intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về kiểm tra sau thông quan, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn áp dụng của Hải quan Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

40
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với mục đích nghiên cứu vấn đề pháp luật về kiểm tra sau thông quan một cách có hệ thống theo chuẩn mực quốc tế mà tiêu biểu là khuyến nghị của tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), tổ chức Hải quan Asean về hoạt động kiểm tra sau thông quan đƣợc hình thành trên cơ sở thu thập ý kiến đóng góp của cơ quan Hải quan các nƣớc thành viên, đồng thời thực hiện nghiên cứu, đánh giá về hoạt động kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam, đƣa ra các kiến nghị nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật về kiểm tra sau thông quan ngày càng hiệu quả hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về kiểm tra sau thông quan, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn áp dụng của Hải quan Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ THU HƯỜNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN, CHUẨN MỰC QUỐC TẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CỦA HẢI QUAN VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Quốc Tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH Nguyễn Bá Diến Hà Nội – 2009
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 7 1.1 Sự hình thành khái niệm kiểm tra sau thông quan 7 1.2 Cơ sở thực tiễn và pháp lý để Việt Nam thực hiện KTSTQ 11 1.2.1 Cơ sở thực tiễn 11 1.2.2 Cơ sở pháp lý 16 1.2.2.1 Pháp luật quốc tế 16 1.2.2.2 Pháp luật quốc gia 27 1.3 Đặc điểm kiểm tra sau thông quan 28 1.4 Vai trò của kiểm tra sau thông quan 29 1.5 Đối tượng của kiểm tra sau thông quan 30 1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kiểm tra sau thông quan 30 Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN 35 2.1 Quy định kiểm tra sau thông quan một số nước điển hình 35 2.1.1 Quy định của Asean về kiểm tra sau thông quan 35 2.1.1.1 Cơ sở pháp lý 35 2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức 36 2.1.1.3 Nguyên tắc hoạt động của kiểm tra sau thông quan 38 2.1.1.4 Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan 39 2.1.1.5 Quy trình kiểm tra sau thông quan 41 2.1.2 Kinh nghiệm kiểm tra sau thông quan của Hải quan Indonesia 42 2.1.3 Kinh nghiệm kiểm tra sau thông quan của Hải quan Singapore 44 2.1.4 Kinh nghiệm kiểm tra sau thông quan của Hải quan Nhật Bản 46 2.1.4.1 Cơ sở pháp lý 49 2.1.4.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan 50 2.1.4.3 Mô hình tổ chức kiểm tra sau thông quan 51 2.1.4.4 Quy trình kiểm tra sau thông quan 52 2.1.4.5 Một số kinh nghiệm của Hải quan Nhật Bản 53
  3. 2.1.5 Bài học kinh nghiệm cho Hải quan Việt Nam 57 2.2 Quy định kiểm tra sau thông quan của pháp luật Việt Nam 60 2.2.1 Cơ sở pháp lý về kiểm tra sau thông quan 60 2.2.1.1 Giai đoạn trước khi có Luật Hải quan 2001 60 2.2.1.2 Giai đoạn từ khi có Luật Hải quan 2001 đến trước tháng 62 01 năm 2006 2.2.1.3 Giai đoạn từ tháng 01 năm 2006 đến nay 64 2.2.2 Cơ cấu tổ chức của kiểm tra sau thông quan 67 2.2.3 Nguyên tắc hoạt động của KTSTQ 70 2.2.4 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động kiểm tra sau 71 thông quan 2.2.5 Hình thức và phương pháp kiểm tra sau thông quan 73 2.2.6 Thời hạn kiểm tra sau thông quan 76 2.2.7 Phối hợp trong công tác kiểm tra sau thông quan 76 2.2.8 Kết quả của hoạt động kiểm tra sau thông quan 77 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI PHÁP LUẬT KIỂM TRA SAU 80 THÔNG QUAN VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM TRA SAU THÔNG QUAN 3.1 Thực trạng thực thi pháp luật về kiểm tra sau thông quan 80 3.1.1 Cơ sở pháp lý thực thi pháp luật về kiểm tra sau thông quan 80 3.1.2 Những tồn tại, hạn chế trong thực thi pháp luật về KTSTQ 81 3.1.3 Nguyên nhân của những hạn chế về thực thi pháp luật về kiểm 85 tra sau thông quan 3.1.4 Vụ kiểm tra sau thông quan điển hình năm 2008 87 3.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về KTSTQ 93 3.2.1 Khuyến nghị của Tổ chức Hải quan Thế giới 93 3.2.2 Khuyến nghị của Tổ chức Hải quan Asean 95 3.2.3 Định hướng phát triển của Hải quan Việt Nam 96 3.2.3.1 Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển 96 Hải quan hiện đại.
  4. 3.2.3.2 Quan điểm phát triển của Hải quan Việt Nam 97 3.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt động KTSTQ 99 3.3.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm tra sau thông quan 99 3.3.1.1 Hoàn thiện pháp luật Hải quan 99 3.3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về thuế 103 3.3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính về 106 KTSTQ 3.3.2 Hoàn chỉnh quy trình thủ tục về kiểm tra sau thông quan 110 3.3.3 Hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy kiểm tra sau thông quan 111 3.3.4 Nâng cao trình độ cán bộ kiểm tra sau thông quan 113 3.3.5 Hoàn thiện hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu phục vụ KTSTQ 116 3.3.6 Hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ KTSTQ 117 3.3.7 Hoàn thiện cơ chế phối hợp phục vụ kiểm tra sau thông quan 117 3.3.8 Nâng cao ý thức thực hiện pháp luật KTSTQ 120 3.4 Kiến nghị: 120 3.4.1 Kiến nghị với Đảng, Nhà nước 120 3.4.2 Kiến nghị với Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan 123 Kết luận 126
  5. LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Hội nhập mở ra cơ hội phát triển cho tất cả các nƣớc nhƣng cũng mang tới nhiều thách thức cho mỗi quốc gia trong tiến trình hội nhập. Việt Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có liên quan đến hoạt động Hải quan nhƣ WCO, ASEAN, APEC, ASEM. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO từ ngày 11/1/2007 đã đánh dấu một bƣớc ngoặt lớn trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.Việc Việt Nam là thành viên của tổ chức này một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, đƣợc tham gia vào các quan hệ kinh tế, giao lƣu thƣơng mại trong nƣớc đƣợc thúc đẩy và phát triển nhƣng mặt khác các tổ chức này cũng đòi hỏi thành viên của nó phải tuân thủ theo những quy định và nguyên tắc nhất định và Việt Nam cũng không phải là một ngoại lệ. Do lƣu lƣợng thƣơng mại ngày càng tăng, ngành Hải quan không thể tiến hành kiểm tra, kiểm soát tất cả lƣu lƣợng hàng hoá tại các cửa khẩu nên đã dần hình thành xu hƣớng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, đặc biệt khi việc áp dụng Hiệp định Trị giá GATT trở nên phổ biến. Đến nay kiểm tra sau thông quan đã trở thành một nghiệp vụ không thể thiếu đối với hoạt động hải quan của các nƣớc phát triển và hầu hết hải quan các nƣớc đang phát triển. Biện pháp nghiệp vụ này ngày càng phát triển theo chiều sâu để có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu bức thiết của quá trình hội nhập thƣơng mại với thế giới và quá trình quản lý của nhà nƣớc. Thƣơng mại quốc tế phát mạnh mẽ do vậy Hải quan các nƣớc không thể giữ mãi phƣơng pháp quản lý thủ công nhƣ trƣớc. Để quản lý có hiệu quả hơn, các nƣớc đều hƣớng tới phƣơng pháp quản lý rủi ro. Việc quản lý chặt 1
  6. chẽ ngay từ giai đoạn đầu tiên của quá trình nhập khẩu dẫn đến việc thông quan bị chậm trễ. Thực tế này buộc cơ quan Hải quan phải thực hiện một chiến lƣợc để tăng cƣờng hiệu quả công tác kiểm tra tại các giai đoạn khác nhau của quá trình thông quan, và kiểm tra sau thông quan là một trong những công cụ quan trọng của quản lý Hải quan hiện đại nhằm đảm bảo hiệu quả của công tác quản lý nhà nƣớc đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Kiểm tra sau thông quan là hoạt động nghiệp vụ của cơ quan Hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực của việc khai hải quan, sự tuân thủ pháp luật trong quá trình làm thủ tục hải quan của các tổ chức, cá nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu để ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, gian lận thuế, vi phạm chính sách quản lý xuất nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã đƣợc thông quan. Theo tổ chức Hải quan thế giới và kinh nghiệm của một số nƣớc tiên tiến thì trong điều kiện hiện nay, việc duy trì và phát triển hệ thống kiểm tra sau thông quan là rất cần thiết, vì một hệ thống kiểm tra sau thông quan đủ mạnh có thể phát hiện và ngăn chặn mọi hình thức gian lận, đặc biệt là gian lận về trị giá hải quan. Kiểm tra sau thông quan là một hoạt động mới của Hải quan Việt Nam, từ khi Luật Hải quan năm 2001 có hiệu lực đến nay, mặc dù công tác KTSTQ đã đạt đƣợc một số kết quả bƣớc đầu, song so với yêu cầu của cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành Hải quan, đòi hỏi cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu pháp luật về kiểm tra sau thông quan trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn để KTSTQ thực sự trở thành một công cụ quản lý hiện đại trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. 2
  7. Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, tác giả luận văn chọn đề tài: “Pháp luật về kiểm tra sau thông quan, chuẩn mực quốc tế và thực tiễn áp dụng của Hải quan Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. Tình hình nghiên cứu : Trong nội bộ ngành cũng đã có một số bài viết bài tham luận và đề tài khoa học nghiên cứu vấn đề với cách tiếp cận khác nhau: - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải quan “Cơ sở lý luận thực tiễn, nội dung và tác nghiệp cụ thể nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan trong ngành Hải quan” của tác giả Mai Văn Huyên, Tổng cục Hải quan, năm 2002. Đề tài này đã có những nghiên cứu ban đầu về cơ sở lý luận, song do hoạt động KTSTQ mới đƣợc áp dụng nên chƣa có nhiều thực tế để đánh giá, cũng nhƣ chƣa đề cập đến kinh nghiệm của một số nƣớc, làm bài học kinh nghiệm cho Hải quan Việt Nam. - Sách “Nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan” của tác giả Phạm Ngọc Hữu, Tổng Cục Hải quan, năm 2003. Cuốn sách này đề cập đến một số nghiệp vụ cụ thể đƣợc biên soạn từ tài liệu của các nƣớc, chƣa có nghiên cứu cụ thể điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam để áp dụng cho phù hợp. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải quan “Các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra sau thông quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kế hoạch cải cách, phát triển hiện đại hoá Hải quan giai đoạn 2004- 2006” của Thạc sĩ Nguyễn Viết Hồng, Tổng cục Hải quan, năm 2005. Đề tài này nhằm đánh giá đƣợc thực trạng KTSTQ và đƣa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác KTSTQ. - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải quan “ Hoàn thiện mô hình kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam” của thạc sĩ Nguyễn Viết Hồng, Tổng cục Hải quan, năm 2006. Đề tài này chủ yếu nghiên cứu về mô hình tổ chức của hệ thống. 3
  8. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có đề tài nghiên cứu chuyên ngành nào về “Pháp luật về kiểm tra sau thông quan” Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu vấn đề pháp luật về kiểm tra sau thông quan một cách có hệ thống theo chuẩn mực quốc tế mà tiêu biểu là khuyến nghị của tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), tổ chức Hải quan Asean về hoạt động kiểm tra sau thông quan đƣợc hình thành trên cơ sở thu thập ý kiến đóng góp của cơ quan Hải quan các nƣớc thành viên, đồng thời thực hiện nghiên cứu, đánh giá về hoạt động kiểm tra sau thông quan của Hải quan Việt Nam, đƣa ra các kiến nghị nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật về kiểm tra sau thông quan ngày càng hiệu quả hơn. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau: (1) Nghiên cứu một cách hệ thống các quy định pháp luật quốc tế về kiểm tra sau thông quan, tiêu biểu là khuyến nghị của tổ chức hải quan ASEAN và kinh nghiệm thực hiện kiểm tra sau thông quan của một số quốc gia tiêu biểu. (2) Đánh giá thực trạng thực thi pháp luật kiểm tra sau thông quan của Việt Nam từ năm 2001 đến nay. (3) Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật kiểm tra sau thông quan nhằm thực hiện tốt yêu cầu tạo thuận lợi thƣơng mại và phát triển trong hoạt động hải quan. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về “Pháp luật kiểm tra sau thông quan” theo quy định của pháp luật quốc tế: Phân tích 4
  9. các khuyến nghị của tổ chức Hải quan Thế giới (WCO); khuyến nghị của tổ chức Hải quan Asean và kinh nghiệm của một số nƣớc; Pháp luật kiểm tra sau thông quan của Việt Nam; thực trạng thực thi và những giải pháp kiến nghị để hoàn thiện hệ thống pháp luật KTSTQ. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đề tài này dƣới góc độ của Luật quốc tế - Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở quy định quốc tế chuẩn mực WTO, WCO, tổ chức Hải quan ASEAN, chính sách pháp luật của nhà Nhà nƣớc liên quan đến công tác quản lý về Hải quan. Cơ sở thực tiễn: Các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của ngành Hải quan, các chƣơng trình, kế hoạch hợp tác khu vực và quốc tế, các dự án hợp tác của Hải quan Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu: phân tích, lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm. Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, quan điểm phát triển ngành của Nhà nƣớc nói chung và lãnh đạo ngành nói riêng, học tập có chọn lọc những ƣu việt của những nƣớc phát triển, có trình độ lập pháp cao Những đóng góp mới của luận văn: - Luận văn khái quát tổng thể các quy phạm pháp luật quốc tế điển hình về kiểm tra sau thông quan. - Rà soát lại các quy phạm pháp luật quốc gia điều chỉnh hoạt động kiểm tra sau thông quan, cung cấp các đánh giá tổng thể về những ƣu, nhƣợc điểm của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm tra sau thông quan. 5
  10. - Trên cơ sở những đánh giá đó, đƣa ra các giải pháp, kiến nghị đối với các nhà lập pháp, các nhà xây dựng chính sách về những thay đổi pháp lý phù hợp điều chỉnh hoạt động kiểm tra sau thông quan ngày càng đạt hiệu quả . Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu 03 chƣơng . Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung Chƣơng 2: Quy định pháp luật về kiểm tra sau thông quan Chƣơng 3: Thực trạng thực thi pháp luật và những giải pháp đề xuất hoàn thiện pháp luật về kiểm tra sau thông quan. 6
  11. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1 Sự hình thành khái niệm kiểm tra sau thông quan. Nền kinh tế thế giới đang xuất hiện ngày càng rõ một thị trƣờng hàng hoá, dịch vụ, đầu tƣ, tài chính tiền tệ chung “có tính chất thế giới”, trong đó phải nói tới lĩnh vực luôn đi trƣớc là thƣơng mại. Tạo thuận lợi trong thƣơng mại đòi hỏi phải xoá bỏ rào cản, chấp nhận tự do mậu dịch. Tạo thuận lợi thƣơng mại và đầu tƣ đƣợc đẩy mạnh thông qua việc cam kết cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan của các nƣớc tham gia WTO và trong nội bộ các khối mậu dịch tự do nhƣ AFTA, NAFTA… Quan hệ kinh tế thƣơng mại trên thế giới ngày càng phát triển đã thúc đẩy tăng trƣởng thƣơng mại thế giới. Hiệp định chung về Thƣơng mại và Thuế quan (GATT) ra đời năm 1947 với mục đích chính là tự do hoá thƣơng mại quốc tế, đặt ra các biểu thuế quan và các điều kiện trao đổi buôn bán, giúp các nƣớc thành viên ổn định giá cả và tăng cƣờng trao đổi hàng hoá với nhau. Nhờ dỡ bỏ những rào cản ngăn cách giữa các quốc gia, khối lƣợng thƣơng mại và đầu tƣ quốc tế giữa các quốc gia tăng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự tăng trƣởng kinh tế quốc tế và nâng cao phúc lợi con ngƣời. Hiệp định GATT 1947 và đến 1995 đƣợc kế thừa bởi Tổ chức Thƣơng mại Thế giới đã thống nhất về nguyên tắc huỷ bỏ các hàng rào thuế quan, đồng thời nhiều liên minh kinh tế khu vực thể hiện nguyện vọng loại bỏ từng bƣớc các rào cản bảo hộ thƣơng mại, nhƣng sự tồn tại và vai trò của Tổ chức Hải quan trong nền kinh tế thế giới không những không suy giảm mà còn đƣợc tăng cƣờng. 7
  12. Hoạt động hải quan là hoạt động can thiệp trực tiếp vào tính chất tự do hoá của nền thƣơng mại quốc tế, vì lực lƣợng hải quan đƣợc ví nhƣ "ngƣời gác cửa biên giới", là lực lƣợng trực tiếp thực hiện các chính sách mở cửa, giao lƣu, hội nhập của một Nhà nƣớc với các thực thể quốc tế ở bên ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia. Nhiệm vụ của hải quan ngày nay không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ truyền thống mà còn phải thực hiện đúng chính sách phát triển của mỗi nƣớc cũng nhƣ những quy định quốc tế về hải quan. Xu hƣớng giảm thuế quan có thể ảnh hƣởng đến nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu, nhƣng điều đó không có nghĩa là khối lƣợng công việc của tổ chức hải quan cũng giảm theo, mà ngƣợc lại còn nặng nề hơn do sự gia tăng của lƣu lƣợng giao dịch thƣơng mại quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập nền kinh tế, hải quan có vai trò quan trọng trong việc tạo thuận lợi thúc đẩy hoạt động thƣơng mại quốc tế phát triển, đồng thời thông qua hoạt động của mình bảo đảm an ninh thƣơng mại thế giới, bảo vệ sức khoẻ cộng đồng, môi trƣờng… Đây là yếu tố quan trọng cho cả nền kinh tế phát triển lẫn đang phát triển, bởi nó đóng góp vào tăng trƣởng xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của quốc gia trên thị trƣờng thế giới, thu hút vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và thúc đẩy sự tham gia của các loại hình doanh nghiệp vào thƣơng mại quốc tế. Trong bối cảnh thƣơng mại quốc tế ngày càng phát triển cả về khối lƣợng và các phƣơng thức giao dịch, cơ quan hải quan chuyển dần từ vai trò “thu thuế” sang vai trò “tạo thuận lợi thƣơng mại”. Do đó, trong thời kỳ tự do hoá thƣơng mại, tổ chức hải quan các nƣớc trên thế giới đều đƣợc mở rộng thêm chức năng bảo vệ an ninh kinh tế đối ngoại, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ sức khoẻ của cộng đồng, bảo vệ môi trƣờng… Với sự mở rộng chức năng đó, hoạt động của hải quan thời kỳ này tập trung vào các nhiệm vụ: kiểm tra, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh; thu thuế xuất nhập khẩu, 8
  13. chống buôn lậu và gian lận thƣơng mại; thống kê thƣơng mại; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới. Ngoài ra, tuỳ theo đặc điểm tình hình của từng thời kỳ và yêu cầu của mỗi quốc gia, hải quan một số nƣớc còn đƣợc giao thêm các nhiệm vụ khác. Đồng thời thông qua hoạt động nghiệp vụ, hải quan còn có nhiệm vụ thi hành những quy định khác liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh. Để tạo điều kiện cho hải quan thực hiện vai trò, chức năng và nhiệm vụ nặng nề đó, các nƣớc đã thực hiện chính sách pháp luật hải quan của quốc gia cho phù hợp với sự phát triển chung của thƣơng mại quốc tế. Yếu tố này yêu cầu một hệ thống luật kinh tế, luật thƣơng mại và luật hải quan hoàn thiện và rõ ràng. Đồng thời, hải quan mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều có các chƣơng trình cải cách, nhiều tổ chức quốc tế đƣa ra những biện pháp, các khuyến nghị để tạo thuận lợi cho phát triển thƣơng mại quốc tế. Đây chính là cơ sở hình thành các liên minh hải quan, hợp tác hải quan khu vực, hợp tác hải quan song phƣơng. Hợp tác hải quan quốc tế không nằm ngoài mục đích tăng cƣờng năng lực của cơ quan hải quan trong việc tạo thuận lợi thƣơng mại quốc tế và đảm bảo an ninh cho xã hội. Do đó hầu hết hải quan các nƣớc trên thế giới trong đó có Việt nam đều là thành viên của Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) Kiểm tra sau thông quan đƣợc hình thành và hoàn thiện dần cùng với việc hình thành và phát triển của khoa học về quản lý rủi ro (risk management) trong quá trình hoạt động của hải quan các nƣớc trên thế giới. Quản lý rủi ro nghĩa là không quản lý toàn bộ các lô hàng xuất nhập khẩu mà quản lý dựa trên việc đánh giá mức độ rủi ro của các thông tin về lô hàng, quản lý theo mức độ chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, rút ngắn quy trình, thời gian thông quan, hoặc thông quan trƣớc, sử dụng thông tin đến trƣớc để thông quan và giải phóng hàng hoá ngay khi hàng về tới cảng. 9
  14. Với yêu cầu của quá trình phát triển và hội nhập, Luật hải quan Việt Nam (Khoản 1a, Điều 15) quy định về các phương pháp kiểm tra hải quan, trong đó gồm cả kiểm tra sau thông quan, là phƣơng pháp quản lý rủi ro, cụ thể là: Kiểm tra hải quan đƣợc thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan. Hiện tại, Việt Nam đang vận hành song song hai phƣơng thức quản lý hải quan: phƣơng thức truyền thống (kiểm tra thủ công) và phƣơng thức hiện đại (quản lý rủi ro). Trong đó, phƣơng thức quản lý hải quan hiện đại dựa trên nền tảng của kỹ thuật quản lý rủi ro đã và đang đƣợc áp dụng phổ biến tại các lãnh thổ hải quan của các nƣớc trong khu vực và trên thế giới đƣợc Hải quan Việt Nam đánh giá sẽ là phƣơng tiện hữu hiệu, tạo nên bƣớc đột phá căn bản tăng cƣờng tính thuận lợi cho thƣơng mại quốc tế ở Việt Nam. Có nhiều khái niệm đƣợc đƣa ra trong quá trình nghiên cứu về kiểm tra sau thông quan: - Theo Công ƣớc về đơn giản khoá và hài hoà hoá thủ tục hải quan (Công ƣớc Kyoto sửa đổi 1999) của WCO - Tổ chức Hải quan thế giới (Phụ lục tổng quát, Chƣơng II, định nghĩa E3/F4): “Kiểm tra trên cơ sở kiểm toán là các biện pháp đƣợc cơ quan Hải quan tiến hành nhằm xác định tính chính xác và trung thực của khai báo hải quan thông qua việc kiểm tra các chứng từ, sổ kế toán, hệ thống kinh doanh và dữ liệu thƣơng mại của các bên có liên quan.” Theo WCO, kiểm tra sau thông quan là quy trình nghiệp vụ cho phép các viên chức hải quan kiểm tra tính chính xác của hoạt động khai hải quan bằng việc kiểm tra các hồ sơ, tài liệu ghi chép về kế toán và thƣơng mại liên quan đến hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá và tất cả các số liệu, thông tin, bằng chứng khác mà hiện tại đang đƣợc các đối tƣợng kiểm tra (cá nhân 10
  15. hoặc doanh nghiệp) trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động buôn bán quốc tế nắm giữ. - Theo tổ chức Hải quan Asean tại cuốn Cẩm nang hƣớng dẫn kiểm tra sau thông quan thì: “Kiểm tra sau thông quan là một biện pháp kiểm soát hải quan có hệ thống mà cơ quan hải quan thoả mãn về độ chính xác và trung thực của việc khai báo hải quan thông quan việc kiểm tra sổ sách, hồ sơ có liên quan, hệ thống kinh doanh, dữ liệu thƣơng mại của các nhân, các công ty tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào thƣơng mại quốc tế”. - Khái niệm về Kiểm tra sau thông quan theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Nghị định 102/2001/NĐ-CP ngày 21/12/2001: “Kiểm tra sau thông quan là hoạt động kiểm tra của cơ quan hải quan nhằm thẩm định tính chính xác, trung thực nội dung các chứng từ mà chủ hàng ngƣời đƣợc chủ hàng uỷ quyền, tổ chức, cá nhân trực tiếp xuất khẩu, nhập khẩu đã khai, nộp, xuất trình với cơ quan hải quan, để ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, gian lận thuế, vi phạm chính sách quản lý xuất nhập khẩu đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đã đƣợc thông quan” 1.2. Cơ sở thực tiễn và pháp lý để hải quan Việt nam thực hiện kiểm tra sau thông quan trong tạo thuận lợi cho thƣơng mại quốc tế 1.2.1. Cơ sở thực tiễn: Ngành hải quan là cơ quan giữ nhiệm vụ trọng trách gác cửa biên giới quốc gia góp phần bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nƣớc phát triển, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong điều kiện của hội nhập. Lĩnh vực hải quan là một trong những lĩnh vực quan trọng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của bất kỳ quốc gia nào. Ngành Hải quan Việt Nam ra đời từ khá sớm, ngay sau khi nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đƣợc thành lập năm 1945. Là một nƣớc có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở ngã tƣ của các mối quan hệ quốc tế năng động, đa dạng, vừa 11
  16. gắn liền với lục địa Á - Âu, vừa tiếp giáp với Thái Bình Dƣơng, có đƣờng biên giới quốc gia trên đất liền trải dài 4.610 km giáp với ba nƣớc (Trung Quốc: 1.406 km, Lào: 2.067 km, Campuchia: 1.137 km) với 28/64 tỉnh, thành giáp biển trải trên 3.260 km chiều dài đƣờng bờ biển, Việt Nam có đầy đủ cơ hội để giao lƣu kinh tế mở rộng với các quốc gia láng giềng, trong khu vực và trên thế giới, hợp tác đa phƣơng và song phƣơng trên nhiều lĩnh vực. Song hành với thƣơng mại phát triển, là tình hình vi phạm pháp luật, buôn lậu, gian lận thƣơng mại gia tăng, nguy cơ khủng bố đe doạ, với diễn biến phức tạp và các thủ đoạn ngày một tinh vi hơn theo sự phát triển này càng cao của khoa học kỹ thuật. Vậy trƣớc yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại, vừa phải tạo thuận lợi tối đa cho thƣơng mại quốc tế, vừa bảo đảm an ninh quốc gia và thực hiện trọng trách là “ngƣời lính biên phòng trên mặt trận kinh tế”, cần thiết phải có một biện pháp quản lý hải quan mới. Sự cần thiết của hoạt động kiểm tra sau thông quan trong việc tạo thuận lợi thƣơng mại quốc tế và trƣớc yêu cầu hội nhập quốc tế đƣợc thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất, do yêu cầu của hội nhập quốc tế: Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành xu thế tất yếu khách quan, có những tác động hết sức sâu sắc tới hầu hết mọi mặt của đời sống kinh tế chính trị xã hội của từng nƣớc và toàn bộ các mối quan hệ quốc tế. Hội nhập kinh tế khu vực và song phƣơng đang dỡ bỏ dần các rào cản về thuế quan và phi thuế quan giữa các thành viên, tạo nên khuôn khổ kinh tế và quản lý phù hợp với tiến trình tự do hoá đa phƣơng, góp phần phát triển hệ thống thƣơng mại đa phƣơng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Hội nhập kinh tế khu vực và song phƣơng luôn là một hành động tự giác, tích cực của các thành viên nhằm phối hợp và điều chỉnh các chƣơng trình phát triển kinh tế với 12
  17. những thoả thuận có đi có lại của các nƣớc thành viên. Nó là bƣớc quá độ trong quá trình vận động của nền kinh tế thế giới theo xu hƣớng toàn cầu hoá. Thứ hai, do sự gia tăng thực tế của lưu lượng hàng hoá Lƣợng hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng qua các năm. Trong quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, hoạt động thƣơng mại quốc tế của các nƣớc ngày càng phát triển. Sau hơn 20 năm thực hiện chủ trƣơng đổi mới, kinh tế Việt Nam, đã có những bƣớc phát triển rõ rệt cả về lƣợng và về chất. Việt Nam đang từng bƣớc giao lƣu với các nền kinh tế trong khu vực ASEAN cũng nhƣ các nền kinh tế khác trên thế giới. Theo đó, kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng tăng. Số liệu thống kê cho thấy, trong 10 năm qua kim ngạch hàng hoá XNK tăng, tốc độ tăng từ 20% đến 25%. Do số lƣợng doanh nghiệp và giao dịch rất lớn, cơ quan Hải quan cũng không thể kiểm tra đƣợc hết tất cả. Vì vậy, kế hoạch kiểm tra sẽ đƣợc lập trên cơ sở phân tích rủi ro theo hệ thống dữ liệu sẵn có. Kiểm tra đột xuất và kiểm tra sau thông quan đƣợc thực hiện đối với những trƣờng hợp có độ rủi ro cao và cần kiểm tra khi hàng hoá đã đƣợc thông quan. Thứ ba, do yêu cầu của việc thực hiện các cam kết quốc tế Việt Nam phải thực hiện các cam kết, một trong những cam kết đó là phải tiến hành cắt giảm thuế quan hàng năm. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố số thu của ngành Hải quan không ngừng tăng qua các năm. Dự kiến trong những năm tới số thu của ngành Hải quan vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể trong số thu của ngân sách Nhà nƣớc. Ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế là một phần trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tham gia vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu chính là nhân tố giúp cho các nƣớc tạo ra những chuyển biến mạnh trong nền kinh tế, từ đó đẩy nhanh tiến trình cải cách và hội nhập quốc tế. Nhƣng điều đó không có nghĩa là tham gia mọi định chế và tổ chức bằng mọi giá mà phải căn cứ vào tình hình cụ thể của đất 13
  18. nƣớc để xác định tham gia hiệp định nào, vào lúc nào. Để chủ động, vững chắc trong hội nhập, mỗi quốc gia cần xây dựng một chiến lƣợc tổng thể lâu dài bao gồm những định hƣớng, chính sách cho quá trình tham gia vào các thể chế liên kết - hợp tác kinh tế toàn cầu và khu vực. Khi đã cam kết rồi, các quốc gia buộc phải thực hiện, tuân thủ các quy định của tổ chức mà mình là thành viên, phải chuyển hoá các quy định pháp luật quốc tế mà mình cam kết thành những quy định của pháp luật quốc gia. Hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật về hải quan nói riêng phải đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là vấn đề quan trọng và có ý nghĩa hàng đầu không chỉ trong lĩnh vực hải quan mà trong toàn bộ tiến trình hội nhập kinh tế khu vực, quốc tế của đất nƣớc. Pháp luật quốc gia phải phù hợp với những cam kết quốc tế, làm hài hoà pháp luật quốc gia với môi trƣờng pháp luật trên thế giới mà trƣớc hết là pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đồng nhất hệ thống pháp luật một quốc gia với các hệ thống pháp luật khác, kể cả pháp luật quốc tế phổ cập. Thứ tư, do yêu cầu của công tác cải cách hiện đại hoá Cải cách thủ tục hải quan không ngoài mục đích hƣớng tới tạo thuận lợi cho thƣơng mại, đầu tƣ quốc tế phát triển. Các thủ tục liên quan đến quy trình hàng hoá cần đơn giản, minh bạch và dễ hiểu cho cộng đồng doanh nghiệp. Việc quy định thủ tục hải quan cần đƣợc dựa trên việc đánh giá rủi ro và mục tiêu kiểm tra có lựa chọn đối với doanh nghiệp và hàng hoá có rủi ro cao. Các thủ tục hải quan cần bảo đảm: Tất cả hàng hoá đƣợc khai báo và chịu sự kiểm soát của cơ quan hải quan; Giảm các bƣớc quy trình thông quan tới mức tối thiểu; Giải phóng hàng khỏi sự kiểm soát của hải quan trong thời gian ít nhất có thể; Đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế cho Nhà nƣớc ; Đảm bảo sự công bằng trong quản lý hải quan ; giảm thời gian làm thủ tục thông quan cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, 14
  19. giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Để thực hiện những yêu cầu cải cách nêu trên, cần thiết phải có một hình thức quản lý hải quan mới. Thứ năm, do yêu cầu của phương pháp quản lý mới Mỗi quốc gia phải tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho thƣơng mại và đầu tƣ phát triển, cùng với yêu cầu của tiến trình cải cách thủ tục hành chính đòi hỏi phải đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhất là thời gian làm thủ tục hải quan tại cửa khẩu, đảm bảo cho thông quan hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu đƣợc nhanh chóng, giảm phiền hà, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu. Muốn thực hiện đƣợc điều đó, chúng ta phải thiết lập hệ thống kiểm tra, kiểm soát thích hợp nhằm vừa đảm bảo quản lý đƣợc, vừa không gây cản trở cho thƣơng mại. Kiểm tra phải dựa trên cơ sở phân tích thông tin để đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, mức độ rủi ro vi phạm liên quan đến hàng hoá xuất, nhập khẩu, hành khách xuất, nhập cảnh để loại trừ các đối tƣợng không cần thiết phải kiểm tra Kiểm tra dựa trên các phƣơng tiện kỹ thuật kiểm tra, giám sát hiện đại tại các địa điểm tập trung Hƣớng hoạt động kiểm tra sau thông quan bổ sung cho kiểm tra trong thông quan nhằm thẩm định sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp; áp dụng quản lý rủi ro để phân loại hồ sơ, phân loại doanh nghiệp Thứ sáu, do kinh nghiệm của hải quan các nước Kinh nghiệm thực tế của hải quan các nƣớc cho thấy, nếu chỉ dừng công việc kiểm tra của cơ quan Hải quan tại cửa khẩu thì không những không thể phát hiện và ngăn chặn các trƣờng hợp cố ý gian lận mà còn gây phiền hà, ách tắc cho hoạt động xuất nhập khẩu. Về mặt lý luận, khi hoạt động thƣơng mại hàng hoá phát triển từ giản đơn đến phức tạp, tƣơng ứng với nó, hình thức quản lý nhà nƣớc về hải quan mà biểu hiện cụ thể là thủ tục kiểm tra, giám sát hải quan cũng phải thay đổi cho kịp với yêu cầu quản lý. 15
  20. Việt Nam đang từng bƣớc cải cách, phát triển và hiện đại hoá ngành hải quan một cách toàn diện, chuyển từ phƣơng pháp quản lý thủ công hiện nay sang phƣơng pháp quản lý hải quan hiện đại, trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, phƣơng pháp quản lý rủi ro, áp dụng các chuẩn mực của WCO và khu vực. 1.2.2. Cơ sở pháp lý: Hoạt động quản lý nhà nƣớc về Hải quan nhằm thực hiện tự do hoá thƣơng mại trong WTO sẽ không thể thu đƣợc hiệu quả kép: vừa tạo thuận lợi nhiều hơn vừa bảo đảm an ninh tốt hơn, nếu nhƣ thiếu đi khung pháp lý đủ hoàn chỉnh điều chỉnh các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá qua biên giới. Trong phần cơ sở pháp lý tại luận văn này, tác giả sẽ trình bày hệ thống các văn bản quốc tế và quốc gia mang tính cơ bản, chủ chốt nhất liên quan tới kiểm tra sau thông quan. 1.2.2.1. Pháp luật quốc tế: Pháp luật điều chỉnh hoạt động hải quan ("pháp luật về hải quan") là một trong những hành lang pháp lý quan trọng là nhân tố quyết định trực tiếp tới mức độ hiệu quả trong kiểm tra, kiểm soát, giám sát để bảo đảm và tăng cƣờng thuận lợi trong các hoạt động giao thƣơng quốc tế của mỗi một quốc gia. Phạm vi tác động của nhân tố này biểu hiện trên các phƣơng diện nhƣ: thủ tục hải quan , chính sách mặt hàng, chính sách quản lý đối với từng loại hình xuất - nhập khẩu,… Thông qua pháp luật hải quan, hàng hoá nhập khẩu vào hoặc xuất khẩu từ lãnh thổ Việt Nam đƣợc quản lý và kiểm soát theo yêu cầu của từng quốc gia. Cũng xuất phát từ tính chất thƣờng trực là có yếu tố nƣớc ngoài trong các quan hệ pháp luật về hải quan nên pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này càng cần phải tiệm cận tốt yêu cầu về hội nhập và hài hòa với hệ thống thƣơng mại thế giới, trong đó việc tham gia và chấp nhận các luật lệ của thể chế hợp tác 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
44=>2