Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Hội đồng quản trị của công ty cổ phần và thực tiễn áp dụng tại công ty Hoá chất Việt Trì
lượt xem 8
download
Đề tài chỉ tập trung làm rõ cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, vai trò của Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần ở Việt Nam, đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật chứng khoán năm 2006 có hiệu lực. Trên cơ sở đó tìm hiểu thực trạng pháp luật về Hội đồng quản trị và thực tiễn áp dụng tại Công ty Hoá chất Việt Trì để tìm những nhân tố hợp lý và bất hợp lý, là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Hội đồng quản trị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về Hội đồng quản trị của công ty cổ phần và thực tiễn áp dụng tại công ty Hoá chất Việt Trì
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ KIM XUYẾN PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY HOÁ CHẤT VIỆT TRÌ Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS Vũ Quang HÀ NỘI - 2010
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt 1 Danh mục các hình MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ 5 HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ 1.1. Khái luận chung về Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần 5 1.1.1 Khái lược về công ty cổ phần 5 1.1.2. Hội đồng quản trị trong mối tương quan với các thiết chế 8 quản lý khác của công ty cổ phần 1.1.3. Mô hình và cơ chế hoạt động của Hội đồng quản trị 11 1.1.4. Phong cách làm việc của Hội đồng quản trị 17 1.1.5. Mô hình Tricker - một khuôn khổ để phân tích về các hoạt 18 động của Hội đồng quản trị 1.2. Một số nội dung về quản trị công ty theo OECD 20 1.2.1. Nhận thức về quản trị công ty theo OECD 20 1.2.2. Trách nhiệm của Hội đồng quản trị theo OECD 21 1.3. Khái lược pháp luật về Hội đồng quản trị ở Việt Nam 22 1.3.1. Nhận thức bước đầu về pháp luật Hội đồng quản trị 22 1.3.2. Đặc điểm của pháp luật về Hội đồng quản trị 26 1.3.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về Hội đồng quản trị 30 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỘI ĐỒNG 32 QUẢN TRỊ Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY HOÁ CHẤT VIỆT TRÌ 2.1. Những vấn đề chung 32 2.1.1. Ứng cử, đề cử thành viên Hội đồng quản trị 32 2.1.2. Tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Hội đồng quản trị 34 2.1.3. Miễn nhiệm, bãi nhiệm và bổ sung thành viên Hội đồng 37 quản trị 2.1.4. Thành phần Hội đồng quản trị 38 2.1.5. Chủ tịch Hội đồng quản trị 39
- 2.1.6. Thẩm quyền của Hội đồng quản trị 44 2.1.7. Trách nhiệm và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị, thành viên 48 Hội đồng quản trị 2.1.8. Cuộc họp của Hội đồng quản trị 50 2.1.9. Các Tiểu ban của Hội đồng quản trị 52 2.1.10. Thư ký Hội đồng quản trị 53 2.1.11. Thù lao của Hội đồng quản trị 54 2.2. Thành viên Hội đồng quản trị độc lập 56 2.3. Một số quy định khác của pháp luật về Hội đồng quản trị 59 2.3.1. Vai trò định hướng chiến lược của Hội đồng quản trị 65 2.3.2. Trách nhiệm trung thực và tránh các xung đột về quyền lợi 65 của các thành viên Hội đồng quản trị 68 Chương 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP 70 GÓP PHẦN HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về Hội đồng quản trị 70 3.2. Khuyến nghị của OECD về trách nhiệm của Hội đồng quản trị 71 3.3. Một số đề nghị cụ thể của tác giả góp phần hoàn thiện những 75 quy định của pháp luật Việt Nam về Hội đồng quản trị 3.3.1. Đối với những quy định về Hội đồng quản trị theo 76 Luật doanh nghiệp 2005 3.3.2. Đối với các công ty cổ phần 80 KẾT LUẬN 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 PHỤ LỤC 88
- DANH MỤC CÁC HÌNH Số hình Tên hình Trang 1.1 Mô hình Hội đồng quản trị trong công ty cổ phẩn 17 1.2 Mô hình Tricker 19 DANH MỤC CÁC HỘP Số hộp Tên hộp Trang 3.1 Kinh nghiệm từ công ty Tài chính quốc tế - IFC 75
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á CIEM: Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông IFC: Quỹ tiền tệ quốc tế HĐQT: Hội đồng quản trị NXB: Nhà xuất bản OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế VNR: Câu lạc bộ 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam WB: Ngân hàng Thế giới
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong cơ cấu của công ty cổ phần, Hội đồng quản trị là một thiết chế quan trọng, từng được ví như “khối óc” của công ty. Hiện nay, Hội đồng quản trị được sự quan tâm không chỉ ở các quốc gia đang chuyển đổi như Trung Quốc, Việt Nam mà ngay cả các nước phát triển như Mỹ, Đức, Nhật… Sự phá sản của các đại công ty ở Mỹ trong những năm gần đây như Worldcom, Tyco, Enron…đặt ra nhiều vấn đề quản lý, điều hành trong công ty, đặc biệt vai trò, trách nhiệm của Hội đồng quản trị, thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả và các nhà quản lý trên toàn thế giới.Vai trò của Hội đồng quản trị, nhân tố quan trọng trong việc tạo sự tin cậy trên thị trường đầu tư, đã được chú trọng quan tâm hơn. Một cuộc điều tra định tính đối với các nhà quản lý quỹ được thực hiện bởi các nhà tư vấn Mỹ, Mckiney, năm 1997, đã chỉ ra rằng các nhà quản lý quỹ nên tăng thêm khoảng 11 – 16% vốn đầu tư cho công ty được coi là có nhà quản lý tốt. Bởi hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vốn kinh doanh của các công ty được huy động phần lớn từ thu nhập thặng dư của các cổ đông là những người lao động. Đây là nguồn đầu tư cần được đảm bảo chắc chắn nhất vì nó liên quan đến cuộc sống của những người lao động. Do vậy, các công ty cần đảm bảo rằng vốn đầu tư này sẽ mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Những thành viên của Hội đồng quản trị là những người quản lý vốn đầu tư có ý nghĩa xã hội lớn đó, do vậy họ cần phát huy được năng lực và hoạt động có hiệu quả để phát triển giá trị của công ty, thúc đẩy tăng trưởng lợi nhuận cho công ty. Do mới làm quen với nền kinh tế thị trường, khái niệm về cổ phần, cổ phiếu, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát …còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Cung 1
- cách quản lý doanh nghiệp theo kiểu Á Đông, bị ràng buộc bởi nhiều mối quan hệ gia đình và xã hội, cùng với chế độ sở hữu chưa rõ ràng…là những nguyên nhân quan trọng cản trở việc hình thành một hệ thống quản lý, điều hành công ty tốt. Việc phân bổ thẩm quyền giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần còn nhiều những bất cập, chồng chéo. Địa vị pháp lý của Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần ở Việt Nam còn được nhìn nhận thấp, được coi là người quản lý công ty nhưng pháp luật thiết kế cho họ một địa vị pháp lý không tương xứng. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết hơn khi các công ty cổ phần ra đời ngày càng nhiều, nhiều công ty mong muốn mở rộng thị trường ra nước ngoài, thị trường chứng khoán đang phát triển, nhiều nhà đầu tư đang có xu hướng bỏ vốn mua cổ phần của các công ty. Hội đồng quản trị không làm tròn trách nhiệm của mình, ban giám đốc thì lạm quyền, quyền lợi của các nhà đầu tư không được bảo vệ, đặc biệt là các cổ đông nhỏ. Điều đó làm giảm khả năng huy động vốn trên thị trường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Nhằm tìm hiểu một cách có hệ thống, đầy đủ những quy định của pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế về Hội đồng quản trị, góp phần đưa ra các khuyến nghị cần thiết để hoàn thiện pháp luật về Hội đồng quản trị ở Việt Nam, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Pháp luật về Hội đồng quản trị của công ty cổ phần và thực tiễn áp dụng tại công ty Hoá chất Việt Trì” làm Luận văn tốt nghiệp cao học Luật. 2. Tình hình nghiên cứu Hội đồng quản trị là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần, một mắt xích quan trọng trong quản trị công ty. Vì thế, Hội đồng quản trị đang được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới đề cập đến với tư cách là một 2
- thiết chế, một khâu trong quản lý, điều hành của công ty cổ phần (corporate governnance). Đầu tiên phải kể đến bài viết “The Modern Corporation and Private Property” (Công ty theo kiểu hiện đại và tư nhân) xuất bản năm 1932 của Adolf A. Berle và Gardiner C. Mean, một tác phẩm được đánh giá là tạo bước thay đổi quan trọng đối với mô hình công ty cổ phần. Hay cuốn “Separ tion of Ownership and Control (Sự tách biệt giữa sở hữu và quản lý) của Eugene F. Fama và Michael C. Jensen… Đối với giới nghiên cứu của Việt Nam, giống như Quản trị công ty, Hội đồng quản trị là một vấn đề còn tương đối mới mẻ. Hội đồng quản trị được nhiều học giả nghiên cứu nhưng đều đặt trong tổng thể những vấn đề của công ty (chẳng hạn, Luật doanh nghiệp Vốn và quản lý trong công ty cổ phần,của ThS. Nguyễn Ngọc Bích; (2006), Quản trị doanh nghiệp hiện đại, của Học Viện Tài chính; CEO và Hội đồng quản trị của Phạm Trí Hùng và Nguyễn Trung Thắng; các bài viết của ThS. Bùi Xuân Hải…). 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Thực hiện đề tài này, mục tiêu của tác giả là tìm hiểu, phân tích làm rõ các vấn đề cơ bản về lí luận và thực tiễn của Hội đồng quản trị, từ đó đưa ra giải pháp nhằm cải tổ nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị. Đề tài chỉ tập trung làm rõ cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, vai trò của Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần ở Việt Nam, đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp năm 2005 và Luật chứng khoán năm 2006 có hiệu lực. Trên cơ sở đó tìm hiểu thực trạng pháp luật về Hội đồng quản trị và thực tiễn áp dụng tại Công ty Hoá chất Việt Trì để tìm những nhân tố hợp lý và bất hợp lý, là cơ sở để kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Hội đồng quản trị. 3
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích, bình luận các quy định của pháp luật về Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần. Trong đó, tập trung là các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006, Điều lệ mẫu áp dụng cho công ty niêm yết (Quyết định 15/2007/QĐ – BTC ngày 19/3/2007) và Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán (Quyết định 12/2007/QĐ – BTC ngày 13/3/2007). Phương pháp so sánh các quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế về Hội đồng quản trị; xem xét kế thừa những yếu tố hợp lý là nền tảng cho sự đề xuất cải tổ Hội đồng quản trị. 5. Giới hạn nghiên cứu Các số liệu phân tích và khung pháp luật về Hội đồng quản trị được luận văn nghiên cứu được cập nhật và có giá trị tại thời điểm 20/8/2010. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về Hội đồng quản trị; Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về Hội đồng quản trị ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty Hoá chất Việt Trì; Chƣơng 3: Một số khuyến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật Việt Nam về Hội đồng quản trị. 4
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ 1.1. Khái luận chung về Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần 1.1.1. Khái lược về công ty cổ phần Công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII nhưng đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn rất hiếm. Khi quá trình tập trung tư bản đã phát triển ở mức độ cao và nhất là sau khi có sự bùng nổ của các cuộc cách mạng công nghiệp đã trực tiếp dẫn đến sự hình thành các công ty cổ phần. Cho đến giữa thế kỷ XIX, công ty cổ phần đã phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên các nước tư bản nhờ sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự phát triển rộng rãi của chế độ tín dụng. Từ góc độ pháp lý, có thể khái quát một số đặc trưng của công ty cổ phần như sau: - Là một tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Đây là loại hình công ty có tính chất tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội hoá cao; - Công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản riêng của công ty. Các cổ đông/người góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp vào công ty; - Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia làm các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Đây là đặc trưng rất cơ bản của công ty cổ phần. Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để công khai huy động vốn. Do đó, sự ra đời của công ty cổ phần gắn liền với sự ra đời của thị trường chứng khoán. Việc chuyển nhượng cổ phần được thực hiện dễ dàng với mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán; 5
- - Công ty cổ phần có số lượng thành viên rất đông. Có công ty cổ phần có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp các nước trên thế giới, vì vậy có khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là trong công nghiệp. Công ty cổ phần là loại hình công ty đối vốn, sở hữu dù ít dù nhiều đã có sự tách khỏi điều hành. Vì thế, so với các loại hình công ty khác, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần chặt chẽ và phức tạp hơn. Hiện trên thế giới tồn tại hai mô hình phổ biến [18]. Đó là mô hình đơn nhất và mô hình hai cấp. Mô hình đơn nhất có trong Luật công ty của hầu hết các nước thuộc hệ thống Commen law, như Anh, Mỹ, Australia, Canada…Cấu trúc này, về cơ bản, được xây dựng theo mô hình luật công ty kiểu Anglo – American, mà luật công ty Hoa Kỳ là điển hình. Theo mô hình đơn nhất, cấu trúc quản trị nội bộ của một công ty cổ phần gồm có: Đại hội đồng cổ đông (shareholders’ meeting) và Hội đồng giám đốc (board of directors). Bộ phận quản trị - điều hành chỉ do một cơ quan đảm nhiệm là Hội đồng giám đốc - cấu trúc hội đồng đơn. Đại hội đồng cổ đông sẽ bầu chọn các thành viên của Hội đồng giám đốc (thường có từ ba đến hai chục thành viên). Mọi quyền lực và các vấn đề của công ty được pháp luật đặt vào tay Hội đồng giám đốc, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền Đại hội đồng cổ đông. Tiếp đó, Hội đồng giám đốc lại bổ nhiệm các thành viên của mình hoặc người khác điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Sự phân chia quyền lực này khác với việc phân chia quyền lực trong các công ty cổ phần của các nước châu Âu lục địa, Trung Quốc và Việt Nam. Vì thế, Hội đồng giám đốc trong công ty Anh - Mỹ có nhiều quyền lực hơn các đồng nghiệp của họ trong Hội đồng quản trị công ty của các nước châu Âu lục địa, Trung Quốc, Việt Nam. 6
- Mô hình hai cấp có nguồn gốc từ nước Đức, xứ sở của dòng họ luật German civil law. Cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần theo luật Đức gồm có: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng giám sát (Aufsichtsrat), và Ban quản trị. Việc quản lý - điều hành công ty cổ phần được phân chia cho hai cơ quan là Hội đồng giám sát và Ban quản trị, như một thiết chế hai tầng, mà ở đó, Hội đồng giám sát nằm ở tầng trên. Vì thế, giới luật học trên thế giới gọi đây là cấu trúc hội đồng kép hay hội đồng hai tầng. Và trong mô hình hai cấp, Đại hội đồng cổ đông, thậm chí cả người lao động, sẽ bầu chọn Hội đồng giám sát. Hội đồng giám sát có quyền bầu Ban quản trị, giám sát hoạt động của Ban quản trị. Ban quản trị thực hiện chức năng điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Theo luật doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, thì cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần ở Việt Nam, xét một cách toàn diện, không phải là cấu trúc đơn theo mô hình luật công ty Anh - Mỹ, cũng chẳng phải là cấu trúc hai cấp như mô hình của luật Đức. Nó có vẻ là cấu trúc pha trộn giữa hai mô hình nói trên, đặc biệt có rất nhiều điểm tương đồng với mô hình theo luật công ty năm 2005 của Trung Quốc. Cấu trúc nội bộ của công ty cổ phần ở Việt Nam cũng gồm có các cơ quan: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc và Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần ở Việt Nam không giống với Hội đồng giám đốc trong luật công ty Anh - Mỹ, cũng không phải là Hội đồng giám sát hay Ban quản trị theo mô hình luật công ty của Đức. Hội đồng quản trị trong luật Việt Nam không có quyền hạn rộng lớn như Hội đồng giám đốc trong cấu trúc công ty của nhiều nước Commen law. Song, nó có thẩm quyền rộng hơn so với Ban quản trị trong cấu trúc hai tầng theo luật công ty của một số nước châu Âu. Nếu thành viên Ban quản trị theo luật công ty Đức do Hội đồng giám sát bổ nhiệm thì thành viên 7
- Hội đồng quản trị trong các công ty cổ phần ở Việt Nam do Đại hội đồng cổ đông trực tiếp lựa chọn. Cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần ở các nước khác nhau có sự khác biệt nhất định (các nước theo hệ thống luật Commen law và Châu âu lục địa), nhưng có thể khái quát thành ba bộ phận cơ bản: Tập hợp những người góp vốn/cổ đông; người được cổ đông đông uỷ quyền quản lý công ty/hội đồng quản trị và người điều hành công ty/giám đốc hoặc tổng giám đốc. Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần, Hội đồng quản trị chỉ là một thiết chế nhỏ nhưng vai trò của nó hết sức quan trọng. Hội đồng quản trị được nhấn mạnh là người đặt ra chiến lược tổng thể cho doanh nghiệp, giám sát quản lí rủi ro, giám sát kết quả quản trị, đảm bảo sự trung thực của báo cáo tài chính, có kế hoạch đào tạo nhân sự kế nhiệm cho các vị trí quản lí cấp cao. Để hiểu rõ hơn vị trí, tầm quan trọng của Hội đồng quản trị, chúng ta cần xem xét Hội đồng quan trị trong mối quan hệ với các thiết chế khác của công ty cổ phần. 1.1.2. Hội đồng quản trị trong mối tương quan với các thiết chế quản lý khác của công ty cổ phần Trong cơ cấu tổ chức của một công ty, Hội đồng quản trị chiếm một vị trí rất nhỏ; thế nhưng trên thực tế vai trò của nó lại rất lớn. Trong công ty, người bỏ vốn là các cổ đông, Giám đốc điều hành doanh nghiệp còn Hội đồng quản trị – đại diện cho cổ đông, bảo đảm doanh nghiệp có được quản lí tốt và đi đúng hướng hay không, vốn của nhà đầu tư có được sử dụng một cách hiệu quả không. Hình ảnh này được ví như một chiếc xe chở khách. Khách đi trên xe (tương tự như các cổ đông trong công ty) ai cũng muốn đến nơi (cùng muốn có lãi) nhưng không biết đi đường nào, lại cũng không biết lái xe, do đó họ bèn lựa một người làm đại diện chỉ đường (HĐQT). Người này đóng vai trò “cai “ xe, sẽ đi tìm thuê một anh lái xe (ban giám đốc), thương lượng, trả 8
- một số tiền để anh ta lái chiếc xe (công ty) chạy theo bản đồ về hướng mà người cai xe được khách ủy nhiệm đã vạch ra. 1.1.2.1. Hội đồng quản trị với Đại hội đồng cổ đông Cổ đông của công ty là những người góp vốn/người sở hữu cổ phần trong công ty cổ phần. Như trên đã đề cập, công ty cổ phần có số lượng cổ đông rất lớn, có cổ đông là cá nhân và cũng có cổ đông là tổ chức. Nhưng chỉ có các cổ đông có quyền biểu quyết mới được tham gia Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông/tập hợp các cổ đông (chủ sở hữu công ty) là cơ quan có quyết định cao nhất của công ty cổ phần [34, tr.64]. Một trong những quyền đó là lựa chọn những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt để quản lý, lèo lái công ty - Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, người đại diện cho quyền lợi của các cổ đông/người góp vốn. Hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước các cổ đông/Đại hội đồng cổ đông và trước công ty. Hội đồng quản trị được thực hiện tất cả các quyền, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. 1.1.2.2. Hội đồng quản trị với Ban giám đốc Tập tục của các nước trên thế giới, Tổng giám đốc (CEO) đều do Hội đồng quản trị lựa chọn. Trong công ty của Hoa Kỳ, CEO thông thường là thành viên Hội đồng quản trị; nhưng theo luật của Pháp thì CEO không nhất thiết là thành viên Hội đồng quản trị. Cũng giống như luật công ty của Pháp, luật doanh nghiệp của Việt Nam không có quy định bắt buộc Tổng giám đốc/Giám đốc phải là thành viên Hội đồng quản trị. Có thể nói rằng, chức danh Tổng giám đốc/Giám đốc của công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp Việt Nam 2005 có vị trí như CEO (chief executive officer) hay MD 9
- (managing director) trong các công ty Mỹ, Anh, Australia, Nhật và nhiều nước khác [20]. Hội đồng quản trị là người định hướng chiến lược thì Tổng giám đốc là người thực thi chiến lược. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước cổ đông và công ty thì Tổng giám đốc chịu sự giám sát, quản lý của Hội đồng quản trị. Các thành viên Hội đồng quản trị không thể chỉ đạo ban giám đốc làm bất cứ điều gì với tư cách cá nhân. Hội đồng quản trị thường phải thông qua Tổng giám đốc khi muốn đưa ra định hướng cho các nhà điều hành. Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc là mối quan hệ giữa quản lý và điều hành; giữa “đầu não” và “cánh tay” [21]. Một trong những nguyên tắc của OECD là Hội đồng quản trị phải áp dụng tiểu chuẩn đạo đức cao. Tiêu chuẩn đạo đức đó không chỉ đối với bản thân các thành viên Hội đồng quản trị mà còn thể hiện bằng việc bổ nhiệm và giám sát các cán bộ chủ chốt. Đặc biệt sự có mặt của thành viên Hội đồng quản trị không kiêm nhiệm, một xu hướng được nhiều tổ chức quốc tế hàng đầu khuyến nghị, chủ yếu để đảm bảo sao cho CEO là người có khả năng và đạo đức. 1.1.2.3. Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát Trong cấu trúc quản trị nội bộ của các công ty cổ phần trên thế giới, có sự khác nhau khá rõ về thiết chế Kiểm soát nội bộ. Ở cấu trúc hội đồng hai tầng, ví dụ luật Đức, Đại hội đồng cổ đông hoặc người lao động lựa chọn ra Hội đồng giám sát; Hội đồng giám sát có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các thành viên của bộ máy điều hành – Ban quản trị và tham gia trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc quản trị công ty, giám sát Ban quản trị. Còn trong cấu trúc hội đồng một tầng lại không có bộ phận kiểm soát độc lập. Ngoài việc bổ nhiệm Tổng giám đốc, Hội đồng giám 10
- đốc trực tiếp giám sát hoạt động của Tổng giám đốc. Tuy nhiên, trong các công ty lớn, đặc biệt là các công ty niêm yết, xu hướng đa số thành viên Hội đồng giám đốc là thành viên độc lập không điều hành đang thắng thế. Các thành viên độc lập không điều hành sẽ đảm nhiệm chức năng xem xét, đánh giá một cách độc lập về các quyết sách quản trị của Hội đồng giám đốc và giám sát hoạt động của bộ phận điều hành. Luật doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam lại quy định Ban kiểm soát là một thiết chế độc lập so với Hội đồng quản trị, do Đại hội đồng cổ đông bầu, từ ba đến năm người, nhiệm kỳ không quá 5 năm. Thành viên Hội đồng quản trị không thể là thành viên Ban kiểm soát. Bởi nhiệm vụ của Ban kiểm soát là kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị nên cần có sự độc lập giữa hai thiết chế này. Nếu Hội đồng quản trị có quyền giám sát hoạt động của Tổng giám đốc/Giám đốc thì Ban kiểm soát lại giám sát Hội đồng quản trị, kiểm tra tính hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý của Hội đồng quản trị [32, điều 123]. Sự phân chia quyền lực như trên phần nào hạn chế sự lạm quyền, vụ lợi của Hội đồng quản trị, bảo vệ lợi ích nhà đầu tư, So với mô hình cơ quan giám sát của cả hai cấu trúc quản trị phổ biến trên thế giới như đã nói ở trên, thì mô hình Ban kiểm soát độc lập từ Hội đồng quản trị và do Đại hội đồng cổ đông bầu trong các công ty cổ phần ở Việt Nam là cấu trúc khá độc đáo và hiệu quả, nếu Ban kiểm soát làm việc thực sự như được thiết kế trong luật [20]. 1.1.3. Mô hình và cơ chế hoạt động của Hội đồng quản trị Cấu trúc Hội đồng quản trị của các công ty trên thế giới theo truyền thống được chia làm bốn loại [2, 279]. Ở Anh và Mỹ, người ta dùng một hội đồng duy nhất hay cấu trúc đơn. Đó là một hội đồng bao gồm những thành 11
- viên có kiêm nhiệm hay không kiêm nhiệm, theo một tỷ lệ được coi là thích hợp. Ở các nước theo lục địa châu Âu có hội đồng hai tầng, cấu trúc kép, trong đó một ủy ban ở trên giám sát ban ban chấp hành ở dưới thay mặt cho các cổ đông. Khi gọi một tầng hay hai tầng, người ta nhắm đến các bộ phận trong công ty; chứ không căn cứ vào các cá nhân được kết thành tổ chức. 1.1.3.1. Hội đồng quản trị gồm toàn những thành viên kiêm nhiệm Trong hội đồng này tất cả các thành viên đều là nhân viên, là người điều hành hay ban giám đốc công ty. Nhiều công ty gia đình bắt đầu bằng một hội đồng như thế này. Từ người sáng lập đến người đồng sự làm những công việc khác nhau trong công ty tất cả đều là thành viên Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị của các công ty con trong một tập đoàn cũng thường chọn hình thức này, thực tế là các nhân viên cao cấp trong ban giám đốc đều là thành viên của Hội đồng. Ở Nhật, Hội đồng quản trị rất đông và toàn là người trong ban giám đốc của công ty. 1.1.3.2. Hội đồng quản trị có đa số thành viên kiêm nhiệm Theo sự tiến hóa của công ty và của Hội đồng quản trị, vì nhiều lí do khác nhau dần dần những thành viên không kiêm nhiệm được cử vào Hội đồng. Có khi trong một công ty đang phát triển, các giám đốc kiêm nhiệm thấy cần có những kiến thức chuyên môn từ bên ngoài, những kinh nghiệm cần thêm để bổ sung cho họ. Những thành viên không kiêm nhiệm có khi được chỉ định từ các đơn vị có đầu tư hay tài trợ cho doanh nghiệp, hay để tạo nên mối liên hệ chặt chẽ với nhà cung cấp, khách hàng hay nhưng nơi khác nhằm tăng giá trị doanh nghiệp. Một lí do nữa là do sự thừa kế trong gia đình, cổ phần được chia cho các chi khác nhau trong dòng họ. Ưu điểm của của cơ cấu Hội đồng quản trị phần lớn thành viên tham gia điều hành là (i) các thành viên Hội đồng quản trị hiểu biết về kinh doanh và 12
- ngành nghề kinh doanh của chính doanh nghiệp. Do vậy, các định hướng họ đưa ra thường là phù hợp và thành viên hội đồng quản trị có thể đưa ra các quyết nhanh chóng. (ii) Thu nhập của thành viên Hội đồng quản trị gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp, đó chính là động lực khiến các thành viên hội đồng quản trị làm việc hết mình, gắn bó lâu dài vì sự phát triển của doanh nghiệp. Nhược điểm của cơ cấu Hội đồng quản trị phần lớn thành viên tham gia điều hành là: (i) Thành viên Hội đồng quản trị có thể chú trọng công việc liên quan đến lĩnh vực kinh doanh mà người đó đảm nhiệm, từ đó có thể làm giới hạn quan điểm chiến lược của Hội đồng quản trị. (ii) Hội đồng khó có thể hoạt động một cách chuyên nghiệp vì các thành viên phải mất quá nhiều thời gian tham gia vào công tác điều hành của doanh nghiệp [19, tr. 61]. 1.1.3.3. Hội đồng quản trị có đa số thành viên không kiêm nhiệm Khi doanh nghiệp phát triển đến một mức độ nhất định có thể thống trị trong ngành, lĩnh vực kinh doanh, để có những bước tăng trưởng mới, một số doanh nghiệp có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán hoặc kêu gọi từ các nhà đầu tư quan trọng. Trong trường hợp này, doanh nghiệp cần có thêm các thành viên Hội đồng quản trị không kiêm nhiệm. Tập tục của các công ty lớn và hàng đầu ở Anh và Mỹ là có các hội đồng loại này. Trong các công ty đó, thành phần không kiêm nhiệm vượt trội thành phần kiêm nhiệm. Mô hình quản trị công ty cổ phần theo cấu trúc hội đồng đơn kiểu Anh - Mỹ không có một cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ giám sát những người quản lý - điều hành công ty như mô hình của Việt Nam hay Trung Quốc. Hội đồng quản trị không làm đúng vai trò của mình, dễ dàng thông đồng với CEO che giấu những giao dịch với các bên liên quan hoặc làm các nhà đầu tư hiểu sai về giá trị của công ty, gây rủi ro cho các nhà đầu tư. Đặc biệt, ở Mỹ trước khi xuất hiện những khó khăn nhấn chìm Enron và nhiều công ty cổ phần khác, việc 13
- quản trị công ty cổ phần đã chú ý đến việc sử dụng các thành viên Hội đồng quản trị độc lập để kiềm chế quyền lực của Ban giám đốc, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Trong đó, vai trò của các thành viên độc lập được đề cập rất nhiều. Ủy ban về Tiêu chuẩn đưa vào Danh sách giao dịch và Trách nhiệm giải trình của công ty thuộc trung tâm giao dịch chứng khoá New York (the New York Stock Exchange - NYSE - Corporate Accountability and Listing Standards Committee) đã khuyến nghị lên Hội đồng NYSE việc nên sửa đổi các tiêu chuẩn để được đưa vào danh sách giao dịch. Khuyến nghị này đã được chấp nhận này 01/8/2002, có những nội dung chính sau: + Yêu cầu các công ty trong danh sách phải có HĐQT với đa số các thành viên độc lập. + Định nghĩa rõ hơn thế nào là một thành viên độc lập. Ví dụ, một thành viên độc lập không được có quan hệ vật chất với công ty và không thể là một nhân viên cũ cho đến năm năm sau khi thôi việc. + Trao thêm quyền cho các thành viên HĐQT không có chân trong ban giám đốc để họ thực hiện nhiệm vụ kiềm chế ban giám đốc một cách hiệu quả hơn; yêu cầu họ có những phiên họp thường kì ở cấp điều hành không có ban giám đốc hiện diện, đồng thời, yêu cầu các thành viên HĐQT độc lập chỉ định và tiết lộ công khai danh tánh của thành viên HĐQT sẽ chủ toạ các phiên họp này, nhằm tạo điều kiện cho một thành viên HĐQT lãnh đạo số còn lại và làm đối trọng với quan chức điều hành cao nhất (CEO) trong công ty. + Yêu cầu các công ty trong danh sách phải có một uỷ ban tiến cử/quản trị công ty gồm toàn thành viên HĐQT độc lập để xem xét việc bổ nhiệm những người mới vào HĐQT và định hình cơ chế quản trị công ty. Tương tự, uỷ ban phụ trách về thù lao gồm toàn thành viên HĐQT độc lập 14
- + Gia tăng quyền lực và trách nhiệm cho uỷ ban kiểm toán, kể cả giao cho họ quyền quyết định thuê mướn hay sa thải các kiểm toán viên độc lập. + Các công ty trong danh sách phải cáo bạch những nguyên tắc quản trị công ty của mình, bao gồm các tiêu chuẩn về năng lực, trách nhiệm, mức thù lao của thành viên HĐQT… + Yêu cầu các công ty trong danh sách chấp nhận thực hiện cũng như cáo bạch một bộ quy tắc về hành vi đạo đức kinh doanh áp dụng cho các thành viên HĐQT, các quan chức và nhân viên của công ty, và nhanh chóng cáo bạch mọi trường hợp khước từ bộ quy tắc này đối với các thành viên HĐQT hay các quan chức điều hành. Yêu cầu phải có các thành viên Hội đồng quản trị độc lập nảy sinh là vì khả năng xung đột lợi ích giữa những người cung cấp vốn, tức là cổ đông, và ban giám đốc. Do những người điều hành công ty thường không nắm giữ vốn góp đáng kể trong công ty, có nguy cơ họ dành ưu tiên cho các quyền lợi riêng của họ hơn là quyền lợi của cổ đông. Vì thế, một trong những vai trò của thành viên Hội đồng quản trị độc lập là giám sát Ban giám đốc. 1.1.3.4. Hội đồng quản trị hai tầng Các công ty gọi vốn công chúng ở Đức thường có loại hình này [2, tr. 280]. Hội đồng gồm hai phần, ở trên được gọi là Hội đồng giám sát; ở dưới là Ban quản trị (Hội đồng chấp hành), Hội đồng này đề bạt giám đốc. Hội đồng ở trên yêu cầu Hội đồng dưới đệ trình các kế hoạch và đề nghị để xem xét, chấp thuận, sau đó kiểm tra lại và đánh giá kết quả thực hiện. Hà Lan và Pháp cũng áp dụng mô hình này. Hội đồng hai tầng được thiết lập vì người Đức cho rằng các tổ chức lớn phải có một mối tương quan bền chặt giữa vốn và lao động. Trong ủy ban giám sát, số thành viên đại diện cho cổ đông và cho người lao động ngang 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 309 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 210 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 347 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 94 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 112 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 63 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 105 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 263 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn