intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

33
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về người đại diện hợp pháp của đương sự, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật TTDS về ngƣời đại diện hợp pháp của đương sự.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ BÍCH NGỌC NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT CAO THỊ BÍCH NGỌC NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ THU HÀ Hà Nội – 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN CAO THỊ BÍCH NGỌC
  4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .............................7 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ....................7 1.1.1. Khái niệm người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ....................................................................................................................7 1.1.2. Đặc điểm của người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ...........................................................................................................15 1.1.3. Vai trò của người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự ..................................................................................................................18 1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. .................20 1.2.1. Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong tố tụng dân sự ...............20 1.2.2. Đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự: ......................................21 1.2.3. Đảm bảo quyền con người, quyền lợi của những người không có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. ..................................22 1.2.4. Đảm bảo sự tham gia tố tụng của đương sự một cách thuận lợi, nhanh chóng. ................................................................................................23 1.2.5. Đảm bảo mối liên hệ giữa các quy định về người đại diện trong quan hệ pháp luật nội dung và người đại diện trong tố tụng dân sự....................24 1.3. SƠ LƢỢC VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. ......25 1.3.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1989 .........25 1.3.2. Giai đoạn từ 1989 đến năm 2004 .......................................................26 1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay .........................................................28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................31 CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...........................................................................................32 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..32 2.1.1. Người được đại diện và người đại diện theo pháp luật .....................32 2.1.2. Căn cứ phát sinh và chấm dứt người đại diện theo pháp luật ...........39 2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật ......................42 2.1.4. Phạm vi tham gia tố tụng dân sự........................................................48
  5. 2.1.5. Những người không được tham gia tố tụng dân sự với tư cách người đại diện theo pháp luật .................................................................................51 2.2. NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ......................................................................................................................52 2.2.1. Người ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự ......................................................................................................................52 2.2.2. Phạm vi ủy quyền và hình thức ủy quyền ...........................................60 2.2.3. Căn cứ phát sinh và chấm dứt người đại diện theo ủy quyền ............63 2.2.4. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy quyền .......................66 2.2.5. Những ngƣời không đƣợc tham gia tố tụng dân sự với tƣ cách ngƣời đại diện theo ủy quyền..................................................................................67 2.3. NGƢỜI ĐẠI DIỆN DO TÒA ÁN CHỈ ĐỊNH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................................................................................................68 2.3.1. Người được đại diện và người đại diện do Tòa án chỉ định ..............68 2.3.2. Căn cứ phát sinh và chấm dứt người đại diện do Tòa án chỉ định ....69 2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện do Tòa án chỉ định ...............71 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................73 CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........................................74 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ......................................................74 3.1.1. Những kết quả đạt được .....................................................................74 3.1.2. Những hạn chế, tồn tại .......................................................................75 3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc ...................................85 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự ..................................................................................................................87 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................91 KẾT LUẬN ..................................................................................................92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................94
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự TTDS : Tố tụng dân sự HCTP : Hành chính tƣ pháp HN & ND : Hôn nhân và gia đình NLHVDS : Năng lực hành vi dân sự NLHVTTDS : Năng lực hành vi tố tụng dân sự TTDS : Tố tụng dân sự TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao SL : Sắc lệnh VVDS : Vụ việc dân sự
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mà mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội phải có nghĩa vụ tuân thủ và do Nhà nƣớc ban hành và bảo đảm thực hiện. Tiếp theo, pháp luật là một hiện tƣợng xã hội vừa mang tính giai cấp vừa mang tính xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Vì pháp luật do nhà nƣớc ban hành, đại diện chính thức của toàn xã hội, mang tính chất xã hội, ở mức độ nhiều hay ít (tùy vào hoàn cảnh cụ thể) pháp luật còn thể hiện ý chí, lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Vì vậy, việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề pháp luật để đƣa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm định hƣớng luật hóa đúng đắn các quan hệ xã hội luôn là yêu cầu cần thiết. Cùng với Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; giáo dục mọi ngƣời nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Chế định “đại diện” đƣợc quy định tại nhiều điều luật, tƣơng đối đầy đủ và chi tiết trong BLDS và BLTTDS. Theo những quy định này, ngƣời đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự (TTDS) là ngƣời do pháp luật quy định hay đƣợc đƣơng sự ủy quyền mà tham gia TTDS, thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự mà mình đại diện trƣớc Tòa án. Vì nhiều lý do khác nhau nhƣ năng lực hành vi, thời gian, vị trí địa lý, trình độ chuyên môn, ngôn ngữ,... đƣơng sự phải thông qua cá nhân, tổ chức khác để thực hiện các quyền tố tụng. Sự tham gia TTDS của ngƣời đại diện của đƣơng sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự cũng nhƣ việc làm rõ sự thật của vụ việc dân sự. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, chuyên sâu là rất cần thiết đối với vấn đề này. 1
  8. Bên cạnh đó, thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự nhƣ: hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, yêu cầu dân sự và lao động thời gian qua cho thấy ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự còn gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Việc nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS trong bối cảnh BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 mới có hiệu lực đƣợc ba năm với những quy định hoàn thiện hơn có ý nghĩa rất lớn cả phƣơng diện lý luận lẫn phƣơng diện thực tiễn. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS” làm luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu Ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS là một trong những vấn đề mà đã có nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu ở những phƣơng diện khác nhau. Các bài viết, luận văn, luận án, sách tham khảo có thể kể đến nhƣ: Luận văn tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học “Người đại diện của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Hà năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học “Ủy quyền trong TTDS” của tác giả Tô Ngọc Lâm năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Người đại diện của đương sự trong TTDS” của tác giả Ngô Thị Lộc năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự trong TTDS Việt Nam” của tác giả Phạm Thị Thu Hoài năm 2016; Luận văn thạc sĩ luật học “Ngƣời đại diện theo ủy quyền trong BLTTDS năm 2015” của tác giả Vƣơng Quốc Hải năm 2017. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các báo và tạp chí nhƣ: bài viết “Quyền người đại diện của đương sự được quy định tại Điều 243 BLTTDS” của tác giả Nguyễn Văn Dũng đăng trên tạp chí Nghề luật số 04/2006; bài viết “Người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong TTDS” của tác giả Hoàng Thu Yến, đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và 2
  9. pháp luật số 05/2006; “Một vài suy nghĩ về đại diện trong TTDS” của tác giả Tƣởng Duy Lƣợng trên tạp chí khoa học pháp lý (số 1/2007); bài viết “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam - nhìn từ góc độ Luật so sánh” của tác giả Ngô Huy Cƣơng, đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật số 04/2009; bài viết “Một số vấn đề về người đại diện theo pháp luật của đương sự trong TTDS” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 03/2010; bài viết “Một vài ý kiến về người đại diện của đương sự trong BLTTDS năm 2015” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà, đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 09/2016. Mặc dù những công trình nghiên cứu và các bài viết trên ở mức độ, phạm vi khác nhau đã góp phần phát triển các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự trở nên hoàn thiện hơn qua các lần sửa đổi BLTTDS. Tuy nhiên, với mong muốn nghiên cứu về đề tài ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS tác giả vẫn muốn tiếp tục khai thác vấn đề này để tìm hiểu sâu hơn nữa những vấn đề lý luận, đánh giá, bình luận các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó thấy đƣợc những hạn chế, bất cập và đƣa ra đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Mục đích nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng quy định về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự, đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật TTDS về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự. Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là: - Làm rõ một số vấn đề lý luận về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự nhƣ: Khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của quy định về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS, phân loại ngƣời đại diện hợp pháp của 3
  10. đƣơng sự và lƣợc sử hình thành và phát triển của pháp luật TTDS về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự. - Phân tích đánh giá các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự và thực trạng áp dụng các quy định đó trong thực tế. - Trên cơ sở thực trạng, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTDS về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản; những quy định của pháp luật TTDS và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS. Phạm vi nghiên cứu: Ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS là một vấn đề nghiên cứu tƣơng đối lớn, có phạm vi nghiên cứu rộng nên có thể đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều phƣơng diện khác nhau và với nhiều nội dung khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, luận văn tập trung nghiên cứu về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS theo thủ tục tố tụng thông thƣờng, không nghiên cứu về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong THADS. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đây là đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội cho nên trong luận văn sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khoa học khác nhau. Bên cạnh những phƣơng pháp duy vật biện chứng và phƣơng pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, luận văn còn dựa một số phƣơng pháp nghiên cứu chủ đƣợc áp dụng: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, khái quát nhằm đi sâu tìm hiểu về khái niệm, đặc điểm về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS. Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp mô tả kết hợp so sánh, đối chiếu: những phƣơng pháp này giúp tác giả tìm hiểu các quy định về ngƣời đại 4
  11. diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS theo từng thời kỳ ở Việt Nam, tìm ra những điểm mới tiến bộ của pháp luật đồng thời so sánh với pháp luật của một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS để tìm ra những điểm tƣơng đồng với pháp luật Việt Nam cũng nhƣ những quy định cần tiếp thu. Ngoài những biện pháp trên tác giả còn sử dụng một số phƣơng pháp khác nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử để tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật Việt Nam về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS qua các thời kỳ; phƣơng pháp khảo sát thực tế từ đó đƣa ra những vƣớng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Từ việc nghiên cứu, kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ những phƣơng diện pháp lý và phƣơng diện thực tiễn về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS. - Làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS; - Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS, rút ra những vƣớng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật; - Đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS. Ngoài ra, việc tác giả nghiên cứu đề tài này có thể xây dựng đƣợc một nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác nghiên cứu, giảng dạy. Hơn nữa, ngƣời đọc có thể tự nghiên cứu, tìm hiểu lý thuyết và có thể áp dụng vào thực tế để giải quyết những khó khăn, vƣớng mắc của mình trong việc tham gia TTDS liên quan đến ngƣời đại diện từ đó tạo nền tảng cho việc thực hiện pháp luật một cách đầy đủ, chính xác, mang lại quyền và lợi ích chính đáng cho mình để nâng cao hiệu quả của hoạt động TTDS. 7. Cơ cấu của luận văn 5
  12. Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể là: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS. Chƣơng 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam về ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự trong TTDS và một số kiến nghị. 6
  13. CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGƢỜI ĐẠI DIỆN HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm người đại diện hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự Để đƣa ra đƣợc khái niệm ngƣời đại diện hợp pháp của đƣơng sự cần giải thích đƣợc các khái niệm: tố tụng dân sự và đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Thứ nhất, về khái niệm tố tụng dân sự. Trong khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học Việt Nam, TTDS là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự và thi hành án. Trong từ điển Luật học của Anh thì tố tụng (procedure) là những bƣớc tiến hành mang tính hình thức mà thông qua đó vụ kiện đƣợc giải quyết. Trong từ điển Luật học của Pháp thì tố tụng là toàn bộ những thể thức phải theo để đệ trình một yêu cầu trƣớc thẩm phán. Nhƣ vậy đa số các nƣớc đều thừa nhận TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải quyết một vụ kiện dân sự [22]. Ở Việt Nam vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định thi hành án dân sự có phải là một giai đoạn của TTDS hay không. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ nghiên cứu về ngƣời đại diện trong quá trình Tòa án giải quyết VVDS, không nghiên cứu về ngƣời đại diện trong THADS. Có thể thấy, ở giai đoạn thi hành án dân sự, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án và chấp hành viên là tổ chức, thi hành bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan, tổ chức khác chứ không giải quyết về nội dung VVDS, nên TTDS chỉ là quá trình Toà án giải quyết VVDS, quyết định quyền và nghĩa vụ dân sự của các đƣơng sự. Nhƣ vậy, TTDS là trình tự, thủ 7
  14. tục đƣợc pháp luật quy định để Tòa án giải quyết VVDS do các cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật yêu cầu. Thứ hai, về khái niệm đương sự trong tố tụng dân sự. Đƣơng sự là một trong những chủ thể không thể thiếu trong quá trình tòa án giải quyết VVDS, việc tham gia tố tụng của họ có thể làm phát sinh, thay đổi, hoặc đình chỉ tố tụng. Dƣới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì đƣơng sự là “là người là đối tượng trực tiếp của một việc đang được giải quyết” [16]. Còn trong cuốn Từ điển Hán Việt, đƣơng sự đƣợc định nghĩa là ngƣời “có liên quan trực tiếp đến một việc” [17]. Nhƣ vậy, dƣới góc độ chung nhất, đƣơng sự là ngƣời có liên quan trực tiếp trong một vụ việc nào đó xảy ra đang đƣợc đƣa ra xem xét, giải quyết. Dƣới góc độ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học năm 2006 thì đƣơng sự đƣợc hiểu là “Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham gia TTDS đó bao gồm đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, Viện kiểm sát, người làm chứng, người phiên dịch” [26, tr.278- 279]. Theo Từ điển Luật học của Mỹ, đƣơng sự đƣợc định nghĩa là “người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện” [42]. Nhƣ vậy, đƣơng sự trong một vụ việc là những ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc đang đƣợc xem xét, giải quyết. Tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ việc đƣợc Tòa án giải quyết mà có đƣơng sự trong VVDS, đƣơng sự trong vụ án hành chính và đƣơng sự trong vụ án hình sự. Trong đó, đƣơng sự trong VVDS “là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến VVDS” [23]. Các đƣơng sự trong VVDS có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức, tham gia tố 8
  15. tụng với tƣ cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự; ngƣời yêu cầu, ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong việc dân sự. Thứ ba, về khái niệm người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong quá trình tòa án giải quyết VVDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì các đƣơng sự thƣờng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp, các đƣơng sự có thể là những ngƣời không có hoặc khó có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc cần phải bảo vệ tài sản của đƣơng sự và những ngƣời có liên quan hoặc vì những lý do khác nhau nhƣ do sức khỏe, công việc, lũ lụt, thiên tai, hỏa hoạn, thiếu kiến thức hiểu biết pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng… mà họ không thể hoặc khó có thể tham gia tố tụng tại Tòa án nên cần có ngƣời đại diện thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự [30,tr.28]. Về mặt ngôn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt ngƣời đại diện là ngƣời đƣợc cử thay mặt cho cá nhân, tập thể làm việc gì [25]; còn theo Từ điển Từ Hán Việt năm 2001 đại diện đƣợc hiểu là “thay mặt” [20]. Nhƣ vậy, theo nghĩa chung nhất ngƣời đại diện là ngƣời thay mặt cho cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện một công việc nhất định. Dƣới góc độ pháp lí, Theo Từ điển Luật học thì ngƣời đại diện đƣợc hiểu là “Người nhân danh và vì lợi ích của một người khác xác lập, thực hiện các giao dịch trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [26,tr.575]. Nhƣ vậy, trong TTDS ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời “thay mặt” đƣơng sự tham gia tố tụng thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Tác giả Nguyễn Thuỳ Dƣơng đƣa ra khái niệm đại diện dƣới dạng là một hành vi, trong đó tồn tại hai chủ thể: ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại 9
  16. diện, ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện [19]. Theo quy định về đại diện tại Điều 134 BLDS 2015 thì những trƣờng hợp cá nhân, pháp nhân không có hoặc không đủ điều kiện để xác lập và thực hiện giao dịch dân sự thì có thể thông qua cá nhân, pháp nhân khác xác lập và thực hiện giao dịch đó. Vì vậy đại diện là quan hệ giữa một bên là ngƣời đại diện với bên kia là ngƣời đƣợc đại diện, theo đó ngƣời đại diện nhân danh và vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện. Vì vậy khi tham gia tố tụng tại Tòa án, các đƣơng sự có thể tự mình thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS đƣợc pháp luật quy định nhƣng có thể thông qua ngƣời khác thay mặt mình tham gia tố tụng là ngƣời đại diện theo pháp luật hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền. Ngoài ra, có những trƣờng hợp trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các đƣơng sự rơi vào tình trạng không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa án thì Tòa án có quyền chỉ định ngƣời thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng. Việc chỉ định này để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đƣơng sự. Tất cả những ngƣời đƣợc thay mặt cho đƣơng sự trƣớc Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự là ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS. Ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời nhân danh và vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự tại Tòa án. Nhƣ vậy, có thể hiểu ngƣời đại diện của đƣơng sự trong TTDS là ngƣời tham gia tố tụng thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự trƣớc Tòa án. Trong quá trình tham gia TTDS tại Tòa án, tuỳ thuộc vào năng lực hành vi TTDS của các đƣơng sự, kinh nghiệm tham gia tố tụng, ý chí của các đƣơng sự… mà có các loại đại diện khác thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Đó là, 10
  17. ngƣời đại diện theo pháp luật, ngƣời đại diện theo uỷ quyền và ngƣời đại diện do Toà án chỉ định. * Ngƣời đại diện theo pháp luật là ngƣời tham gia TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự theo quy định của pháp luật. Ngƣời đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng theo những nguyên tắc đã đƣợc pháp luật đề ra. Những đƣơng sự đƣợc đại diện trong trƣờng hợp này có thể là cá nhân không có năng lực hành vi TTDS, không thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng hoặc đƣơng sự là pháp nhân. Do đó, ngƣời đại diện theo pháp luật trong phạm vi đại diện tham gia tố tụng thay mặt ngƣời đƣợc đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự mà họ đại diện. Ngƣời đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự mà họ đại diện trong phạm vi đại diện. Đối với đƣơng sự là cá nhân là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự, ngƣời có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi thì họ là ngƣời không có năng lực hành vi tố tụng dân sự nên phải có ngƣời đại diện theo pháp luật tham gia TTDS tại Toà án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này. Đối với đƣơng sự là ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì việc họ tham gia TTDS tại Toà án có cần phải có ngƣời đại diện theo pháp luật không vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau. Cách hiểu thứ nhất: Ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là ngƣời không có năng lực hành vi TTDS trong phạm vi những vụ việc về giao dịch dân sự liên quan đến tài sản. Do đó, trong những vụ việc này ngƣời bị hạn chế phải có ngƣời đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng. Cách hiểu thứ hai: Ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là ngƣời có năng lực hành vi TTDS nên việc tham gia tố tụng tại Toà án do chính ngƣời bị hạn chế thực hiện mà không cần ngƣời đại diện theo pháp luật. 11
  18. Theo quan điểm của tôi thì đƣơng sự là ngƣời bị hạn chế NLHVDS vẫn cần có ngƣời đại diện theo pháp luật tham gia TTDS tại Tòa án trong vụ việc dân sự về giao dịch dân sự liên quan đến tài sản bị Tòa án tuyên bố hạn chế. Bởi vì, đƣơng sự trong trƣờng hợp này không thể tự mình bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trƣớc Tòa án. Bên cạnh đó, sự tham gia của ngƣời đại diện sẽ giúp cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự đƣợc nhanh chóng, thuận lợi, đặc biệt khi ngƣời đại diện có thể là luật sƣ hoặc là ngƣời hiểu biết pháp luật, họ sẽ giúp Toà án giải quyết vụ việc dân sự một cách đúng đắn hơn ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. * Ngƣời đại diện theo ủy quyền là ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự theo sự ủy quyền của đƣơng sự. Do đó, đƣơng sự trong trƣờng hợp này là ngƣời có đầy đủ năng lực hành vi TTDS, họ có ý chí muốn nhờ ngƣời khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Ngƣời đại diện chỉ đƣợc tham gia quan hệ tố tụng khi đƣợc đƣơng sự ủy quyền. Ngƣời đƣợc uỷ quyền có thể là cá nhân, pháp nhân có năng lực chủ thể và không thuộc những trƣờng hợp pháp luật cấm không đƣợc làm ngƣời đại diện theo uỷ quyền. Về phạm vi uỷ quyền, đối với việc ly hôn, do gắn liền với yếu tố nhân thân của đƣơng sự nên đƣơng sự có thể ủy quyền cho ngƣời đại diện hợp pháp thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Nhƣ vậy, khác với ngƣời đại diện theo pháp luật thì đƣơng sự đƣợc đại diện là ngƣời có năng lực hành vi TTDS nên ngƣời đại diện theo ủy quyền chỉ đƣợc tham gia tố tụng khi đƣợc đƣơng sự ủy quyền thay mặt họ trong TTDS. Cơ sở làm phát sinh ngƣời đại diện theo uỷ quyền là theo ý chí của các bên đƣơng sự, còn cơ sở làm phát sinh ngƣời đại diện theo pháp luật là theo quy định của pháp luật. Ngƣời đại diện theo uỷ quyền có quyền và nghĩa vụ TTDS trong phạm vi uỷ quyền, còn ngƣời đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ TTDS của đƣơng sự mà họ đại diện trong phạm 12
  19. vi đại diện. Ngƣời đại diện theo pháp luật có thể tham gia trong tất cả các vụ việc dân sự nhƣng ngƣời đại diện theo uỷ quyền không đƣợc tham gia trong vụ án ly hôn. * Ngƣời đại diện do Tòa án chỉ định: là ngƣời đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự theo sự chỉ định của Tòa án. Trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các đƣơng sự mới bị rơi vào tình trạng không thể tự mình tham gia tố tụng tại Tòa án nhƣ ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc ngƣời có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi mà không có ai thay mặt họ để tiếp tục tham gia tố tụng hoặc có ngƣời đại diện theo pháp luật thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng nhƣng họ lại là những ngƣời mà pháp luật quy định không đƣợc làm ngƣời đại diện thì Tòa án có quyền chỉ định ngƣời thay mặt đƣơng sự tham gia tố tụng. Việc chỉ định này để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của đƣơng sự. Ngƣời đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của Tòa án chỉ định họ đại diện cho đƣơng sự. Phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện do Tòa án chỉ định không bị hạn chế trong các loại việc. Tuy nhiên, ngƣời đƣợc Toà án chỉ định sẽ tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật có đúng không? Có quan điểm cho rằng, ngƣời đƣợc Toà án chỉ định đƣợc tham gia tố tụng với tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật. Theo quan điểm của tôi, ngƣời đƣợc Toà án chỉ định trong trƣờng hợp này chỉ tham gia trong vụ án đƣợc chỉ định này thôi. Nếu có những vụ việc khác phát sinh liên quan đến quyền lợi của ngƣời đƣợc đại diện thì ngƣời đại diện do Toà án chỉ định không đƣợc tham gia mà ngƣời đại diện theo pháp luật của ngƣời đƣợc đại diện đã đƣợc cử, chỉ định hoặc theo quy định của pháp luật sẽ tiếp tục tham gia trong vụ việc mới phát sinh nếu ngƣời đại diện theo pháp luật không thuộc những trƣờng hợp bị cấm không đƣợc làm ngƣời đại diện theo pháp luật. 13
  20. Ví dụ: Ông A có 3 ngƣời con là B, C, D, trong đó D là ngƣời bị bệnh tâm thần. Ông A khi chết có để lại di sản thừa kế là một ngôi nhà diện tích 100m2. Do D bị bệnh tâm thần nên B yêu cầu Toà án xác định D là ngƣời mất năng lực hành vi dân sự. Toà án đã ra quyết định tuyên bố D là ngƣời bị mất năng lực hành vi dân sự. Sau đó, B và C có tranh chấp với nhau về chia di sản thừa kế. B khởi kiện yêu cầu chia di sản thƣa kế. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án phát hiện cả B, C đều có ý định chiếm đoạt phần kỷ phần thừa kế của D nên trong trƣờng hợp này, B hoặc C đều không đƣợc làm ngƣời đại diện theo pháp luật cho D do B, C đều thuộc trƣờng hợp không đƣợc làm ngƣời đại diện theo pháp luật cho D trong vụ án thừa kế này. Để bảo vệ quyền lợi cho D, Toà án chỉ định ông E là bác họ xa của D làm ngƣời đại diện cho D để E tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho D trong vụ án chia thừa kế. Với quyết định của Toà án, E chỉ đƣợc tham gia tố tụng với tƣ cách là ngƣời đại diện cho D trong vụ án này thôi. Tuy nhiên, nếu D bị F gây thiệt hại thì ngƣời khởi kiện để yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại cho F và tham gia tố tụng tại Toà án vẫn là B (anh trai cả của D) với tƣ cách là ngƣời đại diện theo pháp luật của D. Do đó, cần phải xác định trong TTDS, ngoài ngƣời đại diện theo pháp luật và ngƣời đại diện theo uỷ quyền thì còn có ngƣời đại diện do Toà án chỉ định. Ngƣời này có đặc điểm khác biệt so với ngƣời đại diện theo pháp luật và ngƣời đại diện theo uỷ quyền. Đó là, thứ nhất, ngƣời đại diện do Toà án chỉ định chỉ tham gia trong TTDS khi ngƣời đại diện theo pháp luật không thuộc những trƣờng hợp bị cấm không đƣợc làm ngƣời đại diện theo pháp luật. Thứ hai, cơ sở làm phát sinh ngƣời đại diện do Toà án chỉ định dựa trên quyết định của Tòa án, còn cơ sở làm phát sinh ngƣời đại diện theo pháp luật là theo quy định của pháp luật, cơ sở làm phát sinh ngƣời đại diện theo uỷ quyền là dựa trên ý chí của các bên đƣơng sự. Thứ ba, ngƣời đại diện do Toà án chỉ định có quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự mà họ đại diện trừ quyền uỷ quyền. Điều này có nghĩa là trong trƣờng hợp vì một lý 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2