Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp - Nguyễn Thị Phương Thảo
lượt xem 5
download
Mục đích nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lâp doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước nhằm làm rõ sự tương đồng, khác biệt và rút ra những giá trị có thể tham khảo, học hỏi góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp - Nguyễn Thị Phương Thảo
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THẢO NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NHƢ PHÁT Hà Nội – 2010 1
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết qủa nghiên cứu của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Luận văn Nguyễn Thị Phƣơng Thảo 2
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 2 Mục lục 3 Danh mục chữ viết tắt 5 MỞ ĐẦU 6 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU 9 SO SÁNH PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 1.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp 9 1.1.1. Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập 9 doanh nghiệp 1.1.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh 15 1.2. Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành 18 lập doanh nghiệp ở nước ta hiện nay 1.2.1. Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh 18 nghiệp ở nước ta hiện nay 1.2.2. Thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh 22 nghiệp của nước ta hiện nay Chƣơng 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH LẬP 28 DOANH NGHIỆP 2.1. So sánh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập 30 2.1.1. So sánh về loại hình doanh nghiệp tư nhân 30 2.1.2. So sánh về loại hình công ty hợp danh 32 2.1.3. So sánh về loại hình công ty cổ phần 38 2.1.4. So sánh về loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn 42 2.2. So sánh về một số điều kiện thành lập doanh nghiệp 49 3
- 2.2.1. So sánh điều kiện về chủ thể 49 2.2.2. So sánh điều kiện về vốn góp 54 2.2.3. So sánh điều kiện về ngành nghề đăng ký kinh doanh 60 2.2.4. So sánh điều kiện về tên của doanh nghiệp 66 2.3. So sánh về thủ tục thành lập doanh nghiệp 70 2.3.1. Các thủ tục chuẩn bị thành lập doanh nghiệp 72 2.3.2. Các thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp 79 2.3.3. Các thủ tục sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp 85 2.4. So sánh về xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp 86 Chƣơng 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ BAN ĐẦU TỪ NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ THÀNH 94 LẬP DOANH NGHIỆP 3.1. Phân loại đa dạng doanh nghiệp và quy định cụ thể về thành 95 lập cho từng loại hình 3.2. Xác định địa vị pháp lý phù hợp để thúc dẩy việc thành lập 99 loại hình hợp danh 3.3. Quy định về đăng ký và bảo lưu tên gọi trong thủ tục thành 101 lập doanh nghiệp 3.4. Quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập doanh nghiệp và có 104 cơ chế thẩm định, giám sát phù hợp KẾT LUẬN 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114 4
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ĐKKD : Đăng ký kinh doanh DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước DNTN : Doanh nghiệp tư nhân EURL : Entreprise unipersonelle à responsabilité limitée (Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên của Pháp) KK : Kabushiky-Kaisha (Công ty cổ phần của Nhật Bản) LLC : Limited Liability Company (Công ty trách nhiệm hữu hạn) SA : Soicété Anonyme (Công ty cổ phần của Pháp) SARL Société à responsabilité limitée (Công ty trách nhiệm hữu hạn của Pháp) TNHH : Trách nhiệm hữu hạn UBND : Uỷ ban nhân dân WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp 2005 và tiếp theo đó là các Nghị định, Thông tư hướng dẫn được ban hành đã đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật thành lập doanh nghiệp. Những quy định cụ thể và tương đối phù hợp đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước thành lập, phát huy nội lực, khai thác tiềm năng sẵn có và bước đầu tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như những văn bản hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước sự phát triển mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11 tháng 01 năm 2007. Pháp luật Việt Nam về kinh doanh nói chung và về thành lập doanh nghiệp nói riêng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, không những phải đáp ứng yêu cầu cụ thể hóa đường lối, chủ chương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh của quốc gia, mà còn phải phù hợp với pháp luật kinh doanh của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam cần được so sánh, đối chiếu với pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước để nhìn nhận khách quan và toàn diện hơn những thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế và tham khảo, học hỏi kinh nghiệm nước ngoài để từng bước hoàn thiện pháp luật kinh doanh của Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là rất cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học, bài viết hoặc tham luận khoa học được công bố trên các sách chuyên khảo, tạp chí khoa học 6
- chuyên ngành hoặc các diễn đàn khoa học đề cập đến so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp ở những cấp độ và phạm vi khác nhau, như: Dự án VIE/97/016 so sánh về luật doanh nghiệp của 4 nước: Singapore, Malaysia, Philipine và Thái Lan của Nguyễn Toàn Phan và John Bentley; "Hình thức pháp lý doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ luật so sánh" của TS Nguyễn Am Hiểu; “Sự thay đổi trong luật công ty Đức và so sánh với pháp luật công ty Việt Nam” và "Uớc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh" của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa; “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: nhìn từ ví dụ luật công ty của Nhật và Luật doanh nghiệp của Việt Nam” của Th.s Nguyễn Đức Lam… Nhưng hầu hết những công trình khoa học hoặc bài viết đó hoặc là nghiên cứu so sánh chung về luật doanh nghiệp, hoặc là nghiên cứu so sánh một lĩnh vực cụ thể nào đó của luật doanh nghiệp chứ chưa có công trình nào nghiên cứu so sánh riêng về pháp luật thành lập doanh nghiệp giữa Việt Nam và các nước khác. Đề tài "Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp" là một đề tài hoàn toàn mới và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn trong khoa học pháp lý của Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: so sánh pháp luật về thành lâp doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước nhằm làm rõ sự tương đồng, khác biệt và rút ra những giá trị có thể tham khảo, học hỏi góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam. Nhiệm vụ nghiên cứu: làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp; so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam với một số nước; đề xuất những khuyến nghị ban đầu qua việc nghiên cứu so sánh nhằm hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam. 7
- 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và của một số nước được chọn lựa so sánh. Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật về việc thành lập mới một số loại hình doanh nghiệp là: doanh nghiệp tư nhân, hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần (tương ứng với các loại hình doanh nghiệp được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam); không nghiên cứu việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác (như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài...) cũng như việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu là phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử - lôgic, đối chiếu so sánh. 6. Đóng góp khoa học của đề tài Góp phần làm rõ những điểm tương đồng và khác biệt, làm cơ sở cho việc nghiên cứu, học tập về pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam và một số nước trên thế giới, góp phần làm cơ sở để xây dựng và hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp Chương 2: So sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp Chương 3: Một số khuyến nghị ban đầu từ nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp 8
- Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU SO SÁNH PHÁP LUẬT THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP 1.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp 1.1.1. Nhận dạng đối tượng nghiên cứu - pháp luật về thành lập doanh nghiệp Pháp luật về thành lập doanh nghiệp Nếu ví doanh nghiệp như một thực thể sống bình thường (thuật ngữ "pháp nhân" cũng chính là sự ví von ấy: người do pháp luật sáng tạo ra, có những quyền như một con người thực sự) thì có thể thấy, một doanh nghiệp cũng phải được "sinh ra" trên cơ sở “thai nghén” từ những ý tưởng kinh doanh của một chủ thể nhất định. "Vạn sự khởi đầu nan", bước thành lập doanh nghiệp là bước đầu tiên, khó khăn nhất để biến những dự định của người kinh doanh thành hiện thực. Thành lập doanh nghiệp thực chất là quá trình khai sinh và công khai hóa sự tồn tại và xác nhận doanh nghiệp đủ điều kiện hoạt động trước xã hội trên cơ sở những quy định của pháp luật. Thành lập doanh nghiệp là hành vi hợp pháp hóa sự tồn tại và hoạt động của chủ thể kinh doanh. Việc thành lập doanh nghiệp là một biện pháp bảo vệ lợi ích cho các tổ chức và cá nhân trên thương trường. Khi có một địa vị pháp lý hợp pháp họ có thể chính thức tìm kiếm thị trường, thuê lao động, ký kết hợp đồng, xuất nhập khẩu, vay vốn của các tổ chức tín dụng, phát hành cổ phiếu để huy động vốn đầu tư, tiến hành các họat động sản xuất kinh doanh cụ thể. Mặt khác, doanh nghiệp sau khi thành lập có cơ hội tiếp cận với thị trường nước ngoài, liên doanh, hợp tác, mở chi nhánh, văn phòng đại diện. Khi tiến hành thủ tục thành lập, các thông tin cơ bản về doanh nghiệp sẽ được lưu trữ tại cơ quan đăng ký kinh doanh và tất cả mọi cá nhân, tổ chức đều có thể tiếp xúc với thông tin đó, nhờ vậy, các doanh nghiệp trên thị trường biết 9
- được đối tác mới và có những cơ hội kinh doanh mới. Hành vi thành lập doanh nghiệp, cũng như nhiều hành vi khác của con người trong xã hội, được điều chỉnh bằng pháp luật. Pháp luật về thành lập doanh nghiệp quy định cụ thể về địa vị pháp lý, về đặc tính pháp lý, về cách thức hoạt động, quản lý, điều hành với cả những ưu điểm và hạn chế của từng loại hình doanh nghiệp được phép thành lập để chủ thể kinh doanh căn cứ vào khả năng, điều kiện cụ thể của mình đưa ra lựa chọn đúng đắn. Điều kiện thành lập doanh nghiệp cũng được cụ thể hóa trong pháp luật về thành lập doanh nghiệp, bao gồm điều kiện về chủ thể (người như thế nào thì được phép thành lập?); điều kiện về vốn (cần có số tiền tối thiểu là bao nhiêu để thành lập?); điều kiện về ngành nghề (được kinh doanh trong những lĩnh vực gì, nếu là những ngành nghề có điều kiện thì phải đáp ứng thêm những tiêu chuẩn gì?); điều kiện về tên gọi của doanh nghiệp, về trụ sở... Pháp luật về thành lập doanh nghiệp còn quy định hồ sơ cần phải chuẩn bị, quy định trình tự, thủ tục thành lập như nộp hồ sơ, lệ phí tại cơ quan có thẩm quyền, thời hạn, nội dung xét duyệt, cấp phép, công bố việc thành lập, xử lý các vi phạm trong thành lập doanh nghiệp... Tuy nhiên, những quy định cụ thể và chi tiết của pháp luật về thành lập doanh nghiệp không phải để hạn chế quyền tự do kinh doanh mà chỉ nhằm thiết lập một khung pháp lý để quyền tự do kinh doanh ấy được thực hiện một cách thuận lợi trong mối tương quan với lợi ích của cộng đồng và xã hội. Như vậy, pháp luật về thành lập doanh nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực hiện, điều chỉnh về các loại hình doanh nghiệp được phép thành lập, điều kiện, hồ sơ, trình tự thủ tục thành lập doanh nghiệp. Hai khái niệm: pháp luật về thành lập doanh nghiệp và pháp luật về đăng ký kinh doanh có một số khác biệt. Khái niệm "pháp luật về thành lập doanh nghiệp" rộng hơn khái niệm "pháp luật về đăng ký kinh doanh". Nếu 10
- pháp luật về đăng ký kinh doanh chủ yếu điều chỉnh hành vi "đăng ký" của người kinh doanh trước một cơ quan nhà nước nhất định để hoàn tất những thủ tục pháp lý cho sự ra đời một doanh nghiệp, thì pháp luật về thành lập doanh nghiệp còn điều chỉnh những hành vi trước đó (như: lựa chọn loại hình doanh nghiệp nào để thành lập, những điều kiện cụ thể để thành lập) và sau đó (như công bố việc thành lập, xử lý vi phạm pháp luật thành lập doanh nghiệp). Nếu "pháp luật về đăng ký kinh doanh" chủ yếu điều chỉnh mối quan hệ giữa hai nhóm đối tượng: người đi đăng ký và cơ quan tiến hành những thủ tục đăng ký thì "pháp luật về thành lập doanh nghiệp" có khi chỉ điều chỉnh hành vi của chủ thể kinh doanh (lựa chọn loại hình thành lập, chuẩn bị hồ sơ...) hoặc điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể kinh doanh với các chủ thể khác ngoài cơ quan đăng ký kinh doanh (như các phương tiện thông tin đại chúng khi công bố việc thành lập hoặc tòa án trong trường hợp vi phạm pháp luật về thành lập doanh nghiệp...). Hơn nữa, không thể có việc đi "đăng ký" nếu chủ thể kinh doanh chưa lựa chọn được cho mình một loại hình doanh nghiệp để thành lập, hoặc khi lựa chọn được rồi lại không đủ điều kiện để thành lập. Việc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng sau khi đã hoàn tất những thủ tục tại cơ quan nhà nước và đã nộp đủ lệ phí, được cấp giấy chứng nhận kinh doanh không thể vẫn gọi là "đăng ký kinh doanh". Pháp luật về thành lập doanh nghiệp là một chế định có vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh doanh, là cơ sở để xây dựng các chế định khác như đầu tư, cạnh tranh, hợp đồng; tranh chấp thương mại... Có người ví rằng: doanh nghiệp là cái "áo khoác" của ý tưởng kinh doanh [24]. Qua việc thành lập doanh nghiệp, những dự định, kế hoạch kinh doanh của nhà đầu tư sẽ trở thành hiện thực, kéo theo nó là hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành với hàng loạt các hoạt động bổ trợ như huy động vốn, thuê nhân công, ký kết hợp đồng... Pháp luật điều chỉnh về quản lý doanh nghiệp và những 11
- hoạt động cụ thể của doanh nghiệp chỉ có thể hình thành sau khi đã có pháp luật về thành lập doanh nghiệp và nó phải phù hợp với pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Pháp luật về thành lập doanh nghiệp của các nước có sự tương đồng và khác biệt Pháp luật về thành lập doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng sâu sắc từ văn hóa kinh doanh của mỗi một quốc gia. Sự đa dạng của pháp luật cũng giống như sự đa dạng của ngôn ngữ và văn hóa. Hầu như các nước đều có pháp luật về thành lập doanh nghiệp, trong đó quy định về các loại hình doanh nghiệp đuợc thành lập, điều kiện thành lập, hồ sơ, trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, về văn hóa pháp lý, về ngôn ngữ... pháp luật về thành lập doanh nghiệp của mỗi nước lại có những điểm khác biệt nhất định, như: - Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước xuất hiện rất sớm có nước xuất hiện muộn. Ở một số nước châu Âu có điều kiện địa lý thuận lợi cho viêc giao lưu, buôn bán, từ Thế kỷ XIII đã xuất hiện các công ty thương mại, pháp luật về thành lập doanh nghiệp cũng ra đời rất sớm tại đây. Năm 1807, Pháp đã ban hành Bộ luật thương mại, năm 1896, Bộ luật dân sự của Đức ra đời và nhiều nước châu Âu tiếp theo đó cũng ban hành luật thương mại của nước mình, trong đó có các quy định về thành lập doanh nghiệp. Trong khi đó, pháp luật về thành lập doanh nghiệp của Việt Nam ra đời muộn hơn tới hàng trăm năm. Do Việt Nam là thuộc địa của Pháp nên có thời kỳ luật thương mại của Pháp được áp dụng vào Việt Nam trong đó có quy định về việc thành lập các “hội buôn” (trong Dân luật thi hành tại các toà Nam án Bắc kì năm 1931). Năm 1944, chính quyền Bảo Đại xây dựng Bộ luật Thương mại trung phần. Năm 1972, chính quyền Sài Gòn ban hành Bộ luật Thương mại Việt Nam cộng hoà. Từ năm 1986, khi Đảng ta đề ra đường lối xây dựng nền 12
- kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì các loại hình doanh nghiệp mới chính thức có cơ sở pháp lý để phát triển. Luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty mới lần lượt ra đời. - Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước khá ổn định - có nước thường xuyên thay đổi. Anh là nước có quy định về thành lập hợp danh từ rất sớm và rất ổn định. Hai luật về hợp danh của Anh là Luật Hợp danh trách nhiệm hữu hạn năm 1907 và Luật Hợp danh thông thường năm 1890 ra đời cách đây hơn 100 năm nhưng vẫn được áp dụng. Trong khi đó, pháp luật của những nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc lại thường xuyên thay đổi. Trong vòng 15 năm, luật về doanh nghiệp của Việt Nam trong đó có những quy định về thành lập doanh nghiệp đã 3 lần thay thế. Ngày 21 tháng 12 năm 1990, Luật Công ty ra đời. Chỉ sau 8 năm, Luật Công ty đã bộc lộ nhiều điểm thiếu sót, chưa theo kịp sự phát triển của nền kinh tế và bị thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 1999. Và cũng chỉ 6 năm sau, Luật Doanh nghiệp 1999 cũng bị thay thế bởi Luật Doanh nghiệp 2005. Luật Công ty Trung Quốc ban hành năm 1993 cũng được thay thế bởi đạo luật sửa đổi ngày 27 tháng 10 năm 2005 (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006). - Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước quy định chung ở một luật - có nước lại quy định riêng ở nhiều luật tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp. Tiêu biểu cho những nước quy định riêng về thành lập doanh nghiệp ở nhiều luật phải kể đến Anh, Mỹ với những đạo luật riêng cho công ty cổ phần, công ty TNHH (trách nhiệm hữu hạn) và hợp danh. Hàn Quốc không có đạo luật riêng áp dụng cho các loại hình doanh nghiệp mà chỉ có Bộ luật Thương mại (năm 1962) quy định chung về công ty, giao dịch thương mại, bảo hiểm và hàng hải. Ở Thái Lan, Bộ luật Dân sự và Thương mại (ban hành năm 1925 sau đó đã sửa đổi, bổ sung nhiều lần) cũng quy định về một số loại hình doanh nghiệp. Trung Quốc quy định gộp hai loại hình là công ty cổ phần và 13
- công ty TNHH vào Luật Doanh nghiệp 2005. Việt Nam quy định việc thành lập của cả 4 loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty cổ phần và công ty TNHH vào chung trong Luật Doanh nghiệp 2005. - Pháp luật về thành lập doanh nghiệp, có nước quy định về thành lập doanh nghiệp ở luật, có nước lại quy định cả ở những văn bản dưới luật. Ở hầu hết các nước, việc thành lập doanh nghiệp được quy định cụ thể và chi tiết trong các văn bản luật. Chỉ cần dựa trên những quy định đó, cơ quan nhà nước cũng như người dân đều có thể tiến hành việc thành lập doanh nghiệp mà không phải tìm hiểu, đối chiếu ở các văn bản khác. Tuy nhiên, ở những nước mà các quy định mang tính chất luật khung như Việt Nam dưới Luật còn có các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, nên khi xem xét, nghiên cứu và áp dụng pháp luật thành lập doanh nghiệp cũng phải tính đến các văn bản dưới luật này. - Đặc biệt ở một số nước liên bang, pháp luật về thành lập doanh nghiệp được quy định tại Luật liên bang, sau đó tại các tiểu bang lại có những quy định riêng. Mỹ là một nước điển hình cho sự phức tạp giữa hai hệ thống luật liên bang và tiểu bang. Ở cấp liên bang, Mỹ ban hành những bộ luật mẫu (luật mẫu này có thể lấy từ luật của một bang nào đó có giá trị, được nhiều bang thừa nhận cùng áp dụng sau đó nâng lên thành luật mẫu). Ở mỗi tiểu bang lại có quyền ban hành những quy định của riêng mình. Vì vậy, trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp ở Mỹ còn tuỳ thuộc vào việc lựa chọn thành lập ở địa phận bang nào và pháp luật của bang đó quy định như thế nào. Mỗi một quốc gia có quá trình hình thành, phát triển không giống nhau do chịu sự tác động khác nhau của môi trường địa lý, các giá trị tư tưởng, văn hóa, lịch sử, tôn giáo của các dân tộc sinh sống trong quốc gia đó. Những điều này đã để lại dấu ấn đặc thù lên từng hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia. Nói cách khác, chúng tạo nên sự khác biệt về pháp luật giữa các quốc gia. 14
- Dựa trên những quan điểm, đường lối, chủ trương và phương thức tác động khác nhau, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia thường hướng tới giải quyết những vấn đề phát sinh trong sự tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Tuy nhiên, ở một phương diện nhất định, điều đó có thể sẽ là một thách thức và nguy cơ sẽ phải đối mặt với những khó khăn khi quốc gia đó giao lưu, hợp tác với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, trên thực tế có thể có những vấn đề nảy sinh trong các xã hội là tương tự nhau nhưng thông thường mỗi quốc gia lại xử lý những vấn đề đó một cách hoàn toàn độc lập và thường không quan tâm xem xét các nước khác điều chỉnh vấn đề đó như thế nào. Điều này đã làm nảy sinh hiện tượng xung đột pháp luật trong quá trình giao lưu quốc tế, tạo ra sự ngăn cản đối với các nỗ lực của các chủ thể trong hoạt động hợp tác, trao đổi đặc biệt trong bối cảnh mà sự trao đổi quốc tế không còn chỉ là sự giới hạn trong những quan hệ thương mại thông thường hay giữa những thương gia riêng lẻ mà ngày càng mở rộng về tính chất cũng như số lượng và phạm vi chủ thể trên hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế. Pháp luật về thành lập doanh nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật ấy. 1.1.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu so sánh Những điểm tương đồng và khác biệt trên đây cho thấy sự đa dạng, phong phú về pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước và cũng cho thấy sự khó khăn trong việc lựa chọn pháp luật của một nước nào đó để so sánh với Việt Nam. Thông thường, người ta hay phân chia luật của các nước theo họ pháp luật: common law hay civil law, theo khu vực địa lý: châu Âu, châu Mỹ, châu Á, châu Phi hoặc theo trình độ phát triển kinh tế: nước phát triển, đang phát triển hay chậm phát triển... [23]. Tuy nhiên, ở mỗi một tiêu chí đều có những ưu thế và hạn chế khi lựa chọn để so sánh, nhất là chỉ so sánh một chế định nhỏ là pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Vì vậy, trong 15
- phạm vi luận văn này, tác giả chỉ lựa chọn so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của một số nước dựa trên một số tiêu chí nhất định. Thành lập doanh nghiệp là lĩnh vực thuộc về kinh tế, thương mại, vì vậy, lựa chọn pháp luật về thành lập doanh nghiệp của những nước để so sánh với pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam trước hết phải dựa trên cơ sở quan hệ hợp tác kinh tế. Với chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm 1986, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước, thì các hoạt động giao lưu, hợp tác được đẩy mạnh. Đặc biệt là từ khi gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức tham gia vào sân chơi chung của kinh tế thế giới, các quan hệ hợp tác, giao lưu với các nước, các nhóm nước trên cơ sở tự nguyện, tôn trọng, bình đẳng và hai bên cùng có lợi đã được thiết lập và ngày càng được tăng cường. Nhiều nước không kể khoảng cách về địa lý, không kể sự khác biệt về chế độ chính trị hay trình độ phát triển đã đặt quan hệ làm ăn, hợp tác với Việt Nam, đó là những đối tác truyền thống, lâu dài như: Mỹ, Anh, Nhật Bản, Pháp, Đức… Nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp với những nước này là cơ hội để tìm hiểu, học hỏi và giúp Việt Nam có những đối sách phù hợp trong hợp tác kinh tế. Bên cạnh đó, những nước có điểm tương đồng về đường lối chính sách kinh tế với Việt Nam cũng được đặc biệt coi trọng khi nghiên cứu so sánh, trong đó có Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có những điểm tương đồng về thể chế chính trị, văn hóa xã hội, phong tục tập quán, đồng thời đều là thành viên mới của WTO với những đặc điểm và những khó khăn chung của một nền kinh tế đang chuyển đổi. Sự khác biệt nổi bật giữa hai quốc gia là vị thế trên trường quốc tế, xuất phát điểm của Trung Quốc 16
- trong quá trình cải cách mở cửa, xây dựng phát triển đất nước cao hơn Việt Nam, tiềm lực thực tế mạnh hơn, kinh tế vĩ mô ổn định hơn. Cùng ra đời năm 2005, Luật Doanh nghiệp của Việt Nam và Luật Doanh nghiệp của Trung Quốc là một cơ sở quan trọng để nghiên cứu so sánh về pháp luật thành lập doanh nghiệp. Việt Nam là một thành viên trong khối ASEAN, nghiên cứu so sánh pháp luật giữa Việt Nam với các nước trong khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines… có ý nghĩa rất lớn. Đây không chỉ là những đối tác chiến lược có quan hệ hợp tác toàn diện về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá với Việt Nam mà còn là những nước trong cùng khu vực có những điều kiện phát triển kinh tế tương đối đồng đều. So sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp là cơ sở để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với các nước trong khối ASEAN, là cơ hội để Việt Nam tham khảo, học hỏi và rút ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp. Pháp luật về thành lập doanh nghiệp có nội dung rất đa dạng, xuất phát từ sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp. Tuy vậy, dưới góc độ khoa học pháp lý, dựa trên những tiêu chí nhất định có thể quy về một số loại hình doanh nghiệp cơ bản và ở mỗi một loại hình đều có những quy định pháp luật về thành lập doanh nghiệp tương ứng và phù hợp. Trong phạm vi luận văn này chỉ nghiên cứu so sánh pháp luật thành lập doanh nghiệp của 4 loại hình cơ bản là: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty TNHH và công ty cổ phần (là các loại hình doanh nghiệp quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam) không nghiên cứu việc thành lập các loại hình doanh nghiệp khác như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Pháp luật về thành lập doanh nghiệp không chỉ quy định về việc thành lập mới mà còn bao hàm cả những quy định về thay đổi nội dung đăng ký 17
- kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp. Để thống nhất và tránh sự chồng chéo, trùng lặp khi nghiên cứu so sánh, phạm vi luận văn chỉ giới hạn ở việc so sánh thành lập mới doanh nghiệp (không so sánh về thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh hoặc việc thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện). Ngoài ra, cũng là việc thành lập mới một doanh nghiệp nhưng pháp luật của một số nước còn phân chia rất cụ thể và rõ ràng về việc người trong nước hay người nước ngoài đến nước đó thành lập hoặc việc thành lập doanh nghiệp đó ở trong nước hay ở nước ngoài. Trong phạm vi luận văn cũng chỉ nghiên cứu so sánh những quy định về thành lập doanh nghiệp của người dân sở tại theo những thủ tục thông thường (không so sánh trường hợp người nước ngoài thành lập doanh nghiệp hay thành lập doanh nghiệp ở nước ngoài). 1.2. Nhu cầu và thực trạng nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nƣớc ta hiện nay 1.2.1. Nhu cầu nghiên cứu so sánh pháp luật về thành lập doanh nghiệp của nước ta hiện nay Mỗi một hiện tượng xã hội được cấu thành từ những yếu tố, điều kiện khác nhau, thông qua hoạt động so sánh có thể nhận biết được bản thân những hiện tượng nhất định trong mối quan hệ với những hiện tượng khác. Hoạt động so sánh có thể được tiến hành một cách cá biệt từng chủ thể, hiện tượng, yếu tố riêng lẻ hoặc có thể mang tính hệ thống, song nói chung đều nhằm hướng tới việc xem xét sự đồng nhất, những quy luật chi phối chung cũng như những yếu tố khác biệt của quá trình tiếp nhận và phát triển của từng cá nhân cũng như cộng đồng. Với ý nghĩa như vậy, “Hoạt động so sánh luôn gắn liền với hoạt động nhận thức của con người và hầu như có mặt trong bất kỳ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội”[37]. 18
- Trong xu thế toàn cầu hoá, khi mối quan hệ hợp tác giữa các quốc gia đã và đang được mở rộng phát triển toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội thì các hệ thống pháp luật không thể đứng ngoài quá trình đó. C¸c khái niệm pháp luật của Liên minh Châu Âu (EU), pháp luật của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), pháp luật của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… đã và ngày càng được sử dụng rộng rãi. Pháp luật của các quốc gia vốn rất khác biệt nhau về chế độ chính trị, trình độ phát triển vẫn có xu hướng xích lại gần nhau thì nhu cầu so sánh pháp luật, trong đó có pháp luật về thành lập doanh nghiệp ngày càng đóng vai trò quan trọng, trước hết là để nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về pháp luật thành lập doanh nghiệp của các nước khác, sau đó là để nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện pháp luật nước mình trên cơ sở đó học hỏi để từng bước hoàn thiện pháp luật thành lập doanh nghiệp của Việt Nam ngày càng phù hợp hơn trong tình hình mới . Giao lưu, hợp tác kinh tế là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập. Hoạt động kinh doanh đã không còn biên giới giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Khoảng cách về địa lý hay sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập quán... đã không phải là rào cản quá lớn cho sự giao lưu thương mại. Trong sân chơi chung ấy, việc "biết người, biết ta" là vô cùng quan trọng. Ngày càng có nhiều người Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và cũng ngày càng có nhiều cá nhân, tổ chức nước ngoài đầu tư vào nước ta. Và một trong những hình thức lựa chọn để hợp tác, đầu tư là thành lập doanh nghiệp. Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, việc thành lập doanh nghiệp đều phải tuân theo những yêu cầu, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ của pháp luật. Những nhà đầu tư, kinh doanh cần phải hiểu biết về pháp luật của nước sở tại thì mới có thể thành lập được doanh nghiệp ở đó và khi hợp tác với nước ngoài cũng cần phải hiểu về pháp luật thành lập doanh nghiệp của nước đối tác để xem xét tư cách pháp lý của doanh nghiệp đó, xác định những thông tin, kiểm tra độ tin 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn