intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

34
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu đề tài bao gồm: Làm rõ bối cảnh, quan điểm và nội dung cải cách tư pháp; hiểu rõ thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua; xác định cơ sở thiết lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân và tính ưu việt của mô hình này so với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hiện nay... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ THỊ HẰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HÀ THỊ HẰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Đặng Minh Tuấn HÀ NỘI - 2013 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: YÊU CẦU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN 8 DÂN THEO KHU VỰC TRONG BỐI CẢNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1. Khái quát về cải cách tư pháp 8 1.1.1. Bối cảnh cải cách tư pháp 8 1.1.2. Các quan điểm cải cách tư pháp 12 1.1.3. Những nội dung của cải cách tư pháp 15 1.2. Đổi mới hệ thống Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu cải 19 cách tư pháp 1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân 19 1.2.2. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành 34 1.2.3. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân 39 1.3. Cơ sở thiết lập viện kiểm sát nhân dân khu vực trong hệ thống 46 Viện kiểm sát nhân dân Chương 2: XÂY DỰNG MÔ HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 56 KHU VỰC 2.1. Những thuận lợi của việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân 56 khu vực 2.1.1. Sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Đảng 56 2.1.2. Phù hợp với bối cảnh đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới 57 đất nước 2.1.3. Phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho Tòa án nhân dân 58 3
  4. cấp huyện và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện 2.1.4. Tiếp thu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát 59 nhân dân ở Việt Nam và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 2.2. Khó khăn, thách thức của việc xây dựng mô hình Viện kiểm 63 sát nhân dân khu vực 2.2.1. Những bất cập trong việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự 63 giám sát của Hội đồng nhân dân 2.2.2. Sự thiếu đồng bộ trong việc đổi mới hệ thống các cơ quan tư pháp 66 2.2.3. Sự thiếu thống nhất trong việc xây dựng số lượng và địa hạt tư 68 pháp của Viện kiểm sát khu vực ở một số địa phương 2.2.4. Chưa đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thành lập Viện kiểm sát 71 nhân dân khu vực 2.2.5. Những bất cập về tổ chức cán bộ 72 2.2.6. Những bất cập về cơ sở vật chất 73 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MÔ 75 HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN KHU VỰC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP 3.1. Phương hướng xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 75 3.1.1. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng 75 3.1.2. Đảm bảo sự giám sát của Hội đồng nhân dân 78 3.1.3. Đảm bảo quyền của người dân trong việc tiếp cận Viện kiểm 80 sát nhân dân khu vực 3.1.4. Đảm bảo sự đồng bộ của các cơ quan tư pháp 81 3.2. Các giải pháp xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực 83 3.2.1. Về cơ sở pháp lý 83 3.2.2. Về tổ chức bộ máy 86 3.2.3. Về đội ngũ cán bộ 86 3.2.4. Về cơ sở vật chất 88 KẾT LUẬN 91 4
  5. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách Viện kiểm sát là một trong những nội dung quan trọng của cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng nhằm mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Đảng ta đã có một số nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước và pháp luật, trong đó có nhấn mạnh đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát như Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa VII); Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa VIII); Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Đặc biệt, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định mục tiêu xây dựng một nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Bộ Chính trị chỉ rõ phải: Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm… Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. 6
  7. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra [16]. Trên cơ sở chỉ đạo của Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 28/7/2010 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số 79-KL/TW về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Theo đó, Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay. Tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân, gồm Viện kiểm sát nhân dân khu vực (số lượng và địa hạt tư pháp tương ứng với số lượng và địa hạt tư pháp của Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực); Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao [18]. Sự cần thiết phải thành lập Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp đã được làm rõ thông qua Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Trong đó, việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực là nội dung quan trọng nhất trong phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát vì đây là cấp trực tiếp giải quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ tục tư pháp và đây cũng là vấn đề phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải cách tư pháp trong thời gian tới. Thành lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực thực sự là một chủ trương lớn của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay, đòi hỏi phải được quan tâm, tập trung chỉ đạo, lãnh đạo kịp thời. Vấn đề cấp thiết đặt ra là tổ chức Viện kiểm sát nhân dân khu vực phải đáp ứng mục tiêu chung của việc đổi mới các cơ quan tư pháp, đó là đảm 7
  8. bảo tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và các chức danh tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng thời phải đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân. Với lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài "Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật. Đây là vấn đề có tính thời sự, cần thiết và cấp bách. 2. Tình hình nghiên cứu Nhằm góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, thời gian qua Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp... đã có nhiều chương trình trao đổi và hợp tác với các cơ quan ở các nước Pháp, Đức, Thụy Điển, Nhật Bản, Trung Quốc, Canada... và các tổ chức quốc tế như SIDA, JICA, UNDP... về hoạt động tư pháp. Trong đó có nhiều Hội nghị, Hội thảo, Tọa đàm... trong và ngoài nước đã cho chúng ta một bức tranh nhiều màu sắc về tổ chức và hoạt động hệ thống cơ quan tư pháp của các nước. Đây là những kinh nghiệm quý giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về hệ thống tư pháp của các nước trên thế giới để từ đó lựa chọn một mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Những định hướng lớn về cải cách tư pháp nói riêng và cải cách bộ máy nhà nước nói chung liên tục được đề cập qua các kỳ Đại hội Đảng VI, VII, VIII và IX là nền tảng tư tưởng vững chắc cho công cuộc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp nước ta. Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, Luận văn thạc 8
  9. sĩ, sách chuyên khảo nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân như Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân" năm 2006, "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân khu vực ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2009; Luận văn Thạc sĩ luật học: "Viện kiểm sát nhân dân trong điều kiện cải cách tư pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011; sách chuyên khảo: "Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam", của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước", của GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay", của tập thể các tác giả do GS.TS. Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002... Bên cạnh đó còn có các bài viết liên quan đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đăng trên các tạp chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", của TSKH Lê Cảm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", của Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; "Một vài ý kiến về việc tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân theo mô hình khu vực" của Hồ Đức Anh, website http://www.vksndtc.gov.vn/theloai/tuphap/66.aspx... Các công trình khoa học nêu trên đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư 9
  10. pháp nước ta, phúc đáp những yêu cầu bức xúc của cuộc sống. Tuy nhiên, vì các lý do khác nhau nên những công trình nghiên cứu trên chưa giải quyết một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân nói riêng trong điều kiện cải cách tư pháp. Vấn đề tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp trong đó có việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực mới được đặt ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị và Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/07/2010 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Vì vậy, mặc dù đã có khá nhiều bài viết về vấn đề này nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện và có hệ thống chính thức được công bố. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu đề tài bao gồm: - Làm rõ bối cảnh, quan điểm và nội dung cải cách tư pháp. - Hiểu rõ thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua. - Xác định cơ sở thiết lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân và tính ưu việt của mô hình này so với Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện hiện nay. - Chỉ ra những thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực; - Đưa ra phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận văn có nhiệm vụ: - Nghiên cứu cải cách tư pháp ở Việt Nam và yêu cầu cải cách đối với Viện kiểm sát nhân dân. - Nghiên cứu thực trạng hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian qua. 10
  11. - Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc thiết lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực cũng như tính ưu việt của mô hình này. - Nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Trên cơ sở đó đưa ra một số phương hướng, giải pháp để xây dựng mô hình này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đây là một đề tài mang tính chất lý luận và thực tiễn cao, có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng cả về không gian, thời gian cũng như đối tượng nghiên cứu. Mô hình tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 4 cấp theo yêu cầu cải cách tư pháp bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi xác định phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu giải quyết những vấn đề pháp lý liên quan đến Viện kiểm sát nhân dân khu vực bởi lẽ đây là cấp trực tiếp giải quyết số lượng chủ yếu các vụ việc theo thủ tục tư pháp và cũng là vấn đề phức tạp, có tác động rất lớn đến hiệu quả của cải cách tư pháp trong thời gian tới. Trong đó, luận văn sẽ tìm hiểu những vấn đề chủ yếu của cải cách tư pháp và yêu cầu đặt ra đối với ngành kiểm sát; tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành; cơ sở thiết lập Viện kiểm sát nhân dân khu vực; những thuận lợi và khó khăn, thách thức trong việc xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực, trên cơ sở đó đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng có hiệu quả mô hình này. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Luận văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu 11
  12. Hiến pháp, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên qua các thời kỳ và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp luật học so sánh và khảo sát thực tế để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận văn. 6. Những đóng góp mới Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và luận cứ khoa học về bối cảnh, quan điểm, nội dung cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở tổng hợp số liệu qua nhiều nguồn xác thực, luận văn đã đánh giá đúng thực trạng tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong những năm qua và yêu cầu cải cách Viện kiểm sát nhân dân; xác định cơ sở thiết lập và tính ưu việt của mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực; làm rõ những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với ngành kiểm sát trong việc xây dựng mô hình này. Trên cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số phương hướng và giải pháp khoa học, phù hợp với điều kiện thực tiễn để xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, hi vọng rằng luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm thực tiễn và công tác nghiên cứu, giảng dạy. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Yêu cầu đổi mới mô hình Viện kiểm sát nhân dân theo khu vực trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam. Chương 2: Xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Chương 3: Phương hướng và giải pháp xây dựng mô hình Viện kiểm sát nhân dân khu vực đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 12
  13. Chương 1 YÊU CẦU ĐỔI MỚI MÔ HÌNH VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THEO KHU VỰC TRONG BỐI CẢNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẢI CÁCH TƯ PHÁP 1.1.1. Bối cảnh cải cách tư pháp Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là quá trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường, đáp ứng ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và nhà nước Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế [24, tr. 182]. Trong hơn 60 năm qua, hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta đã hình thành và từng bước kiện toàn, phát triển trên nền tảng của những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, hiện đại, ngày càng phù hợp và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Bước vào thiên niên kỷ mới, công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đạt đến bước phát triển mới, tạo nên những tiền đề và cũng là thách thức lớn về kinh tế, chính trị, xã hội đòi hỏi phải có những điều chỉnh lớn mang tính cải cách đối với 13
  14. thiết kế tổng thể của hệ thống tư pháp, từ chức năng, nhiệm vụ đến tổ chức, con người và hoạt động của từng cơ quan tư pháp cũng như các mối quan hệ giữa chúng. Trên phương diện quốc tế, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái toàn cầu vẫn còn tiếp tục tác động đến thế giới nói chung và nền kinh tế nước ta nói riêng, vẫn tiềm ẩn nguy cơ tái khủng hoảng. Quá trình tái cấu trúc các nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính toàn cầu sẽ diễn ra mạnh mẽ, gắn với những bước tiến mới về khoa học, công nghệ và sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên. Chủ trương bảo hộ trỗi dậy trở thành rào cản lớn cho thương mại quốc tế. Thực tế này đã đặt ra những thách thức gay gắt đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trong việc chủ động sử dụng các công cụ pháp lý quốc tế và các nỗ lực tập thể để nêu cao chủ quyền dân tộc, phát huy vai trò và bảo vệ lợi ích của mình. Trong giai đoạn tới, các nước ASEAN sẽ hình thành cộng đồng kinh tế chung. Quá trình này sẽ dẫn đến việc hình thành các nguyên tắc và chuẩn mực chung, trong đó có các nguyên tắc, quy định pháp luật thể hiện lợi ích của cả cộng đồng. Việt Nam đã hội nhập ngày càng sâu và rộng vào đời sống kinh tế, chính trị quốc tế. Điều này không chỉ thể hiện ở sự tham gia trực tiếp của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế và các diễn đàn quốc tế và khu vực có tính truyền thống như Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên của Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á mà còn thể hiện sự mở rộng đối với các tổ chức và diễn đàn này thông qua các diễn đàn APEC+, ASEAN+... Quá trình này làm cho hệ thống pháp luật và các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp của Việt Nam có những sửa đổi và điều chỉnh tích cực như từng bước chuyển hóa các nguyên tắc pháp lý thương mại quốc tế cơ bản như không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch trong hoạt động ban hành pháp luật, áp dụng pháp luật, trong quy trình ra các quyết định hành chính, tư pháp... Tuy nhiên, những tiền đề đó chưa đủ để vượt qua được 14
