intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc nhân đạo trong quy chế Rome 1998 về

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:87

17
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và định hướng lĩnh hội các tư tưởng của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc nhân đạo trong quy chế Rome 1998 về

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ NGỌC ANH NGUY£N T¾C NH¢N §¹O TRONG QUY CHÕ ROME 1998 VÒ "TßA ¸N H×NH Sù QUèC TÕ" LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ NGỌC ANH NGUY£N T¾C NH¢N §¹O TRONG QUY CHÕ ROME 1998 VÒ "TßA ¸N H×NH Sù QUèC TÕ" Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH LÊ VĂN CẢM HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Lê Văn Cảm. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Người cam đoan Trần Thị Ngọc Anh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ QUY CHẾ ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ” ..................................... 7 1.1. Sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”......................................................................................... 7 1.1.1. Trƣớc Chiến tranh thế giới thứ hai .................................................... 7 1.1.2. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai ........................................................ 9 1.2. Nội dung pháp lý cơ bản của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” ......................................................... 13 1.2.1. Khái niệm tội phạm quốc tế ............................................................. 13 1.2.2. Các thiết chế của ICC ...................................................................... 14 1.2.3. Thẩm quyền tài phán của ICC ......................................................... 15 1.2.4. Hoạt động tố tụng của ICC .............................................................. 18 1.2.5. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên .................................... 18 1.3. Hệ thống các nguyên tắc pháp luật chung trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” ............................. 20 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 26 Chƣơng 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO TRONG QUY CHẾ ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ” .................................................................... 27 2.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo ................................. 27
  5. 2.2. Ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo ................................................ 29 2.3. Các quy định về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” ............................. 30 2.3.1. Quy định về lời nói đầu ................................................................... 30 2.3.2. Quy định về áp dụng và giải thích luật ............................................ 31 2.3.3. Quy định về trƣờng hợp tội phạm đƣợc hiểu theo hai nghĩa .......... 33 2.3.4. Quy định về không hồi tố ............................................................... 34 2.3.5. Quy định về không truy tố hình sự đối với ngƣời dƣới 18 tuổi phạm tội .................................................................................... 35 2.3.6. Quy định về những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự ............... 35 2.3.7. Quy định về hình phạt...................................................................... 39 2.3.8. Quy định về quyết định bản án ........................................................ 41 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 42 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG LĨNH HỘI CÁC TƢ TƢỞNG CỦA NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO CỦA QUY CHẾ ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ” VÀO VIỆC XÂY DỰNG NGUYÊN TẮC NHÂN ĐẠO CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................... 44 3.1. Lƣợc khảo nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam ......................................................................................... 44 3.1.1. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo ...................................... 45 3.