intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Tri Lý | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

106
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM, đối chiếu, so sánh với những quy định của pháp luật trƣớc đây nhằm làm rõ ưu điểm và đặc biệt là những bất cập, hạn chế của luật thực định trong lĩnh vực này,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ NGỌC MAI PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương Hà nội - 2013 1
  2. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH 6 BẢO ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm 6 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm 6 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa và giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch 13 bảo đảm 1.2. Quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt 19 động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 1.2.1. Chủ thể tham gia quan hệ đăng ký giao dịch bảo đảm 20 1.2.2. Đối tƣợng đăng ký giao dịch bảo đảm 24 1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đăng ký giao 24 dịch bảo đảm 1.2.4. Xác lập và chấm dứt quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch 26 bảo đảm Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH 29 PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 2.1. Đối tƣợng đăng ký giao dịch bảo đảm 29 2
  3. 2.2. Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 31 2.2.1. Thực trạng quy định của pháp luật 31 2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật trong tổ chức đăng ký của cơ 35 quan đăng ký giao dịch bảo đảm 2.3. Các trƣờng hợp yêu cầu đăng ký, thay đổi, xóa đăng ký giao 41 dịch bảo đảm 2.3.1. Các trƣờng hợp yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm 41 2.3.2. Các trƣờng hợp đăng ký thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm 48 đã đăng ký 2.3.3. Các trƣờng hợp xóa đăng ký giao dịch bảo đảm 50 2.4. Hồ sơ và thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm 52 2.4.1. Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm 52 2.4.2. Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm 54 2.5. Cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm 65 2.5.1. Pháp luật về cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm 65 2.5.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cung cấp và công bố thông tin 69 về giao dịch bảo đảm 2.6. Đăng ký giao dịch bảo đảm qua mạng điện tử 73 Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 80 VỀ PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 3.1. Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch 80 bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam 3.2. Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao 83 dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại 3
  4. 3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm 83 3.2.2. Hoàn thiện về mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống các 89 cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm 3.2.3. Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của 92 tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và các cơ quan có liên quan 3.2.4. Tập trung thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả 93 thực thi pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm 3.2.5. Hoàn thiện hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến 97 3.2.6. Các kiến nghị đối với ngân hàng thƣơng mại 97 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103 4
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự NHTM : Ngân hàng thƣơng mại 5
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tổng hợp kết quả đăng ký các giao dịch bảo đảm của ba 35 Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng) thuộc Bộ Tƣ pháp từ năm 2005- 2011 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Có thể nói vấn đề chủ yếu và quan trọng mà bên có quyền trong các quan hệ hợp đồng quan tâm chính là khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Do đó, các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ra đời trƣớc hết là nhằm hƣớng đến mục tiêu bảo vệ bên có quyền trong sự ổn định và hài hòa các quan hệ này. Đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng - ngân hàng, vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ có sự tác động trực tiếp, mạnh mẽ tới quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) - đối tƣợng cấp tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế nƣớc ta hiện nay. Thực tiễn cho thấy, một trong những yếu tố ảnh hƣởng đến quyết định cấp tín dụng của các tổ chức này chính là thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản đƣợc dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn. Bởi lẽ, việc nắm bắt các thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình phân tích, đánh giá mức độ rủi ro của giao dịch bảo đảm mà các NHTM dự định thiết lập với khách hàng, làm cơ sở cho việc đƣa ra các quyết định tài trợ vốn đúng đắn. Và điều này đƣợc xem nhƣ là nhu cầu mang tính tất yếu của các nhà đầu tƣ nói chung và các NHTM nói riêng trong môi trƣờng kinh doanh của nền tài chính hiện đại. Theo đó, thì một trong những công cụ hữu hiệu để xác định tình trạng pháp lý của tài sản đang đƣợc dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, phục vụ trực tiếp cho việc đánh giá mức độ rủi ro của quyết định tài trợ/cấp vốn của các ngân hàng là việc đăng ký giao dịch bảo đảm với ý nghĩa công khai hóa chủ thể quyền cũng nhƣ các quyền tồn tại từ trƣớc đối với tài sản bảo đảm của bên có nghĩa vụ trong các giao dịch tín dụng. Và cơ chế 7
  8. đăng ký này cũng đƣợc pháp luật nhiều nƣớc trên thế giới quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của bên có quyền trong quan hệ với bên có nghĩa vụ. Pháp luật Việt Nam đã bƣớc đầu thừa nhận, bảo đảm sự minh bạch về thông tin pháp lý của các chủ thể, tài sản trong các giao dịch dân sự, hợp đồng bằng việc ban hành Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Điều này tiếp tục đƣợc khẳng định trong các quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật Hàng Hải năm 2005, Luật Nhà ở năm 2006, các văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Bộ Tƣ pháp,… hƣớng dẫn hoạt động đăng ký đối với mỗi loại giao dịch, tài sản. Và trên cơ sở kế thừa, pháp điển hóa các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 09/09/2010 thay thế Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Có thể nói văn bản này là khung pháp lý quan trọng góp phần điều chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm cũng nhƣ đáp ứng yêu cầu công khai và minh bạch hóa thông tin, là cơ sở cho quyết định cấp tín dụng của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là: các thiết chế hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, hạn chế, một số nội dung về đăng ký chƣa đƣợc quy định cụ thể, rõ ràng và chƣa thực sự phù hợp với thực tiễn đăng ký của các bên tham gia giao dịch, đặc biệt là các NHTM và Bên bảo đảm, ví dụ nhƣ: hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn phân tán, một số quy định trùng lặp, mâu thuẫn, không phù hợp với yêu cầu thực tiễn; chƣa có cơ chế cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa các cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với một số cơ quan đăng ký sở hữu tài sản; mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống các cơ quan đăng ký với nhiều đầu mối thực hiện ít nhiều gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nƣớc và hoạt động đăng ký của Bên bảo đảm; thiếu các quy định về thủ tục đăng ký liên quan đến các giao dịch bằng quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hình 8
  9. thành trong tƣơng lai, về thời hạn đăng ký thế chấp,… Các hạn chế này đã ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể yêu cầu đăng ký nhất là các NHTM trong giao dịch tín dụng - cho vay đối với Bên bảo đảm. Để khắc phục tình trạng nêu trên và trƣớc xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, nền tài chính hiện đại đòi hỏi pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM cần phải đƣợc nghiên cứu, đánh giá tổng thể, từ đó chỉ ra những quy định còn hạn chế, vƣớng mắc và đề xuất, kiến nghị các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện những quy định này nhằm tối đa hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản, giúp các ngân hàng có đủ cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình đồng thời giúp cơ quan có thẩm quyền đăng ký thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nƣớc về các giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký. Có nhƣ vậy mới tạo đƣợc niềm tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Đây cũng là ý nghĩa và mục đích nghiên cứu của luận văn trong phạm vi đề tài này. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nƣớc ta, đến thời điểm hiện tại, đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về đăng ký giao dịch bảo đảm nhƣ: công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, với đề tài là: "Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tƣ pháp; luận văn thạc sĩ với đề tài: "Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm", của Hồ Quang Huy, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội... Những công trình khoa học này đều tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng của luật thực định về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Tuy nhiên, để đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, chi tiết các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, áp dụng các quy định này từ phía các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm, các NHTM trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay thì hiện chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu, đề cập tới. 3. Mục đích nghiên cứu của luận văn 9
  10. Việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay" nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây: Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM, đối chiếu, so sánh với những quy định của pháp luật trƣớc đây nhằm làm rõ ƣu điểm và đặc biệt là những bất cập, hạn chế của luật thực định trong lĩnh vực này. Ba là, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ các giải pháp tổng thể nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm đối với hoạt động cho vay của các NHTM hiện nay. 4. Phạm vi nghiên cứu Đăng ký giao dịch bảo đảm xuất hiện là một đòi hỏi tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trƣờng. Tuy nhiên hoạt động này mới chỉ nhận đƣợc sự quan tâm của một bộ phận trong xã hội, việc đăng ký chủ yếu do các NHTM thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình nhằm tránh các rủi ro trong quan hệ tín dụng. Do vậy, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm, thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp bƣớc đầu tháo gỡ những bất cập của chế định này, qua đó thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đăng ký trong thời gian tới đồng thời góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng của các ngân hàng trong thời gian tới. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 10
  11. Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu quy định của pháp luật có liên quan điều chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm để phân tích, xử lý dữ liệu, thông tin; các quan điểm, đƣờng lối, chính sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, các đạo luật có liên quan. 6. Những kết quả đạt đƣợc của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc, toàn diện về pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá các quy định của pháp luật thực định cũng nhƣ thực tiễn thi hành những quy định này từ phía cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm và các NHTM, từ đó đƣa ra hƣớng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam chính là những đóng góp có giá trị đối với công tác nghiên cứu khoa học, công tác lập pháp và hoạt động của các NHTM của luận văn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại. 11
  12. Chương 3: Định hƣớng hoàn thiện và một số kiến nghị về pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại. 12
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm 1.1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm  Khái niệm giao dịch bảo đảm - đối tượng của hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm "giao dịch bảo đảm" đƣợc chính thức ghi nhận và quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Theo đó, thì giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là "hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo đó Bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự". Trên cơ sở quy định tại nghị định này, thuật ngữ giao dịch bảo đảm đƣợc quy định và sử dụng rộng rãi tại các văn bản nhƣ: Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm,… Trong BLDS, khái niệm "giao dịch bảo đảm" đƣợc quy định nghĩa là "giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật này" [33, khoản 1 Điều 323], bao gồm các biện pháp: cầm cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ, tín chấp). Nhƣ vậy, giao dịch bảo đảm là các giao dịch đƣợc xác lập nhằm tạo ra những "phương thức bảo đảm" cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự (nhƣ hợp đồng tín dụng) và từ các căn cứ pháp lý khác nhƣ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại. 13
  14. Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu "giao dịch bảo đảm" là sự thỏa thuận giữa Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó Bên bảo đảm dùng tài sản của mình (tài sản bảo đảm) để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ. Trƣờng hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.  Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm Dƣới giác độ là biện pháp nhằm công khai và minh bạch hóa tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm và lợi ích của việc đăng ký đối với các chủ thể có liên quan, thì đăng ký đƣợc hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ghi nhận và chứng thực về mặt pháp lý quyền sở hữu và các giao dịch bảo đảm theo nghĩa rộng của từ này. Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2000 đến nay, chế định về đăng ký giao dịch bảo đảm đã từng bƣớc đƣợc xây dựng và phát triển trong hệ thống các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực này. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chƣa có khái niệm chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm. Song nhìn từ giác độ của pháp luật thực định, tại khoản 1, Điều 2 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP quy định: "Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc Bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với nhận bảo đảm" [20]. Hay nói cách khác, đăng ký giao dịch bảo đảm là việc một trong các bên tham gia quan hệ bảo đảm tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền, tránh việc chuyển dịch chủ sở hữu của tài sản trong thời gian đăng ký. Đối chiếu quy định nêu trên cho thấy, đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo đảm, theo đó một bên (gọi là Bên bảo đảm) 14
  15. cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về việc sẽ thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu đến hạn mà nghĩa vụ đó không đƣợc ngƣời có nghĩa vụ thực hiện theo (các) hợp đồng đƣợc bảo đảm đã giao kết giữa các bên. Xét theo khía cạnh học thuật cũng nhƣ quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành (Điều 410 BLDS, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm) về mối quan hệ hiệu lực của hai hợp đồng nêu trên, chúng ta thấy rằng: các hợp đồng này về bản chất là những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hƣởng và chi phối đến hiệu lực của nhau, cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng bảo đảm (thế chấp, bảo lãnh,…) là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đƣợc bảo đảm (hợp đồng tín dụng,…). "Và theo đó, nếu một trong hai hợp đồng này bị vô hiệu và/hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng còn lại" [1]. Điều này là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ nói chung và các NHTM nói riêng bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích của mình và tránh đƣợc những rủi ro, thiệt hại trong trƣờng hợp hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị vô hiệu. Thêm vào đó, nếu đặt trong mối tƣơng quan với quan hệ dân sự thông thƣờng, chúng ta thấy rằng: các giao dịch dân sự đƣợc thiết lập dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các chủ thể có đầy đủ điều kiện luật định khi tham gia quan hệ dân sự, và nếu sự thỏa thuận này là hợp pháp thì nó chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc các bên trong quan hệ đó, chứ không có hiệu lực pháp lý đối với bên thứ ba (ngƣời không phải là chủ thể tham gia quan hệ này). Các bên không thể viện dẫn việc xác lập giao dịch này để bảo vệ quyền của mình đối với một ngƣời thứ ba có liên quan nếu nhƣ có phát sinh tranh chấp.Vì thế, trên thực tế đã có một số trƣờng hợp, bên có nghĩa vụ dùng một tài sản đi cầm cố, thế chấp ở nhiều nơi khác nhau mà (các) bên nhận bảo đảm không thể biết đƣợc điều này. Do đó, khi xảy ra tranh chấp rất khó xử lý, vì không thể xác định đƣợc thứ tự ƣu tiên thanh toán cho các chủ thể khi bán tài sản bảo đảm. Còn quan hệ đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc phát sinh giữa một bên là những chủ thể tham gia quan hệ bảo đảm với một bên là cơ quan nhà nƣớc có 15
  16. thẩm quyền đăng ký giao dịch đó. Nội dung đăng ký chính là những điều khoản thỏa thuận của các bên trong giao dịch bảo đảm mà ngƣời yêu cầu đăng ký kê khai, thông báo cho cơ quan đăng ký với mục đích nhằm công khai hóa các giao dịch bảo đảm, từ đó xác lập giá trị pháp lý đối với ngƣời thứ ba về quyền ƣu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm với tài sản bảo đảm. Đồng thời tạo điều kiện để Nhà nƣớc quản lý hoạt động của các giao dịch bảo đảm, cung cấp thông tin cho các chủ thể có liên quan nhằm góp phần giảm bớt rủi ro, gian lận trong giao dịch kinh tế - dân sự đặc biệt là các giao dịch trên thị trƣờng tài chính, tín dụng - các giao dịch vay vốn mà NHTM là bên cho vay, qua đó làm cho môi trƣờng đầu tƣ trở nên hấp dẫn hơn. Nhƣ vậy, với những ƣu điểm nêu trên cho thấy, việc đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ mang lại nhiều quyền và lợi ích hợp pháp cho Bên nhận bảo đảm đặc biệt là các NHTM hơn so với giao dịch dân sự thông thƣờng không đƣợc đăng ký theo thủ tục này. 1.1.1.2. Các đặc điểm về đăng ký giao dịch bảo đảm Với mục đích làm minh bạch hóa thông tin về giao dịch bảo đảm, tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm có những đặc điểm pháp lý nhƣ sau: Thứ nhất: Đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định Pháp luật hiện hành quy định khác nhau về trình tự, thủ tục về đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản và bất động sản. Tuy nhiên, mục tiêu chung của việc quy định này là vẫn là nhằm công khai hóa quyền lợi của Bên nhận bảo đảm đối với Bên bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm không ghi nhận toàn bộ nội dung của giao dịch bảo đảm (thể hiện trong các Hợp đồng cầm cố, Hợp đồng thế chấp,…) mà chỉ ghi nhận những thông tin để làm rõ quyền của Bên nhận bảo đảm, nghĩa vụ của Bên bảo đảm và tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là gì? 16
  17. Ngoài ra, đăng ký giao dịch bảo đảm còn là một trong những cách thức làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với bên thứ ba. Về vấn đề này, ở phần lớn các nƣớc có pháp luật về giao dịch bảo đảm hiện đại, một quyền lợi bảo đảm có giá trị và có thể thực thi không gắn kèm theo nó vị thế nào ƣu tiên đối với bên thứ ba trừ khi nó đƣợc "hoàn thiện" bằng một trong hai cách: đăng ký thông báo tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, hoặc trực tiếp chiếm hữu, kiểm soát tài sản bảo đảm. Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm đƣợc hiểu là việc công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho ngƣời thứ ba đƣợc biết. Và điều này cũng đồng thời là căn cứ để xác định thứ tự ƣu tiên thanh toán của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản bảo đảm. Trong trƣờng hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào đƣợc hoàn thiện trƣớc sẽ đƣợc ƣu tiên thực hiện. Vì vậy, việc đăng ký giao dịch bảo đảm phải theo trình tự, thủ tục luật định là điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên trong giao dịch bảo đảm. Thứ hai: Đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động dịch vụ công của Nhà nước Hiện nay, ở các nƣớc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung và đăng ký bất động sản nói riêng là cơ quan độc lập với cơ quan quản lý nhà nƣớc về giao dịch bảo đảm hoặc bất động sản. Đây là những cơ quan chuyên môn không thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, hoạt động theo nguyên tắc "lấy thu, bù chi". Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc xác định theo loại tài sản bảo đảm, theo địa giới hành chính - lãnh thổ hoặc theo địa vị pháp lý của bên nhận bảo đảm (tổ chức hoặc cá nhân). Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội của đất nƣớc, mỗi quốc gia thiết lập một mô hình cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán hoặc tập trung khác nhau. Các nƣớc có hệ thống đăng ký bất động sản tập trung và thống nhất từ trung ƣơng xuống địa phƣơng, nhƣ ở Nhật Bản là Sở Pháp Vụ, Hàn Quốc là Tòa án, ở Việt Nam là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, huyện thuộc Sở và Phòng Tài nguyên và Môi trƣờng,… Do mục đích của đăng ký giao dịch 17
  18. bảo đảm là công khai hóa thông tin về tài sản bảo đảm nên việc đăng ký này mang tính dịch vụ công, vì vậy, mọi tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu đều đƣợc cung cấp thông tin cũng nhƣ các quyền đã thiết lập với tài sản bảo đảm. Thứ ba: Đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện một cách bắt buộc hoặc tự nguyện tùy theo quy định của pháp luật Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều quy định những trƣờng hợp bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc đăng ký theo yêu cầu tự nguyện của một trong các bên tham gia giao dịch bảo đảm. Đăng ký bắt buộc là loại đăng ký mà pháp luật buộc một trong các bên tham gia giao dịch bảo đảm phải đăng ký giao dịch đó tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Nhà nƣớc chỉ thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch đó khi nó đã đƣợc đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền. Điều này đƣợc ghi nhận trong pháp luật một số nƣớc nhƣ Luật Đăng ký bất động sản của Liên bang Nga, tại khoản 1 Điều 3 quy định: "Đăng ký nhà nước các quyền đối với bất động sản và các giao dịch về bất động sản là sự kiện pháp lý công nhận và chứng thực bởi nhà nước sự phát sinh, hạn chế, chuyển dịch hoặc chấm dứt các quyền đối với bất động sản theo quy định của Bộ luật dân sự Liên bang Nga" [24, tr. 7]. Theo đó thì việc đăng ký đƣợc thực hiện bắt buộc, không quy định các trƣờng hợp đăng ký tự nguyện. Còn đăng ký tự nguyện là loại đăng ký mà các bên trong quan hệ bảo đảm có thể đăng ký hoặc không đăng ký giao dịch bảo đảm đó tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền của Nhà nƣớc. Và việc đăng ký hay không đăng ký này không ảnh hƣởng đến hiệu lực pháp lý của giao dịch bảo đảm mà các bên đã thiết lập. Thứ tư: Thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký phải được cung cấp cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu Cung cấp thông tin là mục tiêu quan trọng của tất cả các hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế giới. Do vậy, thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm đã đăng ký tại các cơ quan có thẩm quyền đều đƣợc 18
  19. lƣu giữ và cung cấp công khai cho các tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm của các nƣớc khẳng định quyền đƣợc tiếp cận thông tin về giao dịch bảo đảm của các tổ chức, cá nhân khi xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tài chính hiện đại, hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của các tổ chức tín dụng ngày càng đƣợc mở rộng hơn về hình thức và mức độ. Theo đó, thì nhu cầu đảm bảo an toàn pháp lý, tránh rủi ro cho các bên tham gia giao dịch đặc biệt là các ngân hàng cũng ngày càng tăng cao. Trong bối cảnh đó, việc công khai, minh bạch hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm đặc biệt có ý nghĩa, góp phần làm lành mạnh hóa thị trƣờng tài chính - tiền tệ, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng nhƣ các tác động tiêu cực đối với sự phát triển, ổn định của môi trƣờng đầu tƣ của các quốc gia. Hiện nay thì nhiều nƣớc đang hƣớng đến mục tiêu xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin về giao dịch bảo đảm tập trung, thống nhất, vì đó là một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại. Pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng khẳng định quyền đƣợc tìm hiểu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm đƣợc lƣu giữ trong Sổ đăng ký quốc gia, Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm của tổ chức, cá nhân có nhu cầu cũng nhƣ trách nhiệm cung cấp các thông tin này của cơ quan đăng ký nhà nƣớc có thẩm quyền tại Điều 41 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP. 1.1.1.3. Các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm Điều 16 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP quy định: Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm được nộp theo một trong các phương thức sau đây: 1. Nộp trực tiếp tại trụ sở của cơ quan đăng ký; 2. Gửi qua đường bưu điện; 3. Gửi qua fax hoặc gửi qua thư điện tử đối với đăng ký giao dịch bảo đảm bằng động sản tại các Trung tâm Đăng ký giao 19
  20. dịch, tài sản với điều kiện người yêu cầu đăng ký đã đăng ký khách hàng thường xuyên tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp; 4. Gửi qua hệ thống đăng ký trực tuyến [20]. Theo quy định này thì khi nộp hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm, ngƣời yêu cầu đăng ký có thể lựa chọn một trong các phƣơng thức đăng ký nêu trên. Pháp luật của một số nƣớc về đăng ký giao dịch bảo đảm quy định hình thức đăng ký thông thƣờng là nộp đơn trực tiếp cho cơ quan đăng ký và qua đƣờng bƣu điện. Pháp luật hiện hành của Việt Nam, ngoài việc quy định hình thức đăng ký thông thƣờng giống pháp luật một số nƣớc trên thế giới thì còn cho phép ngƣời yêu cầu đƣợc đăng ký theo hình thức "gửi qua fax" và "qua hệ thống đăng ký trực tuyến" cũng nhƣ trình tự, thủ tục cụ thể khi thực hiện đăng ký theo phƣơng thức này tại Thông tƣ số 22/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên thi hành án (sau đây gọi tắt là Thông tƣ số 22/2010/TT-BTP). 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa và giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm 1.1.2.1. Vai trò của việc đăng ký giao dịch bảo đảm Trong những năm qua, việc đăng ký giao dịch bảo đảm ở nƣớc ta đã phát huy ý nghĩa quan trọng trong việc công khai và minh bạch các giao dịch bảo đảm nói chung, bên cạnh việc giúp cho Bên bảo đảm là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có thêm cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần còn giúp cho các NHTM - Bên cho vay đồng thời là Bên nhận bảo đảm thì việc đăng ký giao dịch bảo đảm tạo nguồn thông tin để tra cứu, tìm hiểu trƣớc khi xem xét, quyết định cấp vốn cho Bên bảo đảm và có căn cứ để xác định chính xác thứ tự ƣu tiên thanh toán trong trƣờng hợp cần xử lý tài sản để thanh toán nghĩa vụ của Bên bảo đảm. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2