intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:108

21
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC HẠNH NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC HẠNH NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 6 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ....................................................................................... 6 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................................................................................. 7 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN ............................................................................................................................... 7 3.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 7 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................... 8 3.3. Đối tƣợng nghiên cứu ......................................................................................... 8 3.4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 8 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................. 9 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN ....................................... 9 6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN .................................................... 10 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ............................................................................................ 10 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............................................................................................................ 11 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CÔNG TỐ, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............................................. 11 1.1.1. Khái niệm, đối tƣợng, phạm vi, nội dung quyền công tố ................................. 11 1.1.2. Khái niệm, đối tƣợng và phạm vi thực hành quyền công tố ............................ 19 1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự .................................. 20 1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .............................................. 28 1.2.1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật TTHS .................................................. 28 1.2.2. Khái niệm nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ......................................................................................... 33 1.2.3. Nội dung nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: ........................................................................................ 36 CHƢƠNG 2. THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................................................................................................... 45 2.1. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN TRƢỞNG, PHÓ VIỆN TRƢỞNG VÀ KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. ...................................................................................................................... 45 2.2. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC QUY ĐỊNH VỀ VIỆC QUYẾT ĐỊNH VIỆC PHÊ CHUẨN, ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN . 46 2.3. SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở CÁC GIAI ĐOẠN TỐ TỤNG HÌNH SỰ . ....... 48 2.3.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can 48 2.3.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ...................... 53 2.3.3. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn truy tố ............................................. 57 2.3.4. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự ........................ 59 2.3.5. Sự thể hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở giai đoạn thi hành án hình sự. .................................................................................. 69 4
  4. CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................................................................. 72 3.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. .............................. 72 3.1.1. Đánh giá chung về việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. .................................................... 72 3.1.2. Một số khó khăn, vƣớng mắc khi thực hiện một số quy định thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. 75 3.2. NHU CẦU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG NỘI DUNG CẦN HOÀN THIỆN BẢO ĐẢM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ . ...................................................... 95 3.2.1. Nhu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. ................................................................................................................ 95 3.2.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. ................................................................ 98 KẾT LUẬN................................................................................................................... 103 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 106 5
  5. MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong quá trình xây dựng nhà nƣớc pháp quyền và cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay, bộ máy Nhà nƣớc đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nói chung, các cơ quan tƣ pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó có vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết vì nó không chỉ liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nƣớc nói chung, trƣớc hết và đặc biệt là các cơ quan tƣ pháp. Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tƣ pháp, trong đó đề ra một định hƣớng quan trọng là xây dựng nền công tố mạnh; Ngoài ra, một định hướng mới rất quan trọng tại Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; bảo đảm các điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra. Hội nghị cũng yêu cầu Viện kiểm sát phải đổi mới tổ chức và hoạt động để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là chức năng của Viện kiểm sát nhân dân, là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự đƣợc quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận nội dung của nguyên tắc và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này, tìm ra những bất cập, khó khăn để có những kiến giải về lập pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Đây là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, là lý do tôi chọn đề tài “nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự” làm luận văn Cao học luật của mình. 6
  6. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đƣợc quy định thành một nguyên tắc tố tụng, việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề liên quan về nguyên tắc này ở các mức độ khác nhau đã đƣợc một số nhà khoa học pháp lý, các chuyên gia lý luận và thực tiễn quan tâm nghiên cứu, cụ thể: Trong thời gian qua, Viện khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ và các cơ quan hữu quan tổ chức triển khai nghiên cứu các đề tài cấp Bộ nhƣ: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, “Những giải pháp nâng cao chất lƣợng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp”, “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”. Ngoài ra, nhiều số chuyên đề của Tạp chí kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng tập trung nghiên cƣu về những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể nội dung của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Hơn nữa, trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay, xung quanh vấn đề này còn chƣa thực sự thống nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; chƣa có sự phân định cụ thể, rõ ràng giữa hai chức năng và đánh giá mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này. Vì thế, nhiều nội dung xung quanh nội dung nguyên tắc này cũng đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn nữa. 3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này. 7
  7. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau: Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 cho đến nay, phân tích khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy định của luật TTHS Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nƣớc ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh các quy định trong Bộ luật TTHS thể hiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng nhằm kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 3.3. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể là: khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; thực tiễn áp dụng các quy định thể hiện nguyên tắc này để qua đó kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam dƣới góc độ của luật tố tụng hình sự, đồng thời, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm pháp luật có liên quan nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu. Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn từ năm 2005-2009. 8
  8. 4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng nhƣ thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý nhƣ: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nƣớc và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học pháp lý Việt Nam. Luận văn sử dụng một số phƣơng pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tƣơng ứng, đó là các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; v.v... Dựa trên những số liệu thống kê, tổng kết hàng năm trong các báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo rút kinh nghiệm về nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; cũng nhƣ những thông tin trên mạng internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau: 1) Phân tích một cách có hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, ranh giới và mối quan hệ giữa hai hoạt động trên 2) Hệ thống hóa lịch sử phát triển của các quy phạm về thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự từ 1945 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá. 3) Nêu ra thực trạng việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2005 – 2009 trên cơ sở các báo cáo về công tác kiểm sát năm của VKSNDTC, qua đó góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thời gian qua. Đặc biệt, luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và những nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục. 9
  9. 4) Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, luận văn đã đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm liên quan đến nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam để phục vụ yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm, cũng nhƣ việc bảo đảm việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án. 6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN Về mặt lý luận: Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo Pháp luật TTHS Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng nhƣ đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm có liên quan đến nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học, cũng nhƣ góp phần phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án hình sự. 7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng với các nội dung chủ yếu sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Chương 2: Thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong một số quy phạm pháp luật tố tụng hình sự. Chương 3: Thực trạng và những số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. 10
  10. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CÔNG TỐ, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm, đối tƣợng, phạm vi, nội dung quyền công tố 1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố Quyền công tố và thực hành quyền công tố là những khái niệm đƣợc nhắc đến nhiều trong luật tố tụng hình sự (TTHS) nƣớc ta khi đề cập chức năng của Viện kiểm sát. Điều 138 Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên quy định Viện kiểm sát nhân dân tối cao nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kiểm sát việc tuân theo pháp luật... thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng và viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm của mình. Quy định này cũng đƣợc thể hiện trong Điều 137 Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và các văn bản pháp luật TTHS khác cũng có những quy định tƣơng tự. Trong khoa học luật TTHS, việc xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan trọng. Giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc nói chung và trong các cơ quan tƣ pháp nói riêng và đặc biệt là trong TTHS. Vấn đề này càng trở lên quan trọng hơn bao giờ hết trong quá trình tiến hành cải cách bộ máy nhà nƣớc nói chung và cải cách tƣ pháp nói riêng. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố đã đƣợc đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nƣớc ta với các mức độ khác nhau. Mặc dù vậy, quyền công tố và thực hành quyền công tố vẫn đang là vấn đề phức tạp, đang có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau đòi hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu. Hiện nay, trong sách báo pháp lí nƣớc ta đang có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố của viện kiểm sát. Để tìm hiểu vấn đề này chúng tôi đồng ý với cách tiếp cận, nghiên cứu và lý giải vấn đề công tố, quyền công tố, thực hành quyền 11
  11. công tố đƣợc thể hiện trong công trình nghiên cứu đƣợc thể hiện trong cuốn: “Thực 1 hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra” của TS. Lê Hữu Thể. Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính nhƣ sau: - Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con ngƣời đƣợc đề cao, đòi hỏi phải có một cơ quan thay mặt Nhà nƣớc đứng ra bảo vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tƣ pháp. - Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là một quyền độc lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ pháp luật khi tham gia tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật (có thể nằm trong cơ cấu tối cao của pháp viện). Cơ quan công tố là “mối dây liên lạc giữa các cơ quan công quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật”. Những ngƣời theo quan điển này nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp thì cần phải có một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tƣ pháp nhƣng “chống” lại quyền xét xử nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị Tòa án xét xử, đó là quyền công tố. - Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nƣớc, đại diện công quyền để đƣa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật thống trị ra cơ quan xét xử, do đó quyền công tố không thể xuất hiện cùng với nhà nƣớc mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tƣ cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập. - Nhóm quan điểm thứ tƣ cho rằng, quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nƣớc và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nƣớc và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nƣớc, từ nhà nƣớc chủ nô đến các nhà nƣớc đại diện. Qua nghiên cứu lịch sử nhà nƣớc và pháp luật thế giới cho thấy các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nƣớc. Tuy nhiên, việc ra đời của các cơ quan chuyên trách thực hiện quyền công tố không đồng nhất với quyền công tố. Quyền công tố xuất hiện từ 1 Lê Hữu Thể, Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra, NXBTP năm 2008 12
  12. khi có nhà nƣớc và pháp luật, nó luôn gắn liền với bản chất của nhà nƣớc và là một một bộ phận không thể tách rời của công quyền và xuất hiện cùng với nhà nƣớc. Nhà nƣớc xuất hiện và tồn tại khi xuất hiện và tồn tại giai cấp (xuất hiện và tồn tại những đối kháng mang tính giai cấp). Để quản lý xã hội, Nhà nƣớc phải ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội đƣợc thực hiện theo ý chí của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong bất kỳ một xã hội nào, cũng tồn tại những mâu thuẫn mang tính giai cấp và có những hành vi đấu tranh giai cấp dƣới các hình thức khác nhau, biểu hiện cụ thể là những hành vi vi phạm pháp luật chống lại ý chí của giai cấp thống trị đe dọa đến quyền thống trị của nhà nƣớc mà cần phải trừng trị. Và để trừng trị ngƣời vi phạm pháp luật thì nhà nƣớc phải buộc đƣợc tội họ thông qua một cơ quan của nhà nƣớc, đại diện cho nhà nƣớc. Quyền buộc tội của Nhà nƣớc chính là quyền công tố, quyền này có thể do mộ cá nhân, một cơ quan đƣợc nhà nƣớc giao để thực hiện nó tùy thuộc vào sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nƣớc qua các thời kỳ lịch sử và phụ thuộc vào bản chất của các kiểu nhà nƣớc. Mặt khác, qua nghiên cứu so sánh lịch sử TPHS trên thế giới đã cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố đã đƣợc biết đến ngay từ những thời đại xa xƣa của xã hội loài ngƣời. Chẳng hạn, ở Nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trƣớc Công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố tụng – công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nƣớc khi mà ngƣời đại diện của nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tƣ tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở La Mã cổ đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành nhà nƣớc chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã đƣợc tiến hành đối với cả các vụ án quan trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội – các lợi ích công cộng (delicta publica), khác với các vụ án động chạm đến các lợi ích cá nhân (delicta privata)2. Từ những lí do trên, chúng tôi đồng có cùng quan điểm với nhóm quan điểm thứ tƣ là: quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất của nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu nhà nước, từ Nhà nước chủ nô đến các nhà nước đại diện. 2 Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố (Nhìn nhận từ góc độ nhà nƣớc pháp quyền) - http://luathinhsu.wordpress.com. 13
  13. Trên đây là một số nét về quyền công tố, sự xuất hiện của quyền công tố. Tuy nhiên, ở nƣớc ta hiện nay thì khái niệm về quyền công tố còn có nhiều quan điểm khác nhau và có thể khái quát lại thì có một số quan điểm sau: - Quan điểm thứ nhất 3: Nhóm quan điểm này xuất hiện trƣớc khi Hiến pháp năm 1992 đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2001. Những ngƣời theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với khái niệm kiểm sát các hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát. Theo đó tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là thực hành quyền công tố. Cơ sở cho những lập luận này chủ yếu là các quy định của Luật tổ chức VKSND năm 1981 và 1992. Những ngƣời theo quan điểm này đã đồng nhất chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tƣ pháp. Theo chúng tôi, quan điểm này đã phủ nhận tính độc lập của chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong khi hai chức năng này có đối tƣợng tác động, nội dung và phạm vi khác nhau tác động khác nhau. Mặt khác, quan điểm này còn không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành vào thời điểm đó. - Quan điểm thứ hai 4: Những ngƣời theo quan điểm này cho rằng quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc giao cho Viện kiểm sát truy tố ngƣời phạm tội ra Tòa án để xét xử. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của quyền công tố là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phạm vi quyền công tố chỉ giới hạn trong việc truy tố và buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm. Theo chúng tôi, quan điểm này đã quá thu hẹp phạm vi quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân. Bản chất của công tố là buộc tội của nhà nƣớc đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động buộc tội không phải chỉ thực hiện tại phiên tòa, mà nó đƣợc bắt đầu từ khi khởi tố. Ngoài ra, trong thực tế hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát còn đƣợc thực hiện trƣớc khi khởi tố vụ án hình sự, nhƣ trong hoạt động khám nghiệm hiện trƣờng, khám nghiệm tử thi…Hoạt động buộc tội tại Tòa án chỉ là một trong những hoạt động thực hiện chức năng công tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự. 3 Trƣờng Cao đẳng kiểm sát, Giáo trình Công tác kiểm sát (phần chung) trang 74, Nxb Công An nhân dân, năm 1984; Giáo trình Công tác kiểm sát , Nxb Công An nhân dân năm 1996 tập 1, trang 85-87; Võ Quang Nhạn, Bàn về quyền công tố, Tạp Chí công tác kiểm sát số 2/1984. 4 Võ Thọ, một số vấn đề về luật TTHS, Nxb Pháp lý, 1985, trang 86-88; Thạch Giản, Tìm hiểu bộ máy nhà nƣớc, Viện kiểm sát nhân dân, Nxb Pháp lý, 1982, tr22. 14
  14. - Quan điểm thứ ba: Quan điểm này cho rằng quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nƣớc để đƣa các vụ việc vi phạm pháp luật ra cơ quan xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc.5 Những ngƣời theo quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nƣớc và đầu tiên đƣợc thể hiện trong lĩnh vực hình sự và sau đó đƣợc mở rộng sang lĩnh vực dân sự và các lĩnh vực tố tụng tƣ pháp khác. Quyền công tố là một nội dung của hoạt động thực hiện chức năng của Viện kiểm sát trong lĩnh vực tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tƣ pháp khác nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội bị xử lý theo pháp luật. Theo chúng tôi, quan điểm này đã quá mở rộng phạm vi của quyền công tố. Xuất phát từ bản chất của quyền công tố là quyền buộc tội của nhà nƣớc đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội, nên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Các lĩnh vực tố tụng khác, Viện kiểm sát chỉ tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia vào các hoạt động tố tụng đó. Trong một số trƣờng hợp, Viện kiểm sát thực hiện việc khởi tố vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính để đƣa hành vi vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử (theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trƣớc khi ban hành BLTTDS năm 2004) thì đây là hoạt động thực hiện quyền hạn theo luật định của Viện kiểm sát để bảo vệ lợi ích chung chức không phải là quyền công tố. - Quan điểm thứ tư: Quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với ngƣời phạm tội. Theo quan điểm này thì quyền công tố đƣợc thể hiện bằng các hoạt động của Điều tra viên, Kiểm sát viên và những ngƣời khác mà theo quy định của pháp luật họ có trách nhiệm trong việc xác định trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội. 6 Theo chúng tôi, quan điểm này không phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành đồng thời đã đồng nhất chức năng buộc tội, gỡ tội và chức năng xét xử. Theo quan điểm này thì không chỉ Cơ quan điều tra và cơ quan công tố mà cả Cơ quan xét xử và cơ quan thi hành án đều là chủ thể thực hiện quyền công tố. 5 Trƣờng Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Công tác kiểm sát phâng chung,1984, tr 69-72; Trƣờng Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Công tác kiểm sát tập 1. Nxb Công an nhân dân, 1996, tr 84-87. 6 Thuật ngữ pháp lý phổ thông tập 1. Nxb Pháp lý, 1986, tr94; Tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng hình sự. Nxb Chính trị quốc gia, 1995, tr 380); 15
  15. - Quan điểm thứ năm: Quan điểm này cho rằng quyền công tố bao gồm cả quyền khởi tố, điều tra vụ án, truy tố và buộc tội bị cáo trƣớc Tòa án. Quyền công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh nhà nƣớc, do vậy, quyền công tố chỉ đƣợc thực hiện duy nhất trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chủ thể tham gia vào hoạt động thực hành quyền công tố là Cơ quan điều tra (Điều tra viên) và Viện công tố (Công tố viên). Hoạt động truy tố ngƣời phạm tội, hành vi phạm tội ra trƣớc Tòa án để xét xử chỉ do Viện công tố thực hiện. Quyền công tố đƣợc sử dụng để bảo vệ cả lợi ích công và lợi ích của cá nhân, tổ chức bị hành vi phạm tội xâm hại. - Quan điểm thứ sáu: Quan điểm này cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nƣớc đƣa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để xét xử. Những ngƣời theo quan điểm này kết luận: Quyền công tố là quyền nhân danh nhà nƣớc truy cứu trách nhiệm pháp lý đến cùng đối với ngƣời có hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật, mọi hoạt động xâm hại đến lợi ích chung, nhằm mục đích duy trì trật tự của cộng đồng, trật tự pháp luật mà nhà nƣớc đặt ra để duy trì, củng cố và phát triển các quan hệ xã hội. Quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực hình sự mà còn có trong các lĩnh vực khác nhƣ dân sự, hành chính, kinh tế, lao động. 7 Quan điểm này coi mọi việc đƣa ra Tòa án để giải quyết đều do vi phạm pháp luật. Theo chúng tôi thì quan điểm nhƣ vậy là không đủ cơ sở, bởi lẽ trong thực tiễn tố tụng thì ngoài lĩnh vực tố tụng hình sự, ngƣời thực hiện hành vi phạm tội ngoài khách thể trực tiếp (quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại) thì đều xâm hại đến trật tự xã hội chung. Còn trong các lĩnh vực tố tụng khác, hoạt động xét xử của Tòa án đều nhằm bảo vệ, xác định quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tranh chấp mà các quan hệ pháp lý trong các vụ việc tranh chấp không phải lúc nào cũng phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật. - Quan điểm thứ bẩy: Quan điểm này cho rằng quyền công tố là quyền đƣợc hành xử nhân danh xã hội, vì lợi ích chung cho xã hội, với mục đích là Tòa án tuyên một hình phạt đối với ngƣời phạm pháp 8. Những ngƣời theo quan điểm này cho rằng, hành vi đƣa các phạm nhân ra Tòa án để xét xử là truy tố. Quyền truy tố ấy là công tố quyền, vì là quyền của cộng đồng xã hội trừng trị ngƣời phạm tội qua các đại diện của xã hội. Các Thẩm phán đƣợc giao nhiệm vụ thực hành công tố quyền là 7 Đỗ Văn Đƣơng – Khái niệm, đối tƣợng, phạm vi, nội dung quyền công tố. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, 1999, tr 138-140; Trƣờng Cao đẳng kiểm sát Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Một số vấn đề góp phần nâng cao chất lƣợng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp, 1997, tr6-17. 8 Lê Tài Triển, Nhiệm vụ của Công tố viện, Sài Gòn 1970, tr6; 16
  16. các Thẩm phán công tố 9. Và về bản chất, quyền công tố thuộc về xã hội và chỉ có xã hội mới có quyền trừng phạt, do đó, phạm vi quyền công tố chỉ giới hạn trong tố tụng hình sự và trƣớc Tòa án. Trên đây là một số quan điểm về quyền công tố. Chúng tôi đồng nhất với cách phân tích, lập luận thể hiện quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có thể đƣợc xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật tố tụng hình sự, nó luôn gắn liền với việc nhân danh nhà nƣớc (nhân danh công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm). Bản chất của hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để phát hiện và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Trong hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản đó là chức năng buộc tội; chức năng gỡ tôi; chức năng xét xử. Buộc tội là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đƣa ra lời cáo buộc cụ thể đối với cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ đƣa ra những tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự buộc tội đó. Với những lập luận cụ thể, chúng tôi đƣa ra khái niệm quyền công tố nhƣ sau:10 Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa. 1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố: - Đối tƣợng của quyền công tố là cái mà quyền công tố tác động vào nhằm đạt đƣợc mục đích cụ thể nào đó. Hiện nay, do xuất phát từ những quan điểm khác nhau về quyền công tố nên đối tƣợng của quyền công tố cũng có những quan điểm khác nhau tƣơng ứng. Về vấn đề này, xuất phát tƣ khái niệm về quyền công tố thì chúng tôi cho rằng đối tƣợng của quyền công tố chỉ là tội phạm và ngƣời phạm tội. - Nội dung của quyền công tố: Cũng nhƣ khái niệm, đối tƣợng của quyền công tố, nội dung của quyền công tố cũng có những quan điểm khác nhau mà xuất 9 Hoàng Tuấn Lộc, Hình sự tố tụng chú giải. Quyển 1. Sài Gòn, 1973. 10 Lê Hữu Thể, Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp trong giai đoạn điều tra. Nxb Tƣ pháp, 2008, tr35-42. 17
  17. phát điểm là từ những quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố. Trên cơ sở quan điểm mà chúng tôi đã trình bày về khái niệm, đối tƣợng quyền công tố thì theo chúng tôi, nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội. - Phạm vi quyền công tố: Phạm vi quyền công tố đến nay vẫn có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể: Quan điểm thứ nhất: Quan điểm này cho rằng, quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động; 11 Quan điểm thứ hai: Quan điểm này cho rằng, quyền công tố chỉ trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chúng tôi đồng nhất với quan điểm này vì xuất phát từ quan điểm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nƣớc thực hiện việc buộc tội đối với ngƣời phạm tội. Tuy nhiên, trong về phạm vi quyền công tố trong tố tụng hình sự cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng phạm vi quyền công tố đƣợc bắt đầu từ sau khi kết thúc việc điều tra, vụ án hình sự đƣợc chuyển sang Viện kiểm sát để truy tố ngƣời phạm tội ra Tòa án và chấm dứt sau khi Tòa án xét xử xong và tuyên bản án có hiệu lực pháp luật. Phạm vi quyền công tố chỉ bao gồm hai giai đoạn trong tố tụng hình sƣ: Truy tố bị can ra Tòa và buộc tội bị cáo tại Tòa 12. Quan điểm khác cho rằng, phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi ngƣời phạm tội chấp hành xong bản án. Quan điểm này lại quá mở rộng phạm vi quyền công tố, bởi lẽ: Công tố là hoạt động buộc tội nên nó phải đƣợc bắt đầu khi có tội phạm xảy ra trong thực tế khách quan và đƣợc bắt đầu bằng các hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ để phát hiện tội phạm và ngƣời phạm tội. Hoạt động buộc tội đƣợc thực hiện theo các thủ tục chặt chẽ và nó kết thúc khi ngƣời thực hiện hành vi phạm tội bị coi là có tội, tức khi đã có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật kết tội đối với bị cáo và không bị kháng nghị. Các hoạt động thực thi bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án là việc nhà nƣớc thi hành hình phạt đã áp dụng đối với một ngƣời bị coi là có tội – đã buộc tội xong, nên trong giai đoạn thi hành án không có quyền công tố. 11 Phạm Hồng Hải, Bàn về quyền công tố. Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, 1999, tr 89; - Trƣờng Cao đẳng kiểm sát Hà Nội. Giáo trình Công tác kiểm sát Tập 1 Sdd, tr84-91. 12 Võ Thọ, Một số vấn đề về luật TTHS, NXB Pháp lý, 1985, tr 86-88; Thạch Giản, Tìm hiểu bộ máy nhà nƣớc, NXB. Pháp lý, 1982, tr22. 18
  18. Theo quan điểm của chúng tôi thì phạm vi của quyền công tố được bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. 1.1.2. Khái niệm, đối tƣợng và phạm vi thực hành quyền công tố 1.1.2.1. Khái niệm Để thực hiện quyền công tố, Nhà nƣớc phải ban hành các quy định pháp luật cụ thể trong suốt quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự thể hiện nội dung của quyền công tố và quy định trách nhiệm cụ thể cho cơ quan đƣợc nhà nƣớc giao quyền công tố, các cơ quan thực hiện các nhiệm vụ trong sự phối hợp với cơ quan công tố trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Cơ quan đƣợc giao thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố là cơ quan thực hành quyền công tố. Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của pháp luật từ năm 1960 đến nay thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan đƣợc giao chức năng thực hành quyền công tố. Để thực hiện chức năng này, pháp luật cũng quy đinh những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát khi thực hiện quyền công tố trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Theo quy định tại Điều 13 BLTTHS năm 2003 thì Viện kiểm sát đƣợc áp dụng các biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và xử lý ngƣời phạm tội. Trong thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và theo các quy định của pháp luật thì Cơ quan điều tra và Tòa án các cấp cũng thực hiện hoạt động khởi tố vụ án hình sự nhƣng các cơ quan này không phải đang thực hiện các nội dung pháp lý thuộc quyền công tố hay không. Hoạt động của Cơ quan điều tra trong việc khởi tố, điều tra thực chất là hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho quyền công tố. Trên cơ sở kết quả điều tra, Viện kiểm sát tiến hành truy tố ra Tòa án để xét xử. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát thực hiện các hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Trên cơ sở lời luận tội của Kiểm sát viên và kết quả tranh luận dân chủ tại phiên tòa, Tòa án ra bản án, quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo. Từ sự phân tích trên chúng tôi cho rằng, thực hành quyền công tố là hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố của cơ quan được giao thực hiện quyền công tố thông qua các hành vi tố tụng theo quy định của BLTTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. 1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố 19
  19. - Đối tƣợng của hoạt động thực hành quyền công tố là cái mà các hoạt động thực hành quyền công tố tác động vào. Trên cơ sở xác định đối tƣợng của quyền công tố là tội phạm và ngƣời phạm tội thì có thể xác định đối tƣợng của hoạt động thực hành quyền công tố cũng là tội phạm và ngƣời phạm tội. - Phạm vi thực hành quyền công tố và phạm vi quyền công tố có những khác nhau cơ bản. Trên cơ sở quan điểm phạm vi quyền công tố đƣợc bắt đầu từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi có bán án của Tòa án có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị. Nhƣ vậy, quyền công tố luôn đƣợc phát sinh khi có tội phạm xảy ra, cho dù tội phạm đó có đƣợc phát hiện hay chƣa bị phát hiện để tiến hành khởi tố điều tra. Về mặt lý thuyết, khi nào có tội phạm trong thực tế xảy ra thì quyền công tố phát sinh. Còn thời điểm kết thúc của quyền công tố cần phải hiểu là không phải trong trƣờng hợp nào cúng phải đợi đến khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không bị kháng nghị. Trong nhiều trƣờng hợp việc kết thúc quyền công tố có thể kết thúc sớm hơn, nhƣ trong trƣờng hợp ngƣời phạm tội đƣợc miễn trách nhiệm hình sự. Đối với phạm vi thực hành quyền công tố thì thời điểm phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố phải là thời điểm đƣợc sử dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã đƣợc phát hiện (xác định có dấu hiệu của tội phạm) và có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động thực hành quyền công tố có sự trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền công tố, đó là khi vụ án hình sự bị đình chỉ hoặc khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không bị khác nghị. 1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự 1.1.3.1. Khái quát các quy định của pháp luật Việt Nam về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là một trong những hoạt động thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Nghiên cứu những quy định của pháp luật nƣớc ta từ những năm 1950 đến nay, chức năng này của Viện kiểm sát nhân dân có những thay đổi về phạm vi, đối tƣợng và nội dung hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Căn cứ quy định của pháp luật quy định về vị trí, chức năng của cơ quan công tố sau cải cách tƣ pháp lần thứ nhất (năm 1950) đến trƣớc khi thành lập Viện công tố độc lập (năm 1958) cho thấy, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký 20
  20. Sắc lệnh số 85-SL về cải cách tƣ pháp luật tố tụng; Sắc lệnh số 103-SL ngày 05/6/1950 quy định mối liên hệ giữa Ủy ban kháng chiến hành chính với các cơ quan chuyên môn. Trong giai đoạn này, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự đã đƣợc thể hiện trong Sắc lệnh số 150-SL ngày 07/11/1950 quy định: về lĩnh vực giam giữ thì Ban giám thị đặt dƣới quyền kiểm soát của Công tố ủy viên tỉnh hoặc liên khu. Ban giám thị phải báo cáo lên Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh hoặc liên khu, đồng thời báo cáo lên Công tố ủy viên cấp tƣơng đƣơng, Công tố ủy viên có quyền gia hạn giam cứu và ra lệnh tha. Trong công tác kiểm sát thi hành án, Biện lý có thẩm quyền giám sát Thẩm phán Tòa án huyện thi hành các bản án hình sự, dân sự đã có hiệu lực pháp luật… Thể chế hóa Nghị quyết của Quốc hội nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa 8, tại phiên họp ngày 29/4/1958 thông qua Đề án tăng cƣờng bộ máy Chính phủ và bộ máy nhà nƣớc, trong đó có nội dung thành lập Viện công tố và Hệ thống công tố tách khỏi Bộ Tƣ pháp, đặt Viện công tố Trung ƣơng trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Ngày 01/7/1959, Thủ tƣớng Chính phủ ban hành Nghị định 256-TTg tổ chức và nhiệm vụ của Viện công tố, theo đó, nhiệm vụ của Viện công tố là: “Giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Để thực hiện nhiệm vụ chung này, Viện công tố có những nhiệm vụ cụ thể: Điều tra, truy tố trƣớc Tòa án những kẻ phạm pháp về hình sự; Giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử của Tòa án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án về hình sự, dân sự và trong hoạt động của cơ quan giam giữ và cải tạo; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng có liên quan đến lợi ích của nhà nƣớc và nhân dân. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 đƣợc ban hành. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nƣớc ở địa phƣơng, các nhân viên cơ quan nhà nƣớc và công dân. Với chức năng nhƣ vậy, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan Nhà nước địa phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà nước và của công dân; Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trƣớc Toà án nhân 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2