không đầy đủ việc đó. Điều đó đã làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động và gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm.[7, tr. 148]. Trong luật hình sự Việt Nam, có tội phạm mà hành vi khách quan chỉ có thể được thực hiện dưới hình thức hành động, có tội phạm chỉ có thể được thực hiện dưới hình thức không hành động và có những tội mà hành vi khách quan vừa có thể được thực hiện dưới dạng hành động và không hành động phạm tội. Ví dụ: tội cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự), tội hiếp dâm (Điều 111 Bộ luật hình sự)… chỉ có thể được chủ thể thực hiện dưới dạng hành động phạm tội. Đây là loại tội chiếm tỷ lệ lớn trong số các tội phạm được luật hình sự quy định (khoảng gần 70%). Chiếm tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 8%) là loại tội mà hành vi khách quan chỉ được thực hiện bằng không hành động. Ví dụ: tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự), tội không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự), tội không chấp hành án (Điều 304 Bộ luật hình sự). Loại tội mà hành vi khách quan có thể được thực hiện dưới dạng hành động và không hành động. Ví dụ: hành vi khách quan của tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự) có thể được thực hiện bằng hành động như bắn, đâm, chém… nhưng cũng có thể được thực hiện bằng không hành động - không làm những việc nhất định để đảm bảo sự an toàn về tính mạng của người khác mà họ có nghĩa vụ phải làm như hành vi của người mẹ không cho con bú, dẫn đến hậu quả đứa bé bị chết. Trong mặt khách quan của tội hủy hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143 Bộ luật hình sự) hành vi khách quan có thể được thực hiện bằng cả hai hình thức hành động và không hành động. Hành vi hủy hoại được hiểu là hành vi làm cho tài sản mất giá trị sử dụng ở mức độ không còn hoặc khó có khả năng khôi phục lại được, có thể là hành động như đập, phá, đốt… hoặc có thể là không hành động như không 15
- tắt máy khi có sự cố dẫn đến máy bị hư hỏng hoàn toàn… Loại tội này chỉ chiếm tỷ lệ trên 20% các tội phạm. Hành động và không hành động phạm tội đều có khả năng làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Thực tiễn xét xử và đấu tranh tội phạm cho thấy, hành vi phạm tội thực hiện bằng không hành động thường dễ bị bỏ qua và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: hành vi của người mẹ không cho con bú dẫn đến hậu quả đứa trẻ bị chết là hành vi cấu thành tội giết người được thực hiện dưới hình thức không hành động theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự nhưng trên thực tế hành vi phạm tội này thường không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chủ thể không phải chịu hậu quả pháp lý hoặc hành vi của chủ thể dù có điều kiện và khả năng nhưng không cứu giúp người bị ngã xuống sông, hồ, ao cần phải được cứu giúp trên thực tế cũng ít bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Có thể thấy rằng, việc truy cứu một số tội phạm trên được thực hiện bằng không hành động cần phải xem xét đến một số yếu tố như: điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, tâm lý của người phạm tội; mặt khác, hậu quả xảy ra không phải là hành vi trực tiếp của họ tác động tới đối tượng nên trong thực tiễn, những hành vi này ít bị đưa ra xét xử. b. Phân nhóm hành vi khách quan của tội phạm Hành vi của con người diễn ra trong thực tế đời sống rất đa dạng, chính vì vậy, trong luật hình sự, hành vi khách quan được mô tả trong các cấu thành tội phạm không hoàn toàn giống nhau. “Xét về tính chất trái pháp luật, có thể chia hành vi thành hành vi bị cấm tuyệt đối và hành vi bị cấm tương đối. Trong đó, hành vi bị cấm tuyệt đối là hành vi luôn luôn mang tính không hợp pháp còn hành vi bị cấm tương đối là hành vi chỉ có tính không hợp pháp khi chủ thể không thực hiện những yêu cầu nhất định”[29, tr.57]. Hành vi bị cấm tuyệt đối như hành vi hành vi giết người, hành vi trộm cắp tài sản…, hành vi bị cấm tương đối như hành vi kinh doanh, hành vi vận chuyển hàng hóa qua biên giới... Hành vi bị cấm tương đối khi được mô tả trong cấu thành tội phạm đòi hỏi phải mô tả đồng thời các điều kiện làm cho hành vi đó có tính không hợp pháp, ví dụ hành 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 114 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn