intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố - Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:106

24
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp giữa điều tra và công tố, những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, những quy định của pháp luật hiện hành để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa điều tra và công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Mối quan hệ giữa điều tra và công tố - Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN CÔNG HOÀNG MèI QUAN HÖ GI÷A §IÒU TRA Vµ C¤NG Tè - QUA THùC TIÔN THµNH PHè H¶I PHßNG Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 60 38 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Công Hoàng
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU TRA VÀ CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .......... 6 1.1. Khái niệm điều tra và công tố trong tố tụng hình sự ...................... 6 1.1.1. Khái niệm hoạt động điều tra ............................................................... 6 1.1.2. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố .......................... 12 1.2. Khái niệm, nội dung mối quan hệ giữa hoạt động điều tra và công tố .......................................................................................... 20 1.2.1. Khái niệm ........................................................................................... 20 1.2.2. Nội dung của mối quan hệ giữa công tố và điều tra ............................ 22 1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát (Viện công tố) ở mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn và mô hình tố tụng hình sự tranh tụng .................................................................. 24 Chƣơng 2: MỐI QUAN HỆ GIƢ̃ A CƠ QUAN ĐIỀU TRA VÀ VIỆN KIỂM SÁT (VIỆN CÔNG TỐ) TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM...................................... 29 2.1. Tổ chƣ́c, vị trí và nhiệm vụ, quyền ha ̣n của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ................................................................................ 29 2.1.1. Cơ quan điều tra .................................................................................. 29 2.1.2. Viê ̣n kiể m sát ...................................................................................... 33 2.2. Đặc điểm và nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong tố tu ̣ng hin ̀ h sƣ ̣ Việt Nam............................... 36
  4. Chƣơng 3: THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA VÀ CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...........................................59 3.1. Những kết quả đạt đƣợc trong việc thực hiện mố i qua n hê ̣ giƣ̃a điều tra và công tố trong tố tụng hình sự trên địa bàn Hải Phòng .......................................................................................... 59 3.1.1. Thực trạng mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .............. 59 3.1.2. Thực trạng mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can ....................................................................... 61 3.1.3. Thực trạng mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn .................................................................. 64 3.1.4. Thực trạng mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong việc tổ chức hoạt động điều tra, kết thúc điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố ............. 68 3.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt đƣợc .................................... 70 3.3. Những khó khăn vƣớng mắc trong việc thực hiện mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong tố tụng hình sự và nguyên nhân ..... 72 3.4. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng quan hệ giữa công tố và điều tra trong tố tụng hình sự ............................................................................................... 77 3.4.1. Quan điểm chỉ đạo về vấn đề tăng cường công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với điều tra........................................................... 77 3.4.2. Về hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tăng cường mối quan hệ giữa điều tra và công tố ...................................................................... 81 3.4.3. Giải pháp về cơ cấu tổ chức và con người ......................................... 86 KẾT LUẬN .................................................................................................... 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra CHLB: Cộng hòa liên bang ĐHĐBND: Đại hội đại biểu nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TP: Thành phố THQCT: Thực hành quyền công tố UBND: Ủy ban nhân dân VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Kết quả thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, VKS trên địa bàn Hải Phòng 59 Bảng 3.2: Kết quả khởi tố vụ án của CQĐT và VKS trên địa bàn Hải Phòng 60 Bảng 3.3: Kết quả công tác áp dụng các biện pháp ngăn chặn của VKS và CQĐT trên địa bàn Hải Phòng 64
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, công cuộc cải cách tư pháp được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và được đặt trong mọi quan hệ với việc đẩy mạnh cải cách hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được của việc tổ chức thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với mục tiêu xuyên suốt là xây dựng nền tư pháp trong sạch, bền vững, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa… Nhằm tạo sự chuyển biến mang tính đột phá trong cuộc đấu tranh bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Trước mắt, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. VKSND được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của tòa án. Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát (VKS) thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Xác định rõ nhiệm vụ của Cơ quan điều tra (CQĐT) trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng CQĐT chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra theo yêu cầu của CQĐT chuyên trách. Trước mắt, tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức CQĐT theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi 1
  8. điều kiện để tiến tới tổ chức lại các CQĐT theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ghi nhận các nội dung: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Hoàn thiện hệ thống pháp luật; Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh; Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra… Theo tinh thần trên, các cơ quan tư pháp nói chung; VKSND và CQĐT các cấp nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, trong đó mối quan hệ phối hợp, chế ước lẫn nhau giữa VKSND và CQĐT là một trong những khía cạnh quan trọng trong việc thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Tuy nhiên, hiện nay hệ thống pháp luật về hoạt động công tố và hoạt động điều tra, cũng như mối quan hệ giữa hai hoạt động này còn thiếu đồng bộ, thiếu tính cụ thể, minh bạch, chưa phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp. Điều này dẫn đến việc, trong quá trình tiến hành giải quyết vụ án hình sự ở giai đoạn điều tra còn nhiều vấn đề chồng chéo nhau, chưa đảm bảo tốt việc thực hiện đúng các quy định của BLTTHS về điều tra, chưa dẫn đến việc điều tra vụ án nhanh chóng. Với những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Mối quan hệ giữa điều tra và công tố - qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” làm đề tài luận văn thạc sĩ cao học luật. 2. Tình hình nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài Những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về cả lý luận và thực tiễn ở các cấp độ khác nhau đến các vấn đề tổ chức và hoạt 2
  9. động của cơ quan tư pháp nói chung, hoạt động điều tra và công tố nói riêng… Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu thấy rằng các công trình khoa học tập trung nghiên cứu ở những khía cạnh sau: - Tác giả Lê Hữu Thể: Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội số 05/2011; Tác giả Lê Cảm: Bàn về tổ chức quyền tư pháp - nội dung cơ bản của chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội, số 07/2005; Luận văn Thạc sỹ Luật học với đề tài “Mối quan hệ giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và VKS trong giai đoạn khởi tố điều tra” của Hoàng Ngô Văn tại.... mới chỉ đề cập, nghiên cứu, phân tích mối quan hệ giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và VKS trong giai đoạn khởi tố điều tra vụ án hình sự; Nguyễn Ngọc Chí: Chức năng của Tòa án trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp (Tạp chí chuyên ngành), Hà Nội- 2009. Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Tiến Sơn với đề tài “Mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự Việt Nam” bảo vệ năm 2012 tại Học viện Khoa học xã hội. Nguyễn Hải Phong (Chủ biên): Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp (Trong chương trình hợp tác dự án Jica với đối tác Nhật Bản), Hà Nội- 2014. Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của CQĐT, VKSND nói chung; Đồng thời đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về hoạt động điều tra và công tố trên một số lĩnh vực cụ thể. Mà chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập cụ thể đến mối quan hệ giữa hoạt động công tố và hoạt động điều tra trong điều tra các vụ án hình sự. Tuy nhiên, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của tác giả. Phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến: 3
  10. Mối quan hệ giữa điều tra và công tố, qua thực tiễn tại thành phố Hải Phòng để làm rõ khái niệm về mối quan hệ, mô hình tố tụng của CQĐT, VKSND. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp giữa điều tra và công tố, những tồn tại và vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, những quy định của pháp luật hiện hành để đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về mối quan hệ giữa điều tra và công tố theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận về quy định của pháp luật liên quan đến điều tra và công tố. + Nhận xét, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và sự phối hợp giữa điều tra và công tố. Trên cơ sở đó để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động điều tra và hoạt động công tố, mối quan hệ giữa hoạt động điều tra và công tố để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Trong khuôn khổ chuyên ngành lý luận về lịch sử nhà nước và pháp luật, luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận và thực trạng các quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa hoạt động điều tra và công tố. Do vậy, đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc đổi mới các quy định pháp luật về Tố tụng hình sự liên quan đến hoạt động điều tra và công tố. 4
  11. - Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Luận văn này sử dụng những phương pháp nghiên cứu là: Phân tích, tổng hợp; phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; phương pháp so sánh, thống kê và phương pháp khác. 5. Tính mới và ý nghĩa của đề tài Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động điều tra và công tố trong tố tụng hình sự, cũng như mối quan hệ giữa các hoạt động này theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác lý luận và thực tiễn, ngoài ra còn có thể được sử dụng cho công tác nghiên cứu và giảng dạy. Luận văn phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về khai niệm, vị trí, vai trò; hoàn thiện pháp luật về hoạt động điều tra và công tố, mối quan hệ giữa hai hoạt động này. Đưa ra những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong mối quan hệ giữ điều tra và công tố. Từ đó đưa ra đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động điều tra và công tố trong Tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa điều tra và công tố trong tố tụng hình sự Chương 2: Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát (Viện công tố) trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. Chương 3: Thực trạng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa hoạt động điều tra và công tố trong tố tụng hình sự 5
  12. Chương 1 MỘT SÔ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU TRA VÀ CÔNG TỐ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm điều tra và công tố trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm hoạt động điều tra Điều tra là hoạt động có mục đích trong việc phát hiện ra sự thật khách quan phục vụ nhu cầu trong đời sống của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là hoạt động phát hiện tội phạm, người phạm tội. Hoạt động điều tra được nhìn nhận và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào chính sách hình sự, trình độ, cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội phạm ở từng nước cũng như quan điểm chính trị của quốc gia đó. Quan điểm thứ nhất, cho rằng “hoạt động điều tra là hoạt động tố tụng có nội dung phát hiện, củng cố, thu giữ các thông tin thực tế nhằm mục đích thu thập chứng cứ” [21]. Quan điểm này chưa thể hiện được của hoạt động nhận thức để làm chuyển hóa thông tin. Đây chỉ là các hoạt động trong việc nhận thức như: hỏi và các phương pháp khác do pháp luật tố tụng hình quy định. Quan điểm thứ hai, cho rằng “hoạt động điều tra là hoạt động tố tụng nhằm thu thập, củng cố và kiểm tra chứng cứ” [60]. Quan điểm này xác định rõ điều tra là hoạt động thu thập chứng cứ và theo đó chứng cứ đã tồn tại từ trước, sẵn có trước khi con người thực hiện cuộc điều tra như vậy là bỏ qua quá trình thực hiện của con người, CQĐT chỉ thực hiện việc thu lượm chứng cứ có sẵn. Quan điểm trên chưa đề cập đến chủ thể của hoạt động điều tra và coi chứng cứ là những cái có trước khi thực hiện các hoạt động điều tra, khác với việc thực hiện hoạt động điều tra luôn luôn mang tính sáng tạo, tìm tòi của chủ thể điều tra. 6
  13. Quan điểm thứ ba, cho rằng “điều tra là một dạng hoạt động phát hiện, nghiên cứu, củng cố, ghi nhận, thu giữ các chứng cứ của điều tra viên theo quy định của luật” [9]. Quan điểm này không chỉ ra được hoạt động cụ thể nào để có được chứng cứ. Giống như quan điểm thứ hai, đã thừa nhận chứng cứ có trước khi tiến hành các hoạt động điều tra và đã làm mất đi tính tích cực sáng tạo của của hoạt động điều tra mà chỉ là một phương pháp mang tính tìm kiếm đơn lẻ. Hai quan điểm này không phân biệt được sự khác biệt giữa khách thể được phản ánh thông qua các hoạt động điều tra tức là các dấu vết của tội phạm để lại và sản phẩm của hoạt động điều tra là các chứng cứ. Tuy nhiên quan điểm này khác với quan điểm thứ hai là về mặt chủ thể của hoạt động điều tra chỉ là điều tra viên. Nhìn chung của các quan điểm trên đã nêu được nội dung bản chất của hoạt động điều tra là hoạt động, khám phá, phát hiện, thu thập, ghi nhận, thu giữ những thông tin của vụ án. Điểm khác nhau giữa các quan điểm trên là đưa ra đối tượng mà hoạt động điều tra hướng tới, thừa nhận điều tra viên là chủ thể của hoạt động điều tra. Tuy nhiên vẫn chưa giải quyết được vấn đề là chứng cứ có sẵn hay không, phạm vi chủ thể của hoạt động điều tra là những ai. Trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra như: Từ điển Luật học thì, "Điều tra là công tác trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ" [8, tr.75]. Hiện nay quan điểm được sử dụng nhiều ở Việt Nam thì cho rằng điều tra là hoạt động của CQĐT trong điều tra các vụ án hình sự. Điều tra là tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một CQĐT thực hiện. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này CQĐT áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người phạm tội. 7
  14. Cách hiểu này thể hiện ranh giới không rõ ràng giữa chức năng của CQĐT với hoạt động điều, đồng nhất giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra, coi hoạt động điều tra gồm các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra; nhìn nhận về hoạt động điều tra mang tính cục bộ, phiến diện, bó hẹp phạm vi hoạt động điều tra chỉ được tiến hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong thực tiễn hoạt động điều tra được tiến hành xuyên suốt trong tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự để xác định sự thật khách quan của vụ án. Cách hiểu như vậy về hoạt động điều tra là chưa toàn diện, đầy đủ thiếu tính bản chất của hoạt động điều tra. Quan điểm này chỉ ghi nhận CQĐT là chủ thể duy nhất có thẩm quyền được thực hiện các hoạt động điều tra. Điều này mâu thuẫn với quy định của BLTTHS về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. BLTTHS 2003 quy định rõ về thẩm quyền thu thập chứng cứ: Để thu thập chứng cứ, CQĐT, VKS và tòa án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án [35, Điều 65, Khoản 1]. Từ đó dẫn đến việc nhìn nhận hoạt động điều tra là chỉ bao gồm một số hành vi về điều tra như "việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thực hiện việc bắt, tạm giữ người khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm, thực hiện lệnh khám xét..." [1, tr. 50-51], chưa phân biệt hoạt động điều tra với các hoạt động tố tụng hình sự khác. Cách hiểu thứ hai cho rằng hoạt động điều tra là hoạt động của CQĐT, VKS và tòa án nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Điểm khác biệt của quan điểm này so với quan điểm thứ nhất là nhìn nhận việc chủ thể của 8
  15. hoạt động điều tra rộng hơn. Tuy nhiên, cách hiểu này vẫn nhầm lẫn giữa các hoạt động của CQĐT với hoạt động điều tra; giữa chức năng của từng hoạt động điều tra với chức năng của CQĐT và VKS. Về mặt quy định của pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về “hoạt động điều tra” và cũng chưa được giải thích mang tính pháp lý bởi Cơ quan có thẩm quyền trong việc giải thích pháp luật. Các BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Một số giải thích không chính thức như đã nói trên đây chưa đủ để có một nhận thức đúng về hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau, chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Vì vậy, mà đã đồng nhất hoạt động điều tra với các hoạt động khác của CQĐT, bó hẹp phạm vi chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra. Tại Việt Nam hoạt động điều tra chưa được các chuyên gia nghiên cứu một cách sâu sắc, nên có nhiều cách hiểu, cũng như nhận thức khác nhau về hoạt động điều tra. Nhìn từ góc độ lý luận mang tính phản ánh thì hoạt động điều tra được xem là một hoạt động nhận thức. Ngay trong giai đoạn đầu tiên của hoạt động điều tra là thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ đây chính là hoạt động mang tính nhận thức của con người. Hoạt động chứng minh nhằm phản ánh những gì xảy ra trong quá khứ, thì hoạt động thu thập chứng cứ lại phản ánh những khách thể mang tính hiện tại, hiện hữu. Đây là một đặc điểm của việc thu thập chứng cứ, mặt khác nếu chúng ta không dựa vào lý luận nhận thức thì không 9
  16. thể giải thích được các quy luật hình thành chứng cứ và kết quả của hoạt động điều tra phụ thuộc vào yếu tố nào. Cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ để chứng minh sự thật khách quan của vụ án đã xảy ra. Các dấu vết, hình ảnh của tội phạm luôn được phản ánh lại trên các khách thể vật chất. Dấu vết tội phạm là cơ sở thực tiễn khách quan cho hoạt động chứng minh tội phạm, cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu, xem xét, tìm ra quy luật hình thành sự việc phạm tội, để xây dựng kế hoạch chứng minh tội phạm, để đưa ra cách đánh giá những sự việc diễn ra trong quá khứ của liên quan đến sự kiện phạm tội. Dấu vết của tội phạm không được dùng làm chứng cứ nếu nó không được thu thập theo đúng trình tự thủ tục theo quy định của luật tố tụng. Muốn sử dụng, các dấu vết của tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền phải thu thập, tiếp nhận và phản ánh nó trong hồ sơ vụ án theo đúng quy định của luật tố tụng, sự phản ánh đó phải đúng sự thật khách quan đã xảy ra trong quá khứ. Đây là quá trình hình thành chứng cứ, một quá trình đòi hỏi mang tính khách quan, tuân thủ các quy luật của hoạt động nhận thức. Trong quá trình đấu tranh tội phạm không bao giờ có sẵn những lời khai, cũng như biên bản hoạt động điều tra. Các vật thể được thực hiện bởi tội phạm phải được Cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá để chuyển hóa thành vật chứng theo luật định. Phân tích các quy định của BLTTHS có thể thấy luật ghi nhận nhiều cách thức, biện pháp điều tra khác nhau như: ghi lời khai, nhận dạng, đo vẽ, so sánh, khám nghiện hiện trường, thực nghiệm điều tra... Việc sử dụng biện pháp điều tra nào là tùy thuộc vào khách thể và mục đích điều tra. Ví dụ: muốn thu thập dấu vết tội phạm khi thực hiện hoạt động khám nghiệm hiện trường thì phải dùng những thủ thuật, phương pháp nhận thức như quan sát, kết hợp với đo vẽ, so sánh, thực nghiệm để phát hiện và ghi nhận và thu giữ 10
  17. những thông tin được phản ánh trong các đồ vật và tài liệu. Mỗi phương pháp để phát hiện, tiếp thu và củng cố không phải đối với bất kỳ thông tin nào mà chỉ có thể với những loại thông tin phù hợp với bản chất vật lý của nó. Thí dụ phương pháp quan sát không thể phù hợp với những thông tin phản ánh trong trí nhớ của con người. Nhưng phương pháp “hỏi” lại phù hợp cho việc nhận thông tin này. Như vậy bảy phương pháp, bảy thao tác của nhận thức là: quan sát, hỏi, so sánh, đo đạc, thí nghiệm, mô hình hóa và mô tả trong sự kết hợp với nhau đã tạo thành số lượng lớn các hoạt động điều tra được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Thậm chí các hoạt động điều tra có chung các phương pháp, thao tác nhưng vẫn khác nhau về mức độ liên kết đặc thù giữa các phương pháp đó, khác nhau về hình thức pháp luật sử dụng cùng một phương pháp đó. Từ góc độ bản chất nhận thức của hoạt động điều tra chúng ta có thể định nghĩa hoạt động điều tra là một sự kết hợp các thao tác có tính chất tìm kiếm, nhận thức, xác nhận phù hợp với đặc thù của các dấu vết tội phạm, phát hiện, thu giữ, củng cố một cách có hiệu quả các thông tin có giá trị chứng minh trong các dấu vết đó theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhằm mục đích thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ chứng minh sự kiện phạm tội. Cách tiếp cận như vậy về hoạt động điều tra là cơ sở có thể cho phép chúng ta làm rõ cơ cấu bên trong của hệ thống cấu thành của hoạt động điều tra, phân loại hoạt động điều tra; phân biệt các hoạt động điều tra giống nhau nhưng có mục đích rất khác nhau (ví dụ như khám nghiệm, khám xét, khám người); làm rõ hơn khả năng phục vụ hoạt động nhận thức của từng hoạt động điều tra, cụ thể trên cơ sở xác định vị trí của nó trong hệ thống các hoạt động điều tra và cho phép thực hiện việc lựa chọn đúng hoạt động điều tra cần thiết trong thực tiễn. Hoạt động điều tra là một công cụ, phương tiện khám phá tội phạm, có 11
  18. bản chất và nội hàm của hoạt động nhận thức. Để nâng cao hiệu quả thực tiễn của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi chủ thể phải nhận thức đúng bản chất, tuân thủ những quy luật hoạt động nhận thức trong việc áp dụng các hoạt động điều tra trong thực tiễn. 1.1.2. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố 1.1.2.1. Khái niệm quyền công tố Quyền công tố là khái niệm gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Thời kỳ đầu khi nhà nước mới ra đời, trong điều kiện bộ máy nhà nước còn đơn giản và hệ thống pháp luật mới được hình thành, quyền công tố chỉ được sử dụng trọng phạm vi hẹp để bảo vệ các lợi ích công, như lợi ích của Nhà nước (của giai cấp thống trị) và lợi ích của cả cộng đồng. Càng về sau, cùng với sự phát triển và hoàn thiện của bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật. Mặt khác, nhận thức về lợi ích công và lợi ích tư, về trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân đã có sự thay đổi đáng kể. Dần dần, nhà nước nhận thức đầy đủ một cách đầy đủ và rõ ràng rằng, trong nhiều trường hợp, khi có lợi ích cá nhân bị xâm hại thì lợi ích công cũng bị xâm hại hoặc bị đe dọa. Bởi vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ lợi ích các nhân khi chúng bị vi phạm. Chính vì lẽ đó, vai trò của công tố ngày càng được đề cao. Ở Việt Nam, Hiến pháp 1980 là bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta đưa ra thuật ngữ "thực hành quyền công tố" khi đề cập đến chức năng của VKSND. Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật tổ chức năm 1981. Song cho đến nay có nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về vấn đề này, nhưng khái quát lại thì có một số quan điểm sau: Quan điểm thứ nhất, đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Theo quan điểm này, “công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật” [26]. 12
  19. Điều đó có nghĩa là, ngay cả khi VKS kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước tự sửa chữa những vi phạm pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội cũng là THQCT [41, tr.22]. Nếu hiểu quyền công tố như vậy là chưa chính xác và không phù hợp với qui định của Hiến pháp và các luật. Bởi vì chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và chức năng công tố hoàn toàn độc lập và song song tồn tại. Quan điểm thứ hai cho rằng, “quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa (THQCT)” [42]. Quan điểm này đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi quyền công tố và không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này. Vì đó chỉ là một trong các quyền hạn của VKS khi THQCT. Quan điểm thứ ba cho rằng, “quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích cho nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật” [46, tr.69-72]. Những người theo quan điểm này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố tụng dân sự và ngày nay tiếp tục mở rộng sang lĩnh vực khác. Chẳng hạn tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 qui định: "VKS có quyền khởi tố vụ án dân sự vì lợi ích chung" [48, Điều 34 khoản 4] hoặc Pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 quy định: "VKS có quyền khởi tố vụ án hành chính nếu không ai khởi kiện đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần" [49, Điều 18]. Quan điểm này đã quá mở rộng khái niệm, nội dung và phạm vi của quyền công tố, dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng 13
  20. khác. Quan điểm nêu trên đã đồng nhất quyền công tố với các quyền khác của VKS trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, kinh tế, lao động [41, tr.26]. Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Nói cách khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là hoạt động tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác được pháp luật qui định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội và áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội [7, tr.94]. Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên đã dẫn đến sự nhầm lẫn giữa các hoạt động buộc tội, xét xử và bào chữa trong tố tụng hình sự. Theo quan điểm nêu trên thì không chỉ CQĐT và Cơ quan công tố mà cả Cơ quan xét xử và Cơ quan thi hành án đều là chủ thể THQCT. Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố bao gồm quyền khởi tố, điều tra vụ án, quyền truy tố và quyền buộc tội bị cáo trước tòa án [41, tr.27]. Quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh nhà nước. Do vậy, quyền công tố chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động THQCT chỉ bao gồm CQĐT và Viện công tố. Riêng quyền truy tố kẻ phạm tội ra tòa và thực hành quyền buộc tội nhân danh nhà nước tại phiên tòa chỉ thuộc về Viện công tố. Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các lợi ích công mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại. Quan điểm thứ sáu cho rằng, quyền công tố là sự cáo buộc của nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự. Và, quyền công 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0