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc ................................................................... 48 3.1.3. Các quy định về nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam .......................................................................................... 49 3.2. So sánh các quy định về nguyên tắc nhân đạo của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và pháp luật hình sự Việt Nam ............................................................................. 50 3.2.1. Những điểm giống nhau .................................................................. 51 3.2.2. Những điểm khác nhau .................................................................... 55 3.3. Suy ngẫm về việc tiếp tục hoàn thiện nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam ........................................... 60
  6. 3.3.1. Cần ghi nhận nguyên tắc nhân đạo thuộc một Chƣơng độc lập của Bộ luật Hình sự Việt Nam................................................... 61 3.3.2. Ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm quy định tại Chƣơng XXVI Bộ luật Hình sự ...................................................................................................... 62 3.3.3. Loại bỏ hình phạt tử hình đối với các tội phá hòa bình, chống loài ngƣời và tội phạm chiến tranh; tiến tới loại bỏ hoàn toàn án tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam ................. 66 3.4. Giải pháp để lĩnh hội nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam.................................................................... 69 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 72 KẾT LUẬN .................................................................................................... 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 74
  7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự ICC Tòa án hình sự quốc tế MHLL Mô hình lý luận PLHS Pháp luật hình sự
  8. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 3.1: So sánh các quy định về nguyên tắc nhân đạo của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và pháp luật hình sự Việt Nam 60
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Tòa án hình sự quốc tế là một thiết chế tƣ pháp quốc tế thƣờng trực đƣợc thiết lập từ năm 1998, bắt đầu hoạt động từ ngày 01/7/2002, đƣợc lập ra bởi điều ƣớc quốc tế là Quy chế Rome (đƣợc thông qua tại hội nghị ngoại giao do Liên hợp quốc bảo trợ tổ chức tại Rome (Italia), ngày 17/7/1998), với chức năng điều tra, truy tố và xét xử những cá nhân phạm vào bốn dạng tội phạm quốc tế là tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lƣợc. Mặc dù vẫn còn những nghi ngại về tính độc lập, khách quan và hiệu quả hoạt động của nó, song không thể phủ nhận rằng, ICC là một thiết chế ngày càng có ảnh hƣởng sâu rộng trên thế giới. Kể từ khi đƣợc thông qua (năm 1998) đến nay, Quy chế Rome đã có 100 nƣớc thành viên, một số nƣớc đã ký đang chuẩn bị phê chuẩn Quy chế và một số nƣớc khác cũng bày tỏ ý định gia nhập Quy chế. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta là đa dạng hóa, đa phƣơng hóa các quan hệ đối tác, đặc biệt là với các tổ chức quốc tế. Nƣớc ta cũng đã tham gia nhiều điều ƣớc quốc tế có liên quan mật thiết đến nội dung của Quy chế Rome và chức năng hoạt động của ICC. Vì vậy, mặc dù chƣa là thành viên của Quy chế, song việc nghiên cứu, tìm hiểu về điều ƣớc quốc tế này và hệ thống nguyên tắc pháp luật chung của Quy chế Rome là cần thiết, nhất là khi ảnh hƣởng của Quy chế Rome “Về Tòa án hình sự quốc tế” có xu hƣớng ngày càng lớn. Xu hƣớng của các quốc gia trên thế giới là hội nhập quốc tế, nên Việt Nam cần phải nghiên cứu các chế định pháp lý quốc tế. Qua đó, nhận thức 1
  10. đƣợc tầm quan trọng, những ƣu điểm, tinh hoa và tính nhân văn của nguyên tắc nhân đạo thể hiện trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” để định hƣớng lĩnh hội vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam. Thêm vào đó, đảm bảo việc thực hiện những quy định của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định, phát triển chính trị, xã hội, kinh tế, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, tăng cƣờng hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc. Bên cạnh đó, xác định rõ tầm quan trọng của việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong LHS Việt Nam thể hiện rõ bản chất Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của dân, do dân và vì dân. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nƣớc ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hƣớng phát triển toàn diện, bền vững đất nƣớc trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nƣớc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ngày 28/11/2013, với đa số phiếu 486/498, chiếm 97.59% Quốc hội Khóa XIII, Kỳ họp thứ VI đã thông qua Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Đây là sự kiện chính trị-pháp lý đặc biệt quan trọng đánh dấu một cột mốc mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam. Hơn thế nữa, Việt Nam còn là một thành viên của Hiệp hội cảnh sát các nƣớc ASEAN (ASEANAPOL). Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp tới năm 2020 cũng khẳng định nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm là: 2
  11. Tăng cƣờng sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế, với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL…, với cảnh sát các nƣớc láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống và học tập…. 2. Tình hình nghiên cứu Trên bình diện khoa học, nhóm đề tài nghiên cứu về nguyên tắc nhân đạo trong LHS Việt Nam luôn đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Có thể kể đến đề tài Luận án Tiến sĩ: “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam” của tác giả Hồ Sỹ Sơn, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật, bảo vệ năm 2007; Khóa luận tốt nghiệp: “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam”, của tác giả Ngô Văn Đen, Khoa Luật – Đại học Cần Thơ, bảo vệ năm 2010. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome 1998 thì chƣa có đề tài nào khai thác, chủ yếu là những đề tài nghiên cứu về việc Việt Nam có nên gia nhập Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” hay không, có thể kể đến nhƣ sau: - Luận án Tiến sĩ: “Thẩm quyền của Tòa án Hình sự quốc tế và vấn đề gia nhập của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Xuân Sơn, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2014; - Luận văn thạc sĩ: “Tòa án Hình sự Quốc tế và khả năng gia nhập của Việt Nam” của tác giả Trần Thị Hƣơng Giang, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, bảo vệ năm 2012; - Luận văn thạc sĩ: “Việt Nam có nên gia nhập quy chế Rome về tòa án hình sự quốc tế hay không?” của tác giả Nguyễn Mạnh Hảo, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, bảo vệ năm 2008. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài Nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế 3
  12. Rome 1998 về “Tòa án hình sự quốc tế” là mang tính cấp thiết và phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực của Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu: những vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. Cụ thể bao gồm: nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo, ý nghĩa của nguyên tắc nhân đạo và sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Do tính chất đa dạng, rộng lớn và phức tạp của những vấn đề về Quy chế Rome (vì ngay mỗi nhóm vấn đề trong Quy chế Rome liên quan đến luật hình sự, luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự, hợp tác và tƣơng trợ tƣ pháp hình sự… cũng đều có thể trở thành những đối tƣợng nghiên cứu độc lập và đƣợc đề cập trong nhiều công trình khoa học khác nhau) nên trong phạm vi của luận văn này, tôi chỉ để cập đến nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” và định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhận diện đƣợc những ƣu điểm, hạn chế của nguyên tắc nhân đạo 4
  13. trong Quy chế Rome 1998 nếu áp dụng vào thực tiễn Luật hình sự Việt Nam và định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phƣơng pháp luận: nghiên cứu đề tài đƣợc thể hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Phƣơng pháp nghiên cứu: trong quá trình nghiên cứu, còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học truyền thống nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp tổng hợp và phƣơng pháp thực tiễn. 6. Những điểm mới của luận văn 6.1. Nêu lên đƣợc sự thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” góp phần có thêm đƣợc cơ sở lý luận cho việc bảo vệ quyền con ngƣời bằng các quy định pháp luật hình sự. 6.2. Phân tích, đánh giá những ƣu điểm của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome và tính nhân văn nếu áp dụng những điểm đó trong pháp luật hình sự Việt Nam. 6.3. Nêu đƣợc bối cảnh tình hình chung của việc hội nhập quốc tế đề cao nguyên tắc nhân đạo và bảo vệ quyền con ngƣời bằng những quy định pháp luật hình sự. 6.4. Hoàn thiện cơ sở lý luận cho nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. 6.5. Định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam. 5
  14. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt; Danh mục bảng và Danh mục tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn gồm có 3 chƣơng: Chương 1: Vài nét tổng quan về Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc nhân đạo trong Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế”. Chương 3: Định hƣớng lĩnh hội các tƣ tƣởng của nguyên tắc nhân đạo của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” vào việc xây dựng nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam. 6
  15. Chương 1 VÀI NÉT TỔNG QUAN VỀ QUY CHẾ ROME NĂM 1998 “VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ” 1.1. Sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” Chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra từ năm 1914 đến năm 1918, là một trong những cuộc chiến tranh quyết liệt, quy mô to lớn trong lịch sử nhân loại, về quy mô và sự khốc liệt của nó chỉ đứng sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, rất nhiều tầng lớp ngƣời Châu Âu nhận thức đƣợc kết quả mà chủ nghĩa dân tộc cực đoan mang lại nên họ đã bắt đầu định hƣớng theo một tinh thần mới đó là tinh thần chủ nghĩa quốc tế và xu hƣớng hòa bình chủ nghĩa, nhân đạo chủ nghĩa. Điều này có thể đƣợc coi là một khởi nguồn cho việc hình thành một cơ quan xét xử tội phạm quốc tế. Và sự ra đời của Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” đƣợc hình thành qua các dấu mốc lịch sử sau: 1.1.1. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, ngày 28/6/1919, các nƣớc thắng trận đã họp Hội nghị Véc-xây và ký với Đức một bản Hiệp ƣớc hòa bình, trong đó có quy định về việc lập một cơ quan xét xử tội phạm quốc tế để truy tố hoàng đế Đức và những tên tội phạm chiến tranh khác. Để chuẩn bị cho việc truy tố, một Ủy ban đƣợc thành lập với nhiệm vụ đƣợc xác định trách nhiệm hình sự của các tội phạm chiến tranh. Khoảng 20.000 ngƣời đã đƣợc liệt kê ra để điều tra và truy tố. Ủy ban này đã tuyên bố: tất cả những ngƣời thuộc phe thua trận cho dù giữ chức vụ cao, đã thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật và tập quán chiến tranh đều phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 228 Hiệp ƣớc Véc-xây cũng yêu cầu Chính phủ Đức phải trao tất cả 7
  16. các cá nhân đã vi phạm pháp luật và tập quán chiến tranh cho các nƣớc đồng minh thắng trận. Tuy nhiên vì một số lý do chính trị, việc truy cứu những tội phạm này đã không diễn ra. Hoàng đế Kaiser Wihemlm không bị đƣa ra xét xử vì chính quyền Hà Lan đã cho ông ta cƣ trú chính trị và từ chối dẫn đỗ. Còn trong số 20.000 ngƣời đã bị tình nghi thì chỉ có 22 ngƣời bị Tòa án tối cao Đức truy tố và trên thực tế cũng chỉ có 12 ngƣời bị kết tội. Thất vọng vì kết cục này, một thành viên trong Ủy ban đã đề nghị: “Trong tƣơng lai gần, cần phải có sự trừng phạt thích đáng cho những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế”. Các nƣớc đồng minh thắng trận cũng tìm cách đƣa quan chức Thổ Nhĩ Kỳ ra xét xử về tội diệt chủng đối với ngƣời Ác-mê-ni-a (gần 600.000 nạn nhân) song không thành công. Mặc dù, các nƣớc này đã ký Hiệp ƣớc Sèvre với Thổ Nhĩ Kỳ ngày 10/8/1920, quy định việc dẫn độ những kẻ phạm tội thảm sát trong thời kỳ chiến tranh nhƣng nó đã không đƣợc phê chuẩn và năm 1923, đã bị thay thế bằng Hiệp ƣớc Lausanne với tuyên bố ân xá cho tất cả những tên tội phạm nói trên [1, tr. 10-12]. Trong thời kỳ Hội quốc liên, việc thành lập ICC cũng đƣợc một số quốc gia đề cập đến song nó không đƣợc quan tâm thích đáng. Năm 1926, Hội luật hình sự quốc tế (AIDP) đƣợc sự hỗ trợ của Hội luật quốc tế (ILA) đã phác thảo một dự án về ICC. Tuy nhiên, dự án này không nhận đƣợc sự ủng hộ nào về mặt chính trị và do vậy, không đƣợc thực hiện. Năm 1931, Nhật xâm lƣợc Mãn-châu-lý; năm 1934, Mussolini tấn công Ethiopia và năm 1935 vua Nam Tƣ Alexander bị ám sát. Trƣớc tình hình này, ngày 16/9/1937, Hội quốc liên đã thông qua công ƣớc chống và trừng trị các tội khủng bố, trong đó Phần 2 của Công ƣớc đã đề cập đến việc thành lập một ICC để xét xử những kẻ có hành vi khủng bố. Tuy nhiên, do phải tập trung đối phó với cuộc chiến tranh xâm lƣợc của Đức quốc xã và chế độ phát xít, cho nên ICC chống khủng bố đã không đƣợc thành lập và Công ƣớc chỉ đƣợc một quốc gia duy nhất (Ấn Độ) phê chuẩn [1, tr.12-13]. 8
  17. 1.1.2. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Hậu quả thảm khốc của Chiến tranh thế giới thứ hai đã khiến cho cộng đồng quốc tế quan tâm hơn đến việc áp dụng các biện pháp để giảm bớt tác động của chiến tranh, trong đó có cả vấn đề thành lập Tòa án quốc tế để trừng trị những tội phạm quốc tế nguy hiểm. Bốn quốc gia thắng trận (Mỹ, Pháp, Anh và Liên Xô) đã thiết lập hai Tòa án quân sự quốc tế ở Nuremberg và Tokyo để truy tố những tên tội phạm sừng sỏ nhất trong phe liên minh Đức, Ý, Nhật. Tòa án Nuremberg đƣợc thành lập theo Hiệp ƣớc Luân Đôn ký ngày 08/8/1945 với 19 nƣớc gia nhập, còn Tòa án Tokyo đƣợc thành lập ngày 16/11/1946. Lần đầu tiên trong lịch sử những tội danh nhƣ “chống nhân loại”, “chống hòa bình” và “tội phạm chiến tranh” đã đƣợc dùng để truy tố các cá nhân đối với những hành vi vi phạm các chuẩn mực chung của đạo đức và luật quốc tế. Một số nguyên tắc về trách nhiệm cá nhân nảy sinh từ các phiên tòa Nuremberg sau này đƣợc liệt kê trong Tuyên bố năm 1950 về các nguyên tắc luật quốc tế đƣợc thừa nhận của Liên hợp quốc liên quan đến Hiến chƣơng Nuremberg và phán quyết của Tòa. Sự ra đời của hai Tòa án Nuremberg và Tokyo đƣợc coi nhƣ một mô hình thực tế cho việc xây dựng một ICC thƣờng trực. Những lời chỉ trích về tính chất một chiều của hai Tòa án này – chỉ truy tố những kẻ phạm tội của bên thua trận hay cái gọi là “công lý của kẻ chiến thắng” đã góp phần định hƣớng rõ hơn ý tƣởng về một ICC thƣờng trực thực sự công bằng, khách quan và hiệu quả cũng nhƣ sự cần thiết phải thành lập Tòa án này [1, tr. 13-15]. Năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ƣớc về tội diệt chủng. Ngoài việc định nghĩa tội diệt chủng, Công ƣớc này còn quy định bất kỳ ngƣời nào thực hiện tội diệt chủng sẽ bị xét xử tại Tòa án quốc gia nơi xảy ra tội phạm hoặc bằng “một Tòa án hình sự quốc tế có thẩm quyền đã đƣợc các nƣớc thành viên tham gia Công ƣớc chấp nhận”. Mặc dù Công ƣớc 9
  18. năm 1948 không thành lập Tòa án hình sự quốc tế nhƣng nó đã đƣa ra khái niệm đầu tiên về địa vị pháp lý của Tòa án này, định hình thêm mô hình về Tòa án hình sự quốc tế trong tƣơng lai [1, tr.15-16]. Trƣớc đó, năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã yêu cầu Ủy ban lập pháp quốc tế xây dựng Bộ luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân loại và soạn thảo một quy chế để thành lập Tòa án hình sự quốc tế với tƣ cách nhƣ một cơ quan thi hành án. Khi Ủy ban lập pháp quốc tế bắt đầu xúc tiến việc soạn thảo thì cũng là lúc thế giới phải đối mặt với Chiến tranh lạnh. Sau nhiều lần thảo luận, Ủy ban lập pháp quốc tế đã đƣa ra Dự thảo Quy chế Tòa án hình sự quốc tế lần đầu tiên vào năm 1951 và lần thứ hai vào năm 1953. Tuy nhiên, do các nƣớc không đƣa ra đƣợc quan điểm chung về “định nghĩa tội xâm lƣợc” nên Dự thảo này đã không đƣợc xem xét, cũng nhƣ Dự thảo Bộ luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân loại. Năm 1957, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định đình chỉ xem xét vấn đề thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Phải đến năm 1974, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới thông qua “định nghĩa tội xâm lƣợc”. Định nghĩa này mô tả các hành vi xâm lƣợc nhƣng rất mơ hồ trong việc xác định hành vi nào là tội phạm. Theo đúng trình tự thì việc thông qua “định nghĩa tội xâm lƣợc” coi nhƣ đã gạt bỏ mọi trở ngại trong việc soạn thảo Bộ luật các tội chống hòa bình và an ninh của nhân loại và việc xây dựng một Tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên, mãi đến năm 1978, Đại hội đồng Liên hợp quốc mới đƣa vấn đề này ra xem xét lại. Tiến trình chậm chạp này thực chất là do còn nhiều bất đồng về quan điểm giữa các quốc gia và các nhà lãnh đạo trên thế giới, đặc biệt là do hậu quả của Chiến tranh lạnh kéo dài trong suốt thời kỳ này [1, tr.16-18]. Cũng phải kể đến dƣ luận thế giới về tội ác chiến tranh ở Việt Nam và tội ác diệt chủng ở Campuchia đã diễn ra trong hai thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX. Những tội ác chiến tranh man rợ mà Đế quốc Mỹ gây ra ở Việt Nam 10
  19. đã khiến cộng đồng quốc tế hết sức phẫn nộ. B. Russel, nhà bác học ngƣời Anh đã lập ra một Tòa án xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Mặc dù không mang tính pháp lý bắt buộc nhƣng Tòa án Russel cũng là một bƣớc tiến theo hƣớng thành lập Tòa án hình sự quốc tế, đòi hỏi phải trừng trị nghiêm khắc tội ác chiến tranh xâm lƣợc. Năm 1979, ngay sau khi thoát khỏi chế độ Khơme đỏ, Nhà nƣớc Campuchia cũng đã thành lập Tòa án xét xử Pôn-pốt, Iêng-xa-ri về tội ác diệt chủng. Những tòa án này thực sự có ý nghĩa lớn trong việc đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những cá nhân phạm các tội ác quốc tế nghiêm trọng [1, tr.18-19]. Năm 1989, tại phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về buôn lậu ma túy quốc tế, Trinidad & Tobago đã đề nghị Liên hợp quốc thành lập một Tòa án quốc tế để xét xử những tên tội phạm buôn bán ma túy. Do một số quốc gia phản đối nên đề xuất đó không đƣợc chấp thuận, song nó cũng làm dấy lên mối quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với việc thành lập một Tòa án quốc tế thƣờng trực, đƣa vấn đề này trở lại Chƣơng trình nghị sự của Liên hợp quốc. Đại hội đồng Liên hợp quốc đã giao cho Ủy ban lập pháp quốc tế nghiên cứu vấn đề này. Sau hai năm nghiên cứu (từ năm 1990 đến 1992), Ủy ban lập pháp quốc tế đã trình lên Đại hội đồng một bản báo cáo về những vấn đề pháp lý liên quan tới việc thành lập một Tòa án hình sự quốc tế thƣờng trực. Và đến năm 1994, Ủy ban lập pháp quốc tế đã hoàn thành bản dự thảo Quy chế Tòa án hình sự quốc tế [1, tr.19-20]. Cũng trong thời gian này, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thành lập hai Tòa án adhoc (Tòa án sự vụ) để truy tố các cá nhân vi phạm luật nhân đạo quốc tế và phạm tội diệt chủng ở Nam Tƣ và Ru-an-da. Tòa án hình sự quốc tế truy tố các cá nhân vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ Nam Tƣ cũ từ năm 1991 (ICTY) đƣợc thành lập năm 1993 và Tòa án hình sự 11
  20. quốc tế truy tố các cá nhân phạm tội diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ Ru-an-da cũng nhƣ các công dân Ru-an-da phạm tội diệt chủng và vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế trên lãnh thổ các nƣớc láng giềng (ICTR) đƣợc thành lập năm 1994. Sự ra đời và hoạt động của hai Tòa án này với những hạn chế về thẩm quyền và tƣ cách pháp lý càng khẳng định sự cần thiết phải có một Tòa án hình sự quốc tế thƣờng trực, củng cố thêm mô hình về một cơ quan tƣ pháp quốc tế độc lập trong tƣơng lai cũng nhƣ thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế với vấn đề này [1, tr. 20-21]. Sau khi Ủy ban lập pháp quốc tế hoàn thành Dự thảo Quy chế thành lập ICC năm 1994, Đại hội đồng đã quyết định thành lập Ủy ban Adhoc để nghiên cứu, xem các vấn đề liên quan đến Tòa án. Trên cơ sở các nghiên cứu và khuyến nghị của Ủy ban Adhoc, năm 1995, Đại hội đồng Liên hợp quốc thành lập Ủy ban trù bị với sự tham gia của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ để xây dựng một văn bản pháp lý hoàn chỉnh, đƣợc chấp nhận rộng rãi, chuẩn bị cho hội nghị ngoại giao thông qua Quy chế Tòa án này [1, tr. 21-22]. Từ ngày 15/6/1998 đến ngày 17/7/1998, Hội nghị ngoại giao về thành lập Tòa án hình sự quốc tế đã đƣợc tổ chức tại Rome, Italy. Hơn 160 quốc gia đã cử đại biểu tham dự Hội nghị cùng với đại diện của nhiều tổ chức quốc tế với hơn một trăm tổ chức phi chính phủ. Tất cả các đoàn đại biểu này đều bày tỏ sự ủng hộ về nguyên tắc đối với việc thành lập Tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên những vấn đề quan trọng nhƣ quyền tài phán của Tòa án, cơ chế khởi kiện, danh mục tội phạm thì vẫn còn nhiều sự bất đồng về ý kiến. Sau 5 tuần làm việc căng thẳng, Hội nghị đã thông qua Quy chế Rome ICC với 120 phiếu thuận, 21 phiếu trắng và 7 phiếu chống [1, tr. 22-23]. Quy chế Rome năm 1998 “Về Tòa án hình sự quốc tế” có hiệu lực vào 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2