  15. những thách thức lớn đối với hệ thống pháp luật và tư pháp nước ta trong những năm tiếp theo. Như một số nhà nghiên cứu phân tích, những thách thức đó là sự bất tương thích về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động và thủ tục tố tụng tư pháp của Việt Nam so với các quy tắc và chuẩn mực chung của quốc tế; sự bất cập, lạc hậu trong nhận thức, hiểu biết và đặc biệt là kỹ năng áp dụng pháp luật của đội ngũ cán bộ tư pháp trong khi xử lý các vấn đề pháp lý liên quan đến quá trình hội nhập. Trong khi đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức thương mại quốc tế hiện đại và kỹ năng nghiệp vụ liên quan tới hội nhập vẫn đang trong tình trạng bị động, chắp vá, hình thức, kém hiệu quả [28]. Để có thể thúc đẩy quá trình hội nhập nhanh và bền vững, việc xây dựng một nhà nước hiệu quả, có cơ cấu tổ chức phù hợp và một hệ thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với thông lệ chung là yêu cầu rất lớn đang đặt ra đối với đất nước ta. Sau 25 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển kinh tế đất nước. Sự ổn định về chính trị - xã hội, dân trí được nâng cao, dân chủ hóa nhiều mặt đời sống xã hội, bảo đảm nhân quyền, công bằng, tiến bộ xã hội đang đòi hỏi phải phát huy vai trò của pháp luật và tư pháp. Mặt khác, nhiều vấn đề văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục... đặt ra nhiều thách thức lớn trong đó có vấn đề phát triển bền vững. Quốc phòng và an ninh, nhất là chủ quyền và an ninh vùng biển đảo vẫn đang là thách thức lớn trong bối cảnh quốc tế hiện tại. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh "diễn biến hòa bình", lợi dụng triệt để vấn đề tự do dân chủ, tự do tôn giáo, các vấn đề về nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, kích động bạo loạn, ly khai. Những tội phạm có vấn đề an ninh phi truyền thống như buôn bán ma túy, cướp biển, tội phạm có tổ chức, khủng bố, nhập cư và di cư trái phép đang ảnh hưởng đến tình hình trật tự - xã hội của đất nước. Trong bối cảnh đó, việc xây dựng, củng cố hệ thống pháp luật và tư pháp có khả năng đối mặt với khó khăn, thách thức này càng cần phải được chú trọng. 15
  16. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011) được tổ chức thành công có ý nghĩa trọng đại khi đất nước đang bước sang một giai đoạn phát triển mới sau 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới. Đại hội Đảng đã thông qua Cương lĩnh phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020. Đây là những văn kiện quan trọng định hướng cho sự phát triển đất nước trong những năm tới, đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước như một khâu quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược, tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy, tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính. Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 12/07/2011 Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã đưa ra nhiều đề xuất sửa đổi quan trọng, đặc biệt là các chương về chế độ kinh tế, về tổ chức bộ máy nhà nước. Thông qua việc sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chiến lược cải cách tư pháp và 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính cho thấy cải cách lập pháp, hành chính và tư pháp tuy đạt được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ, song hệ thống pháp luật nói chung, thể chế kinh tế thị trường và thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng còn rất nhiều bất cập; nhiều định hướng cải cách tư pháp không được nhận thức và triển khai thống nhất giữa các cơ quan, cải cách hành chính chưa thực sự triệt để. Đây cũng chính là khâu phải đột phá để đáp ứng các mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới, để pháp luật và Nhà nước pháp quyền phải thật sự vừa là môi trường thuận lợi, vừa là chủ thể thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, công cuộc đổi mới toàn diện đã tạo ra những tiền đề, đồng thời cũng đặt ra những thách thức lớn cho tiến trình cải cách tư pháp nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam. 16
  17. 1.1.2. Các quan điểm cải cách tư pháp Thứ nhất, cải cách tư pháp phải xuất phát từ nhu cầu và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trong từng giai đoạn phát triển của mình, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan tư pháp không chỉ phục vụ, tạo thuận lợi cho sự vận hành của nền kinh tế mà đồng thời phải là người lính gác bảo vệ tinh thông, nhạy bén trước những biến cố, tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường có thể xâm hại đến trật tự công cộng [24, tr. 187]. Sự phát triển, hoàn thiện của hệ thống tư pháp không tách rời sự phát triển của kinh tế - xã hội và tác động ngược trở lại đối với kinh tế - xã hội, tạo nên hệ thống công cụ pháp lý an toàn cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, các trình tự, thủ tục và phương thức, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, chức danh tư pháp phải được cải cách theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, tiêu chuẩn hóa, hiện đại hóa phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức, giải quyết nhanh chóng, hợp lý, hiệu quả các tranh chấp kinh tế, dân sự trong nền kinh tế thị trường đang hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và quốc tế, bảo vệ trật tự kỷ cương xã hội, bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xã hội và Nhà nước. Thứ hai, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải đảm bảo giữ vững và phát huy bản chất dân chủ, vì con người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Nguyên tắc "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân" thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Nhà nước pháp quyền là bảo đảm và phát triển quyền con người, quyền công dân. 17
  18. Phương thức bảo đảm quyền con người của Nhà nước pháp quyền là công nhận quyền con người, xác lập quyền công dân bằng hoạt động lập pháp, tổ chức thực thi quyền con người, quyền công dân bằng hoạt động hành pháp và bảo vệ các quyền đó bằng hoạt động tư pháp. Nguyên tắc xây dựng các cơ quan tư pháp của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền đòi hỏi huy động sự tham gia ngày càng rộng rãi và tích cực của nhân dân vào công tác tư pháp, bắt đầu từ quá trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động tư pháp đến quá trình tổ chức thực thi pháp luật trong hoạt động tư pháp. Nhiều Nghị quyết của Đảng (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị) và đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nhấn mạnh chủ trương nghiên cứu và đẩy mạnh xã hội hóa một số hoạt động tư pháp, bổ trợ tư pháp như tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, thi hành án, giám định tư pháp, công chứng, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Thực chất đó là quá trình thu hút sức mạnh, trí tuệ, nguồn lực của nhân dân để làm thành sức mạnh của nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở xã hội rộng rãi cho hoạt động tư pháp có hiệu lực, hiệu quả. Thứ ba, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được tiến hành đồng bộ với cải cách lập pháp, hành pháp theo hướng đảm bảo tính độc lập tương đối và sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực trên cơ sở quyền lực nhà nước thống nhất thuộc về nhân dân, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước. Trên cơ sở của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2001-2010 do Đại hội Đảng IX thông qua, Nhà nước đã chọn khâu trọng tâm, đột phá trong cải cách bộ máy nhà nước - đó là xây dựng và triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001-2010 với mục tiêu xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại hóa. Kết quả bước đầu dù 18
  19. còn rất khiêm tốn của cải cách hành chính đã góp phần tạo ra những tiền đề và yêu cầu mới đối với cải cách đồng bộ tổ chức và hoạt động lập pháp, tư pháp. Trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết về Chiến lược xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là Chiến lược pháp luật) và Nghị quyết về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 làm cơ sở chính trị quan trọng cho các cải cách đồng bộ của cả bộ máy nhà nước. Thứ tư, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo tính tối cao của luật trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, đảm bảo cải cách đồng bộ cả hệ thống tư pháp với Tòa án và hoạt động xét xử là trung tâm. Đây là yêu cầu rất cơ bản của Nhà nước pháp quyền đối với hoạt động tư pháp. Tòa án - cơ quan duy nhất có quyền xét xử, quyền sử dụng và nhân danh quyền lực nhà nước để phán xét tính hợp hiến, hợp pháp của những vi phạm pháp luật, những tranh chấp pháp lý. Nguyên tắc Hiến định "Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật" [35, Điều 72] khẳng định tính tối cao, quyết định của hoạt động xét xử và vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp. Vì vậy, cải cách tư pháp phải đồng bộ ở tất cả các công đoạn của quy trình tố tụng và với tất cả các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp nhằm giải quyết triệt để những bất cập hiện nay đang làm cho quy trình tố tụng bị cắt khúc, các cơ quan tư pháp biệt lập với quyền ra những quyết định tiền xét xử (bắt tạm giữ, tạm giam...) có nhiều nguy cơ gây oan sai, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích cơ bản của công dân, làm cho Tòa án không thực sự giữ được vị trí là trung tâm của hệ thống tư pháp, là cơ quan duy nhất có quyền ra các quyết định, phán quyết động chạm đến quyền cơ bản của công dân trong quá trình tố tụng tư pháp. Thứ năm, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp phải dựa trên việc khai thác, phát huy các giá trị văn hóa pháp luật truyền thống của Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa pháp luật thế giới trong lĩnh 19
  20. vực tư pháp nói riêng, trong tổ chức lao động quyền lực nói chung theo các nguyên tắc pháp quyền. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, một nền kinh tế phát triển, một nền chính trị dân chủ phải đi kèm với một nền văn hóa pháp luật ở trình độ cao. Phát huy các giá trị văn hóa trong hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật trở thành đòi hỏi có tính cấp bách, góp phần đảm bảo thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng Nhà nước pháp quyền, thì việc nhận diện và phát huy các giá trị văn hóa pháp luật trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật trở nên vô cùng cấp thiết. Mục tiêu của công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và cải cách tư pháp chỉ có thể đạt được khi được tiến hành trong môi trường văn hóa dân chủ, trọng dân, trọng pháp thông qua văn hóa ứng xử của những con người, tổ chức cụ thể [24, tr. 192]. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện để góp phần khẳng định những giá trị văn hóa pháp luật truyền thống, khai thác và áp dụng những kinh nghiệm, bài học quý của dân tộc và các giá trị văn hóa pháp luật của nhân loại - công bằng và nhân đạo, dân chủ và pháp chế [3] phải trở thành một quan điểm xuyên suốt quá trình cải cách tư pháp theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong điều kiện hội nhập quốc tế. 1.1.3. Những nội dung của cải cách tư pháp Dựa trên các nguyên tắc và yêu cầu cải cách tư pháp, những nội dung cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải được thiết kế và thực hiện trên cả ba yếu tố hợp thành của hệ thống tư pháp, đó là các thể chế, các thiết chế và các chức danh tư pháp, bổ trợ tư pháp, cụ thể như sau: 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2