Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam
lượt xem 14
download
Mục đích của luận văn góp phần hoàn thiện thêm một số điểm về mặt lý luận khoa học và thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đồng thời xác định những điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét xử và đề xuất một số kiến giải lập pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt dưới góc độ thực tiễn của hoạt động xét xử và nhận thức khoa học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 9 TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, các căn cứ quyết định hình phạt và ý nghĩa của 9 việc quyết định hình phạt 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt 9 1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt 13 1.1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự 14 1.1.2.2. Quyết định hình phạt phải căn cứ vào tính chất và mức độ 15 nguy hiểm của hành vi phạm tội 1.1.2.3. Căn cứ vào nhân thân người phạm tội 16 1.1.2.4. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng trách 19 nhiệm hình sự 1.1.3. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt 23 1.2. Khái niệm, các căn cứ và ý nghĩa của việc quyết định hình 25 phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị 25 phạm tội, phạm tội chưa đạt
- 1.2.2. Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt trong trường hợp 30 chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1.2.3. Các đặc điểm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn 32 bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 1.3. Khái quát sự hình thành và phát triển của các quy phạm về 37 quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước 37 khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 42 đến nay Chương 2: CÁC QUY PHẠM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 44 TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp 44 chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam năm 1999 2.1.1. Các quy phạm quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn 44 bị phạm tội 2.1.2. Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp 54 phạm tội chưa đạt 2.1.3. Văn bản hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân 67 dân tối cao về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt 68 Nam trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 2.2.1. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của bộ luật hình sự Việt 68 Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
- 2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt 71 Nam trong trường hợp phạm tội chưa đạt Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY PHẠM CỦA BỘ LUẬT 83 HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT 3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm pháp luật 83 hình sự về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.1.1. Về phương diện lập pháp 83 3.1.2. Về phương diện thực tiễn 88 3.1.3. Về phuơng diện lý luận 95 3.2. Giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung các quy phạm của luật 97 hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.2.1. Nhận xét các quy phạm của Bộ luật hình sự Việt Nam về 97 quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật hình sự 100 về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt 3.2.3. Mô hình lý luận và các kiến giải lập pháp về quyết định 104 hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
- Danh môc c¸c tõ viÕt t¾t BLHS : Bộ luật hình sự QĐHP : Quyết định hình phạt TNHS : Trách nhiệm hình sự
- Danh môc c¸c b¶ng Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Thống kê các loại tội phạm theo BLHS Việt Nam năm 1999 48
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong những năm gần đây thấy rằng tình hình tội phạm diễn biến hết sức phức tạp, tinh vi, với nhiều khâu, nhiều thủ đoạn và nhiều giai đoạn khác nhau. Luật hình sự đi vào đời sống xã hội có vai trò ý nghĩa quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là việc quyết định hình phạt (QĐHP) của Tòa án đối với các trường hợp phạm tội nói chung, trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt nói riêng có ý nghĩa chính trị xã hội và pháp lý. Bởi lẽ, hoạt động thường xuyên của Tòa án là việc QĐHP, do vậy, việc đưa ra các bản án chính xác, công bằng và đúng pháp luật không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật mà còn có tác dụng cho người dân tin tưởng vào chính sách pháp luật của Nhà nước. Thực tiễn xét xử trong các năm gần đây có nhiều bản án, QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn có những điểm chưa thống nhất, gây nên nhiều bức xúc trong dư luận xã hội và quần chúng nhân dân. Hiện nay, các quy định của pháp luật hình sự của Nhà nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện, trong chừng mực nhất định quy định đó còn chưa rõ ràng, việc QĐHP cho các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt còn mang tính khái quát cao, chưa chặt chẽ. Chính vì những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ, gây khó khăn trong việc QĐHP nói chung và QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt của Tòa án các cấp nói riêng. Do đó, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý, không làm oan cho người vô tội, bởi lẽ mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, 1
- trong diễn biến quá trình thực hiện tội phạm, việc xác định những hành vi nào đã đến mức gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hiểm cho xã hội là tội phạm, QĐHP đối với những người thực hiện hành vi nói trên giúp cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, làm được điều này không phải bao giờ cũng đơn giản, dễ dàng. Mặt khác, để QĐHP được chính xác và công bằng thường gặp một số khó khăn nhất định hay còn có nhiều sai sót, đặc biệt khi đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và thời điểm dừng lại của hành vi phạm tội trong thực tế khách quan với ý nghĩ, mong muốn chủ quan của người phạm tội. Trong bối cảnh hiện nay, tình trạng phạm tội đang diễn biến hết sức phức tạp chính vì lẽ đó mà QĐHP cho những hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, không thể không coi trọng. Mặc dù, tội phạm trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt luôn chiếm tỷ lệ không lớn so với các tội phạm hoàn thành, tính chất và mức độ cũng không nguy hiểm bằng, song không vì thế mà pháp luật của Nhà nước ta không quan tâm chú trọng. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, để đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao, bên cạnh việc cụ thể hóa các căn cứ QĐHP nói chung, việc nghiên cứu và làm rõ cơ sở pháp lý các quy định QĐHP trong trường hợp đặc biệt phần nào giải quyết vấn đề đặt ra nêu trên. Mặt khác, hiện nay trong khoa học luật hình sự Việt Nam, chưa có đề tài nghiên cứu về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống và toàn diện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi về QĐHP nói chung. Vì vậy, việc tiếp cận và nghiên cứu đề tài QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, những vấn đề lý luận và việc áp dụng nó trong thực tiễn, trên cơ sở đó đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện 2
- phục vụ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, ngăn chặn, hạn chế tới mức thấp nhất hậu quả của tội phạm gây ra, điều đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng. Đây là lý do chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trước và sau khi pháp điển hóa lần thứ hai Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999, các nhà khoa học luật hình sự đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu về QĐHP nói chung, nhưng QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, có rất ít công trình nghiên cứu về vấn đề này, hoặc có chăng vấn đề này chỉ được nghiên cứu với tính chất là một mảng nhỏ trong QĐHP nói chung, hay trong các sách chuyên khảo, giáo trình và các bài viết. - Sách chuyên khảo: + Chế định các giai đoạn thực hiện tội phạm trong sách Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, tập IV, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2000, của tác giả TSKH. GS. Lê Văn Cảm. + Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), sách chuyên khảo, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005, của GS.TSKH. Lê Văn Cảm. - Sách giáo trình: Các giai đoạn phạm tội, (chương XII, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, của TS. Nguyễn Ngọc Chí, 2001 (tái bản 2003, 2007). - Các bài viết: + Trần Văn Độ, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về giai đoạn thực hiện tội phạm, Tạp chí Toà án nhân dân, số 02/1999. 3
- + GS.TS. Võ Khánh Vinh: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1992. + Lâm Minh Hạnh, Chương III - Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1986 + TS. Phạm Mạnh Hùng: Hoàn thiện các quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự với trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm, Tạp chí Kiểm sát, số 10/1999. + TS. Trịnh Quốc Toản: Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế - Luật), số 4/2002. + TS. Trịnh Tiến Việt: Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm, Tạp chí Khoa học (chuyên san Luật học), số 02/2009. + TS. Dương Tuyết Miên: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, Tạp chí Luật học, số 4/2001, và "Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam", Luận án Tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2002. + Tác giả Trần Văn Sơn trong: Quyết định hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11/2000. + Nguyễn Thị Mai, Chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt, Tạp chí Toà án nhân dân, số 6/1993, v.v... Ngoài ra, dưới góc độ luận văn thạc sĩ cũng chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về vấn đề này. Như vậy, nhìn một cách tổng quát, các sách báo khoa học pháp lý trên đây đều đề cập đến một số khía cạnh nhất định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, nhưng chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ 4
- là một trường hợp nhỏ trong QĐHP nói chung. Có thể nói, đến nay chưa có một công trình, hay tài liệu nghiên cứu toàn diện về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Với nội dung đề tài này, tác giả lựa chọn nghiên cứu làm luận văn của mình, sẽ góp phần làm rõ hơn nữa về việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Trong giai đoạn hoàn thiện pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vấn đề QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt càng có vai trò quan trọng bảo vệ công bằng xã hội, đảm bảo được các nguyên tắc pháp luật hình sự như: (1) Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật; (2) Nguyên tắc công minh; (3) Nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm; (4) Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi… Do vậy, QĐHP đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan, sai người vô tội, tuân thủ nguyên tắc mọi hành vi vi phạm pháp luật hình sự đều phải chịu trách nhiệm hình sự (TNHS). Vì lẽ đó, vấn đề này cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn làm cơ sở cho việc hoàn thiện cho các quy định về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Ngoài ra còn đáp ứng yêu cầu trong hoạt động cải cách tư pháp của nước ta trong việc QĐHP có căn cứ và đúng pháp luật, để mọi hành vi vi phạm pháp luật hình đều phải chịu TNHS, theo phán quyết của Tòa án. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn góp phần hoàn thiện thêm một số điểm về mặt lý luận khoa học và thực tiễn của việc QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam năm 1999. Đồng thời xác định những điểm bất cập chưa hợp lý trong thực tiễn xét xử và đề xuất một số kiến giải lập pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt dưới góc độ thực tiễn của hoạt động xét xử và nhận thức khoa học. 5
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu như sau: Thứ nhất: Về mặt lý luận trên cơ sở nghiên cứu những quy định chung về QĐHP trong luật hình sự Việt Nam, khái quát sự hình thành và phát triển của pháp luật hình sự nước ta từ trước khi pháp điển hóa BLHS Việt Nam năm 1985 và BLHS Việt Nam năm 1999 về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. Phân tích nội dung cơ bản, sự thể hiện thực tiễn áp dụng của chế định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thông qua phân tích một số vụ án cụ thể. Thứ hai: Nghiên cứu đánh giá, phân tích những điểm tồn tại của chế định QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đề xuất kiến giải hoàn thiện để nâng cao hiệu qủa áp dụng các quy phạm về chế định này trong luật hình sự Việt Nam, phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp từ nay cho đến năm 2020. Nội dung nghiên cứu của luận văn cũng nằm trong một mắt xích quan trọng, đó là xem xét hoạt động xét xử của Tòa án đối với việc QĐHP cho người phạm tội trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành, đồng thời luận văn cũng nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về QĐHP của Tòa án bằng việc phân tích một số vụ án cụ thể. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để tiếp cận vấn đề nghiên cứu đề tài luận văn tác giả dựa trên cơ phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, 6
- tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Luận văn cũng vận dụng những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số các nhà khoa học hình sự Việt Nam trong và ngoài nước. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng một số phương pháp có độ tin cậy cao để làm sáng tỏ về mặt khoa học cho từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: Lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh và phương pháp phân tích, tổng hợp… Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn tác giả còn vận dụng các vụ án hình sự và các thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự làm phương pháp nghiên cứu của luận văn. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Việc nghiên cứu đề tài luận văn là kết quả nghiên cứu một cách đồng bộ có hệ thống và riêng biệt toàn diện nhất về những vấn đề lý luận và thực tiễn về QĐHP trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Qua đó, bổ sung thêm vào kho tàng lý luận của luật hình sự Việt Nam về vấn đề này. Luận văn góp phần hoàn thiện hơn các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chế định này, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong thực tiễn xét xử của Tòa án về QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt mà tác giả lựa chọn đề tài luận văn nghiên cứu dưới đây. Về thực tiễn, luận văn tiếp cận nghiên cứu các bản án của Toà án đã xét xử để rút ra ý nghĩa thực tiễn. Qua đó, xác định đúng và chính xác việc QĐHP trong các trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, đồng thời bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt người 7
- phạm tội, không làm oan người vô tội. Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, cán bộ giảng dạy của cơ sở đào tạo luật ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Hoàn thiện các quy phạm về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo theo luật hình sự Việt Nam. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG TRƯỜNG HỢP CHUẨN BỊ PHẠM TỘI, PHẠM TỘI CHƯA ĐẠT THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt Khái niệm QĐHP được coi là một trong các khái niệm cơ bản và quan trọng của luật hình sự Việt Nam, đây là một trong những khái niệm thể hiện tập trung nhất bản chất giai cấp và chính sách hình sự của Nhà nước ta. Luật hình sự xác định hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, qua đó đưa ra các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, QĐHP là cầu nối, là một mắt xích quan trọng giữa tội phạm và hình phạt. QĐHP là giai đoạn quan trọng trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án. Khi chưa có BLHS năm 1985, khái niệm QĐHP chỉ mang ý nghĩa lượng hình, sau khi có BLHS này ra đời, mới xuất hiện tên gọi quyết định hình phạt như hiện nay. Mặc dù, là khái niệm quan trọng nhưng cho tới nay, pháp luật hình sự Việt Nam vẫn chưa có một văn bản chính thức để định nghĩa cụ thể về khái niệm QĐHP. Khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới góc độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Trong khoa học luật hình sự đã có nhiều nhà nghiên cứu về luật hình sự đưa ra các khái niệm khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như: TS. Nguyễn Ngọc Chí đưa ra định nghĩa về QĐHP: 9
- Là việc nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) mức hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự [12]. ThS. Đinh Văn Quế đưa ra định nghĩa còn mang tính khái quát như: "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu phải tuân thủ theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 88]. Dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, TS. Chu Thị Trang Vân thì cho rằng: Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [46, tr. 73]. Theo TS. Nguyễn Văn Hiện đưa ra định nghĩa pháp lý, nhưng khái niệm QĐHP này còn thiếu chủ thể áp dụng là Tòa án như: "kết quả pháp lý của quá trình điều tra, truy tố, xét xử, là kết quả mang tính Nhà nước về áp dụng loại và hình phạt đối với người phạm tội" [16, tr. 1]; v.v... Tóm lại, phần lớn các tác giả đều có chung quan điểm về QĐHP như sau: QĐHP là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng cho người phạm tội. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm khoa học về QĐHP được hiểu theo hai nghĩa là nghĩa rộng và nghĩa hẹp như sau: 10
- Thứ nhất: Nghĩa hẹp của QĐHP là việc Tòa án ra QĐHP với hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Thứ hai: Nghĩa rộng của QĐHP là bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung, quyết định các biện pháp chấp hành hình phạt, miễn TNHS, miễn hình phạt hoặc là quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp khác nhằm mục đích thay thế hoặc bổ sung cho hình phạt. Ví dụ: Quyết định buộc trả lại tài sản cho người bị hại, bắt xin lỗi công khai… Với những nội dung nêu trên thì QĐHP chỉ có thể đặt ra với những trường hợp người phạm tội phải chịu TNHS và bị áp dụng hình phạt. Trong hình phạt chính thì đa số hình phạt quy định cho các tội phạm là chế tài lựa chọn. Trong khung hình phạt quy định nhiều các loại hình phạt khác nhau thì QĐHP là sự lựa chọn một hình phạt cụ thể trong phạm vi pháp luật cho phép để áp dụng pháp luật hình sự với người phạm tội. Ví dụ: Trường hợp Tòa án QĐHP là tù chung thân hay tử hình thì việc QĐHP thực chất là việc chọn hình phạt chứ không phải lựa chọn mức hình phạt cụ thể theo khung hình phạt. Khi áp dụng QĐHP với hình phạt bổ sung là việc lựa chọn một hay nhiều hình phạt bổ sung mà pháp luật cho phép bổ sung cho hình phạt chính. Mặc dù vậy, thì hình phạt chính vẫn là một nội dung quan trọng trong QĐHP mà Tòa án tuyên. Từ các định nghĩa khoa học pháp lý nêu trên, theo quan điểm của chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự thì khái niệm này được hiểu là: Quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội. Có thể nói, QĐHP là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thực định, là một quá trình nhận thức lý luận mang tính logic để Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt áp dụng với người có hành vi phạm tội theo quy 11
- định của BLHS Việt Nam (bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm). Đề cập tới khái niệm QĐHP chúng ta cần làm rõ những giai đoạn như: Định tội danh, xác định khung hình phạt, và QĐHP. Hiện nay, có các xu hướng cho rằng: Thứ nhất: Xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn định tội danh; vì khung hình phạt là một trong những bộ phận của việc định tội, cho nên không thuộc về giai đoạn QĐHP. Thứ hai: Xác định khung hình phạt thuộc về giai đoạn QĐHP vì những lý do sau: Định tội danh xong sẽ QĐHP trên cơ sở giới hạn pháp luật hình sự cho phép. Theo chúng tôi, để đi tới QĐHP phải trải qua giai đoạn định tội danh chính xác, dựa vào những căn cứ pháp lý của pháp luật hình sự, khoa học chính xác thì mới đi đến kết quả cuối cùng là QĐHP. Như vậy, QĐHP chỉ diễn ra sau khi Tòa án đã tiến hành hoạt động định tội danh, và người phạm tội được khẳng định là có tội. Người phạm tội bị kết án bằng bản án của Tòa án và phải chịu TNHS về hành vi phạm tội của mình bằng hình phạt cụ thể. Để đi tới QĐHP cuối cùng phải định khung hình phạt và quyết định mức hình phạt cụ thể đối với người phạm tội. QĐHP bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, có những trường hợp người phạm tội bị kết án và chịu TNHS nhưng được miễn hình phạt. Từ những phân tích khái niệm về QĐHP, cần so sánh mối quan hệ giữa hình phạt và QĐHP chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau, Điều 26 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về hình phạt như sau: "Hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội" [30]. Người phạm tội chỉ được áp dụng biện pháp trừng trị nghiêm khắc bằng các hình phạt chính và hình phạt bổ sung khi có QĐHP của cơ quan tư pháp là Tòa án. 12
- Vì vậy, QĐHP là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự mà cơ quan làm nhiệm vụ ra quyết định không thể là cơ quan nào là Tòa án nhân dân. Hoạt động áp dụng pháp luật này, là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự bao gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm. Đây là việc lựa chọn các mức hình phạt cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội để đưa ra quyết định cuối cùng nhân danh Nhà nước áp dụng mức hình phạt và loại hình phạt cho người phạm tội. Do đó, để có một QĐHP chính xác đòi hỏi sự tư duy lôgic cao độ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể đối với tội phạm. 1.1.2. Các căn cứ quyết định hình phạt Trước khi BLHS năm 1999 được ban hành chính thức thì thuật ngữ "căn cứ quyết định hình phạt" không được dùng trong các văn bản pháp luật hình sự. Thuật ngữ này chỉ được dùng trong các bài báo, công trình nghiên cứu của các nhà luật gia, nhà khoa học, báo cáo tổng kết, sơ kết của Tòa án nhân dân tối cao hay trong nhiều giáo trình, sách tham khảo của các trường Cao đẳng, Đại học... BLHS Việt Nam năm 1985 đã sử dụng thuật ngữ "nguyên tắc quyết định hình phạt" tại Điều 37 BLHS năm 1985, bao hàm nội dung chính yếu của nó chính là "căn cứ quyết định hình phạt". Nghiên cứu tính thống nhất của hai thuật ngữ này chúng tôi nhận thấy không có sự đồng nhất với nhau, không nên hiểu hai thuật ngữ này là một. Vì vậy, BLHS Việt Nam năm 1999 đã tách hai thuật ngữ này và được đưa ra tại Điều 45 BLHS Việt Nam năm 1999. Đến nay, khoa học luật hình sự vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về căn cứ QĐHP. Hiện có các xu hướng đưa ra khái niệm về căn cứ QĐHP như sau: Căn cứ QĐHP "là những yêu cầu cơ bản (là chỗ dựa) buộc Tòa án phải tuân theo QĐHP đối với người phạm tội" [27]. 13
- Điều 45 BLHS Việt Nam năm 1999 đã quy định cụ thể là cơ sở pháp lý cơ bản nhất để QĐHP đó là: Khi QĐHP Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS thực định, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS. Khi QĐHP không tuân thủ các căn cứ (quy tắc) nêu trên dẫn tới QĐHP thiếu công bằng, không chính xác, làm oan, sai cho người vô tội vì xác định hành vi thực hiện tội phạm không có căn cứ. Theo TS. Dương Tuyết Miên thì căn cứ QĐHP bao gồm những nội dung cơ bản như sau: Căn cứ QĐHP "là cơ sở pháp lý được quy định trong luật hình sự mà Tòa án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt cho người phạm tội" [25, tr. 55]. Theo cách hiểu này là có cơ sở và đúng với tinh thần của quy định pháp luật hình sự hiện hành. Từ những luận điểm nêu trên, có thể đưa ra các một vài đặc điểm của căn cứ QĐHP như sau: Thứ nhất: Căn cứ QĐHP là cơ sở pháp lý cơ bản đặc trưng nhất đó là các quy định trong BLHS (gồm cả Phần chung và Phần các tội phạm). Thứ hai: Căn cứ QĐHP phải tuân thủ nghiêm chỉnh trong quá trình hoạt động xét xử là: Lựa chọn và quyết định loại và mức hình phạt phù hợp với hành vi tính chất hành vi hiểm mà tội phạm tội phạm thực hiện. Căn cứ QĐHP trong BLHS Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, là nền tảng cơ bản khi Tòa án tiến hành hoạt động QĐHP. Vì: 1) là cơ sở pháp lý để Tòa án QĐHP tương xứng với hành vi phạm tội, hành vi nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó. 2) Tránh việc Tòa án không có căn cứ, thiếu thống nhất và mâu thuẫn trong khi QĐHP. 3) Bảo đảm bản án của Tòa án có tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý. Những căn cứ QĐHP bao gồm các nội dung sau đây. 1.1.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự Khi QĐHP căn cứ đầu tiên có ý nghĩa quan trọng là các quy định của BLHS Việt Nam năm 1999. Quan điểm của chúng tôi cũng đồng nhất với 14
- quan điểm của nhiều các học giả về luật hình sự hiện nay đó là căn cứ vào cả Phần chung và Phần các tội phạm. Phần chung là phần có tính nguyên tắc và Phần các tội phạm là dựa trên từng quy định của mỗi loại tội phạm và tội phạm cụ thể có liên quan tới bị cáo. QĐHP khi có đủ căn cứ xác định một người đã phạm một tội mà BLHS quy định, xâm phạm tới khách thể được Luật hình sự bảo vệ. Đối chiếu với Phần chung và Phần các tội phạm, tìm ra mối liên quan giữa các quy định của pháp luật hình sự với việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội của một bị cáo hay nhiều bị cáo. Có thể xem đây như là đặc điểm cơ bản của các nước theo luật thành văn. Căn cứ vào Phần chung của luật hình sự Tòa án khi QĐHP bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Áp dụng đúng khung hình phạt, loại hình phạt mà điều luật quy định, không được áp dụng cao hơn mức cao nhất của khung hình phạt. Căn cứ vào các quy định của BLHS là quan trọng nhất trong các căn cứ QĐHP. Căn cứ này thể hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền. Áp dụng sai điều luật sẽ làm thay đổi bản chất của hình phạt, mục đích, và dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. 1.1.2.2. Quyết định hình phạt phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội Thực tế cho thấy, nhiều loại tội phạm khác nhau, tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ TNHS cũng khác nhau, do đó khi QĐHP cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhưng đa phần đều có chung một đánh giá mang tính định lượng nhiều hơn định tính. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 349 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 97 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn