intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và những kiến nghị với Việt Nam

Chia sẻ: Chuheodethuong10 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

21
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục ở một số nước Đông Nam Á, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về xây dựng mô hình cơ sở giáo dục tư thục trên cơ sở học tập mô hình các nước Đông Nam Á đã thành công –mô hình giáo dục tư thục mà các hoạt động đầu tư, hoạt động quản trị nhà trường được tách bạch rõ ràng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và những kiến nghị với Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM DUNG PH¸P LUËT VÒ M¤ H×NH C¥ Së GI¸O DôC T¦ THôC CñA MéT Sè N¦íC §¤NG NAM ¸ Vµ NH÷NG KIÕN NGHÞ VíI VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM DUNG PH¸P LUËT VÒ M¤ H×NH C¥ Së GI¸O DôC T¦ THôC CñA MéT Sè N¦íC §¤NG NAM ¸ Vµ NH÷NG KIÕN NGHÞ VíI VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Kim Dung
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC ....................................................... 13 1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ sở giáo dục tƣ thục .................................. 13 1.2. Mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục ....................................................... 15 1.3. Khái quát pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục ............... 16 1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục ................................................................................................. 16 1.3.2. Nội dung của pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục ............... 17 Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 21 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC CỦA MỘT SỐ NƢỚC ĐÔNG NAM Á VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM .........................22 2.1. Thực trạng pháp luật về giáo dục tƣ thục của Singapore ............ 22 2.2. Thực trạng pháp luật về giáo dục tƣ thục của Malaysia .............. 34 2.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục ở các nƣớc Đông Nam Á.............................................. 42 Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 44 CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC ................................................................................ 45
  5. 3.1. Thực trạng pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục tại Việt Nam............................................................................................ 45 3.2. Định hƣớng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục ....................................................... 70 3.2.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật Việt nam về mô hình cơ sở giáo dục tư thục .................................................................................. 70 3.2.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về mô hình cơ sở giáo dục tư thục .......................................................................................... 71 Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 75 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập, việc thúc đẩy đầu tư trong mọi lĩnh vực, đặc biệt đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đã và đang được Chính phủ quan tâm. Nhiều chính sách mới cần được ban hành để thu hút đầu tư nước ngoài cũng như phù hợp với tốc độ phát triển của nền kinh tế. Các văn bản pháp luật ban hành trước đây như Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục Đại học 2012 dường như đã không còn phù hợp. Các quy định trong luật này như loại hình cơ sở giáo dục tư thục, cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài, vấn đề nguồn vốn chưa được định danh rõ ràng cũng như chưa có các quy định về phân quyền quản trị tài chính, tài sản với quản trị giáo dục. Trong khi đó, với tốc độ phát triển của nền kinh tế và nhu cầu của đông đảo người dân, các cơ sở giáo dục tư thục có vốn đầu tư trong nước và cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều, tạo nên xu thế du học tại chỗ. Nhưng các mô hình cơ sở giáo dục tư thục phát triển theo hình thức tự phát, chưa có mô hình chuẩn của một cơ sở giáo dục tư thục để định danh phần tài sản góp vốn, chưa quy định rõ quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, quyền và trách nhiệm của hội đồng trường, mối quan hệ giữa nhà đầu tư và hội đồng trường để điều chỉnh các hoạt động giáo dục. Nhìn ra các nước trên thế giới, đặc biệt là hệ thống giáo dục tư thục ở Singapore, Malaysia, họ có một hệ thống các văn bản pháp lý để điều chỉnh việc thành lập, quản trị và hoạt động của cơ sở giáo dục tư thục. Các văn bản pháp lý này có những quy định cụ thể để hướng dẫn nhà đầu tư muốn đầu tư vào lĩnh vực giáo dục là phải thành lập một pháp nhân công ty để pháp nhân này là chủ sở hữu của cơ sở giáo dục tư thục. Pháp nhân công ty này phải tuân theo các quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh. Sau khi pháp nhân công ty được thành lập thì pháp nhân này sẽ chịu trách 1
  7. nhiệm tuân thủ các quy định về giáo dục khi thành lập, quản trị và vận hành cơ sở giáo dục tư thục. Vậy, pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục nào hiệu quả để Việt nam có thể học tập để điều chỉnh, định hướng và quản lý các cơ sở giáo dục tư thục tại Việt nam nhằm tránh các tranh chấp về vốn đầu tư, tài sản góp vốn, đảm bảo chất lượng đào tạo đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế của Việt nam ? Để xây dựng được một hệ thống văn bản pháp lý quản lý giáo dục hiệu quả, đặc biệt đối với loại hình cơ sở giáo dục tư thục thì các nhà làm luật cần phải tham khảo, học tập từ hệ thống pháp luật về giáo dục ở các nước khác như Singapore, Malaysia, đặc biệt các quy định về thành lập, quản trị và hoạt động của các cơ sở giáo dục tƣ thục hay còn gọi là cơ sở giáo dục ngoài công lập. Trong những năm gần đây khi mà nền kinh tế phát triển, nhu cầu học tập ngày càng nâng cao, nhiều cha mẹ học sinh tìm đến các trường tư thục với mong muốn con em mình được hưởng một chế độ giáo dục năng động, hiện đại, đồng thời có cơ hội được học các chương trình quốc tế mà các trường tư thục được cấp phép giảng dạy. Nhiều trường tư thục có vốn đầu tư trong nước và cả vốn đầu tư nước ngoài được thành lập. Ngoài khía cạch tích cực là khối trường tư thục đã đóng góp rất lớn vào hệ thống giáo dục quốc dân, giảm thiểu gánh nặng cho các trường công lập, giảm số học sinh du học nước ngoài, thì những bất cập, những tranh chấp đến từ mô hình tư thục bắt đầu lộ diện và có một sự ảnh hưởng không nhỏ tới học sinh. Vấn đề quản lý nhà nước được đặt ra là phải quản lý hoạt động của khối trường tư thục sao cho vừa đảm bảo phát triển và vừa đảm bảo quản lý nhà nước. Không để cho quản lý nhà nước trở thành rào cản đầu tư. Vướng mắc đầu tiên xuất phát từ việc mô hình trường tư thục là một loại hình kinh doanh giáo dục (Trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS - General Agreement on Trade in 2
  8. Services) mà Việt Nam đã ký kết khi tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng đã xếp giáo dục và đào tạo vào lĩnh vực dịch vụ), nhưng các vấn đề liên quan đến đầu tư kinh doanh trong giáo dục chưa được quy định đủ trong các văn bản pháp lý điều chỉnh các hoạt động này. Các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động giáo dục tư thục vẫn còn sơ sài và chưa bao phủ hết các hoạt động thực tiễn. Chính vì vậy, dẫn tới sự lách luật, lạm dụng luật hoặc có một số hoạt động vì chưa có khung pháp lý nên không thể điều chỉnh các hoạt động này. Nổi cộm trong các tranh chấp phát sinh từ việc chưa có đủ khung pháp lý điều chỉnh là các tranh chấp về quyền điều hành nhà trường, mối liên hệ giữa quyền sở hữu vốn của nhà đầu tư và quyền quản trị nhà trường. Đây là loại hình kinh doanh có điều kiện nhưng vốn của nhà đầu tư không được định danh bằng một văn bản pháp lý có xác nhận của cơ quan nhà nước như các hoạt động đầu tư kinh doanh khác. Toàn bộ các quy định hiện hành quy định đầu tư vào giáo dục tư thục chỉ đề cập đến vốn góp của nhà đầu tư tư nhân mà không có quy định việc định danh nguồn vốn, việc biểu quyết của nhà đầu tư trường tư thục theo tỷ lệ vốn góp được áp dụng theo hình thức công ty TNHH hay công ty cổ phần? Trong toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động giáo dục tư thục đều không có bất kỳ điều khoản nào quy định về việc đầu tư vào giáo dục, mô hình đầu tư vào giáo dục của nhà đầu tư tư nhân hay còn gọi là giáo dục tư thục là loại mô hình nào, vậy vấn đề cấp thiết đặt ra là phải bổ sung, xây dựng các văn bản pháp lý để điều chỉnh các hoạt động này. Luật giáo dục 2019 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2019 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học 2018 đã được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2018. Trong luật mới này, đã có những sửa đổi, bổ sung tạo nên hành lang pháp lý để quản lý hoạt động giáo dục tư thục. Sau luật, các nghị định, thông tư hướng dẫn sẽ được chuẩn bị để ban hành, các nội 3
  9. dung này thực sự cần sát thực tế, đúng, đủ để loại bỏ những sự bất cập đang xảy ra trong hệ thống giáo dục tư thục hay còn gọi là ngoài công lập. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và những kiến nghị với Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ với mục đích hoàn thiện pháp luật về giáo dục tư thục hiện nay ở Việt nam cả về phương diện nghiên cứu khoa học và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Ở các nước Đông nam Á, các cơ sở giáo dục tư thục phát triển rất mạnh mẽ và đã có những đóng góp lớn cho hệ thống giáo dục công lập như Singapore, Malaysia. Việc thành lập, quản trị và hoạt động của các cơ sở giáo dục tư thục được điều chỉnh bởi đạo luật quy định riêng cho các cơ sở giáo dục tư thục. Về cơ sở giáo dục tư thục ở các nước Đông Nam Á đã có một số công trình khoa học đề cập đến, ví dụ theo bài báo nghiên cứu “Để trở thành trung tâm giáo dục thì cần phải thay đổi quản trị và cải tổ chính sách ở Malaysia và Singapore” của Mok, K.H (2008) trên tạp chí quốc tế về cải cách giáo dục xuất bản ngày 1/7/2008. Bài viết đề cập đến việc Chính phủ Malaysia đã cương quyết trong việc cải tổ và thay đổi chính sách quản trị theo xu hướng doanh nghiệp hoá để nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt ở các trường đại học công lập. Bắt đầu từ tháng 1 năm 1998, Đại học Malay, trường đại học lâu đời nhất ở Malaysia, đã được hợp nhất cùng với tám trường đại học công lập khác trong nước. Trước khi việc hợp nhất diễn ra, thì việc điều hành tất cả các trường đại học công lập được thực hiên theo mô hình định hướng quản lý nhà nước. Bộ Giáo dục quản lý các trường đại học theo cơ chế tập trung. Các trường không có nhiều tự chủ do theo cơ chế nhà nước. Tuy nhiên khi chính sách thay đổi theo Luật Đại học sửa đổi, các trường đại học được hợp nhất dự kiến sẽ gây quỹ thông qua tất cả các loại 4
  10. kênh (bài báo về “tầm nhìn 2020” do Tác giả M. N. N. Lee đăng trong Tạp chí giáo dục ở Malaysia ngày 9.8.2010), gần giống như điều hành một doanh nghiệp và không chỉ ở trong tháp ngà (như trước đây). Các trường đại học công lập, sau khi thành lập ở Malaysia, được cho là đa dạng hóa nguồn tài chính bằng cách thu học phí của sinh viên, tăng số lượng sinh viên, phân nhánh hợp tác chặt chẽ với các lĩnh vực kinh doanh và công nghiệp, và cung cấp các khóa học chuyên nghiệp, tư vấn và dịch vụ cộng đồng. Chính phủ Malaysia tin rằng việc trao thêm quyền tự chủ và sự linh hoạt cho quản trị và tài chính đại học công sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh toàn cầu của giáo dục đại học; do đó, vào cuối những năm 1990, chính phủ đã đưa ra những cải cách quản trị mới cho các trường đại học công lập theo đường lối tập đoàn – hình thức công ty. Lấy trường đại học Sains Malaysia làm ví dụ, cấu trúc quản trị mới của trường đại học này bao gồm Hội đồng quản trị (bao gồm tám thành viên), chủ tịch, hiệu trưởng, đại diện của cộng đồng địa phương, hai đại diện của chính phủ và ba người khác từ khu vực tư nhân. Hội đồng quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất của trường đại học trong việc quyết định các hướng phát triển và chiến lược chính cho trường đại học. Với quyền quyết định mạnh mẽ dựa trên Hội đồng quản trị và hiệu trưởng, trường đại học hiện đang hoạt động như một công ty kinh doanh lớn. Mô hình quản trị mới thực sự hữu ích trong quản trị trường đại học, đặc biệt là tác động của thay đổi quản trị từ khía cạnh doanh nghiệp. Đồng hành với việc trao quyền và để duy trì trách nhiệm, Bộ Giáo dục Đại học đã thành lập một đơn vị kiểm toán để tiến hành đánh giá độc lập về hiệu suất đại học, cụ thể là: tự chủ, quy trình kiểm toán và xếp hạng đại học – mô hình này đã định hình cơ chế quản trị giáo dục đại học ở Malaysia (tác giả Morshidi & Abdul, R.A xuất bản tháng 1 năm 2008 về Chính sách cho giáo dục đại học trong thế giới thay đổi) 5
  11. Bài nghiên cứu trên cho thấy, trước khi có được mô hình quản trị đại học theo xu hướng mô hình tập đoàn thì Chính phủ Malaysia đã thấy những khuyết thiếu trong việc quản trị tập trung, không trao quyền tự chủ về tài chính, việc quản trị tài chính theo cơ chế nhà nước sẽ dẫn tới những bó buộc trong quá trình phát triển và quản trị hoạt động của các trường đại học. Cũng tại bài viết trên Tạp chí quốc tế về cải cách giáo dục, Mok.H.K cũng đề cập đến những cải tổ về mặt quản trị, đặc biệt việc thay đổi mô hình quản trị đại học của Singapore. Perry Lim, giám đốc giáo dục đại học của Bộ Giáo dục Singapore cho biết rằng sẽ mất vài năm hiện thực hóa mục tiêu kết hợp các trường đại học quốc gia. Khi được hỏi về lý do chính đằng sau cải cách, Lim nói rõ rằng việc thành lập các trường đại học quốc gia ở Singapore không phải do tài chính, bởi vì tất cả các trường đại học hợp nhất vẫn được chính phủ tài trợ rất nhiều. Lý do chính đằng sau việc thành lập là quản trị, với một ý định mạnh mẽ để làm cho các trường đại học quốc gia cũ có đủ năng lực cạnh tranh. Cụ thể, sau khi các trường đại học quốc gia được thành lập, họ có thể đáp ứng thị trường toàn cầu đang thay đổi theo cách chủ động hơn. Thay vì quản trị theo cơ chế nhà nước, tất cả các trường đại học hợp nhất sẽ được điều hành như các tập đoàn kinh doanh. Như vậy, quản trị đại học đã được linh hoạt hơn trong việc điều hành hoạt động của họ, và quyền tự chủ và quyền quyết định hơn được trao nhiều hơn cho ban quản trị trong các vấn đề nhân sự và tài chính. Mô hình quản trị mà Chính phủ Singapore cải tổ là trao quyền tự chủ nhiều hơn cho đại học công lập và cho phép cơ chế quản trị theo xu hướng tập đoàn kinh doanh, giống như Mô hình quản trị đại học của Malaysia. Mô hình này được áp dụng cho các cơ sở giáo dục đại học công lập và tư thục. Ở Việt nam, mô hình quản trị của các cơ sở giáo dục công lập vẫn đang theo cơ chế quản lý nhà nước tập trung. Nhiều các cơ sở giáo dục tư thục được 6
  12. thành lập nhưng chưa có chính sách cụ thể hướng dẫn mô hình quản trị, đặc biệt về vấn đề quản trị phần vốn đầu tư, quản trị hoạt động theo hướng tập đoàn kinh doanh như Singapore và Malaysia. Việt nam cũng chưa có riêng một luật giáo dục tư thục để điều chỉnh cụ thể hoạt động quản trị của cơ sở giáo dục như Singapore và Malaysia. Tác giả thấy rằng cần có các nghiên cứu chuyên sâu về nguồn vốn đầu tư của tư nhân cho giáo dục tư thục và phương thức quản trị, điều hành nguồn vốn. Đây là vấn đề chưa được đề cập tới trong bất cứ văn bản pháp lý nào, và cũng chưa có bất kỳ công trình nghiên cứu nào mặc dù vấn đề quản trị nguồn vốn đầu tư tại các cơ sở giáo dục tư thục đã xảy ra rất nhiều các tranh chấp vì không có hành lang pháp lý điều chỉnh. Thực tế, chỉ có một số bài viết đề cập đến vấn đề tự chủ đại học như bài viết của giáo sư Phạm Đỗ Nhật Tiến về “kinh nghiệm quốc tế trong việc xây dựng các quy định pháp lý về tự chủ đại học” và bài viết “tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học ở Việt nam: của PGS.TS Lê Trung Thành và TS Đoàn Xuân Hậu của Đại học Kinh tế quốc dân trình bầy trong hội thảo về “ góp ý xây dựng luật giáo dục đại học” vào tháng 5 năm 2018 tại Uỷ ban văn hoá thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội. Một trong những nội dung tự chủ là tự chủ tài chính nhưng mới chỉ giới hạn đến tự chủ tài chính trong đại học công lập, chứ chưa nêu lên vấn đề quản trị nguồn vốn đầu tư ở cơ sở giáo dục tư thục. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về giáo dục tư thục là những việc cần làm ngay để tạo sự phát triển ổn định cho giáo dục. Đặc biệt nội dung về quản trị nguồn vốn đầu tư tại các cơ sở giáo dục tư thục. Các quy định pháp luật này cần rõ ràng và minh bạch thì mới giúp ổn định nguồn vốn đầu tư và định hướng đầu tư trong bối cảnh cần thu hút thêm đầu tư tư nhân vào giáo dục, đảm bảo giáo dục tư thục hoàn thành vai trò quan trọng của 7
  13. mình là giảm thiểu gánh nặng cho công lập và đóng góp cho sự phát triển của giáo dục nói chung. 3. Đối tƣợng, phạm vi, mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu pháp luật của các nước Đông Nam Á cụ thể là Singapore và Malaysia về việc thành lập, quản trị và hoạt động của các cơ sở giáo dục tư thục, đồng thời nghiên cứu pháp luật hiện hành của Việt nam về giáo dục tư thục để có những kiến nghị đóng góp sửa đổi pháp luật điều chỉnh hoạt động giáo dục tư thục ở Việt nam. Ngoài ra, luận văn nghiên cứu thực trạng mô hình của các cơ sở giáo dục tư thục của Việt nam (ở Hà nội và thành phố HCM), cụ thể là việc thành lập (mô hình tổ chức vốn đầu tư, phân định quyền sở hữu), quản trị (quyền điều hành, quyền quản trị nhà trường), và hoạt động của cơ sở giáo dục tư thục. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực trạng thành lập, quản trị và hoạt động của cơ sở giáo dục tư thục ở một số nước Đông Nam Á và Việt nam, trong đó tập trung vào các bất cập trong việc thành lập và quản trị cơ sở giáo dục tư thục ở Việt Nam khi chưa có đủ văn bản pháp luật điều chỉnh gồm: - Xác định quyền sở hữu nguồn vốn đầu tư tại các trường tư thục có vốn đầu tư trong nước khi nhà đầu tư xin cấp phép thành lập cơ sở giáo dục tư thục. - Hoạt động quản trị nguồn vốn đầu tư của nhà đầu tư và quản trị hoạt động đào tạo. 3.3. Mục đích nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả phân tích một số vấn đề lý luận về mô hình cơ sở giáo dục tư thục và pháp luật của một số các nước 8
  14. Đông Nam Á như Singapore, Malaysia và quy định về mô hình giáo dục tư thục để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt nam về mô hình giáo dục tư thục. 4. Những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục ở một số nước Đông Nam Á, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về xây dựng mô hình cơ sở giáo dục tư thục trên cơ sở học tập mô hình các nước Đông Nam Á đã thành công –mô hình giáo dục tư thục mà các hoạt động đầu tư, hoạt động quản trị nhà trường được tách bạch rõ ràng. Như vậy, các tranh chấp không đáng có về quyền điều hành, cơ chế quản trị đang xảy ra tại các mô hình giáo dục tư thục hiện hành sẽ không còn. Quyền lợi người học được đảm bảo cao nhất. Khi mà hệ thống giáo dục tư thục có được một hành lang pháp lý vững chắc thì sẽ giúp các hoạt động của loại hình này hoạt động ổn định, không có tranh chấp về quyền điều hành hoặc quản trị phần vốn (mô hình cơ sở giáo dục công lập có nguồn vốn của nhà nước thì sẽ không gặp phải sự tranh chấp nguồn vốn như tư thục). Khi hoạt động của cơ sở giáo dục tư thục ổn định thì hệ thống giáo dục tư thục mới có thể hoàn thành tốt vai trò giảm thiểu gánh nặng cho giáo dục công lập, đáp ứng được nhu cầu của người dân trong các loại hình học tập. Kinh tế xã hội sẽ phát triển mạnh khi đất nước có một nền giáo dục phát triển mạnh. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp luận Phương pháp luận của bất kỳ khoa học nào cũng là lập trường xuất phát điểm để tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cung cấp cho việc nghiên cứu của bất kỳ ngành khoa học nào các quy luật, nguyên tắc, phạm trù, khái niệm của triết học duy vật 9
  15. biện chứng và triết học duy vật lịch sử từ đó giúp ta có khả năng nhận thức được một cách chung nhất, khái quát nhất và đầy đủ nhất. Khi nghiên cứu vấn đề khoa học, cần phải xuất phát từ hai quan điểm: - Quan điểm duy vật: vấn đề cần phải được nghiên cứu trong mối quan hệ với đời sống vật chất của xã hội, coi đó là nguồn gốc sâu xa của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển. - Quan điểm biện chứng: nghiên cứu vấn đề đặt trong sự vận động, phát triển, biến đổi, trong những mối liên hệ biện chứng và những mâu thuẫn vốn có của nó. Như vậy, khi áp dụng phương pháp luận vào nghiên cứu vấn đề “pháp luật về tổ chức mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và kiến nghị đối với Việt nam” cần phải xem xét các yếu tố sau: Thứ nhất, học tập pháp luật các nước Đông Nam Á quy định về mô hình cơ sở giáo dục tư thục để từ đó định hướng mô hình cơ sở giáo dục tư thục Việt nam. Quy định về mô hình phải ở trong sự phát triển của nền kinh tế và pháp luật trong từng thời kỳ lịch sử. Vì thế khi nghiên cứu đề xuất mô hình cơ sở giáo tư thục của Việt nam phải gắn với các điều kiện cụ thể, tức là phải cân nhắc tất cả những đặc điểm và điều kiện đặc thù của sự tồn tại, phát triển của thực tiễn trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế, của các quan hệ xã hội … Thứ hai, vấn đề về quản trị cơ sở giáo dục phải đặt trong mối quan hệ biện chứng với các yếu tố quy định chúng. Trong đó pháp luật là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng của xã hội, bởi vậy, pháp luật quy định về mô hình quản trị của cơ sở giáo dục tư thục phải được xem xét trong mối quan hệ giữa nhà đầu tư và hội đồng trường - yếu tố quyết định nó, Bên cạnh đó, các yếu tố về quản trị nhà trường, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, của hội đồng 10
  16. trường, của hiệu trưởng cũng cần nghiên cứu để xây dựng hành lang pháp lý nhằm đảm bảo phát triển giáo dục tư thục trong khuôn khổ pháp luật, vì vậy khi nghiên cứu cần phải chú ý đến tất cả yếu tố đó. Phương pháp phân tích tổng hợp Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu các ngành khoa học nói chung và vận dụng trong nghiên cứu đề tài “pháp luật về tổ chức mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và kiến nghị đối với Việt nam nói riêng”. Phân tích là phương pháp phân chia cái toàn thể ra thành những yếu tố cấu thành đơn giản hơn. Nhờ phương pháp này, các góc cạnh của vấn đề sẽ được phân tích sâu sắc. Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất lại các bộ phận, các yếu tố, các mặt đã được phân tích, vạch ra mối liên hệ của chúng nhằm nhận thức sự vật hiện tượng trong tính tổng thể. Từ những phân tích các quy định trong pháp luật về giáo dục tư thục ở một số nước Đông Nam Á cho thấy các sự kết nối chặt chẽ các quy định bắt buộc về đầu tư kinh doanh với các quy định về quản trị và hoạt động cơ sở giáo dục để tạo lên một chỉnh thể thống nhất nhằm đảm bảo quản lý nhà nước trong đầu tư giáo dục. Phương pháp quy nạp Phương pháp quy nạp là đi từ nhận thức sự vật riêng lẻ, từ những kinh nghiệm đến những nguyên lý chung, tức là đi từ cái riêng đến cái chung; diễn dịch là phương pháp đi từ những tri thức chung đến tri thức về cái riêng. Vận dụng phương pháp này trong nghiên cứu các đặc thù hoạt động của các trường tư thục, nhằm khái quát các đặc điểm mâu thuẫn, các đặc điểm phát triển để từ đó có những khái quát chung về mô hình trường tư thục cần các chế định gì để vừa đảm bảo quản lý nhà nước vừa định hướng phát triển. Phương pháp so sánh pháp luật Trên cơ sở của phương pháp này, các hiện tượng pháp lý, các sự kiện 11
  17. pháp lý được nghiên cứu trong mối quan hệ so sánh với nhau. Việc so sánh có thể tiến hành ở các mức độ khác nhau, từ việc so sánh hệ thống pháp luật với hệ thống pháp luật, ngành luật đến ngành luật… trên cơ sở đó rút ra những nét giống nhau, khác nhau, đặc thù của các hiện tượng đang nghiên cứu. Phương pháp này sẽ giúp đưa ra các so sánh về hệ thống pháp luật của các nước Đông nam Á (nơi có văn hoá tương đồng Việt nam) với hệ thống pháp luật Việt nam quy định về các mô hình trường tư thục. Từ việc so sánh các quy định của hệ thống pháp luật này sẽ đưa ra được các điểm khuyết thiếu mà hệ thống pháp luật về giáo dục của Việt nam cần hoàn thiện. 6. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về mô hình cơ sở giáo dục tư thục và pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục. Chương 2: Thực trạng pháp luật về mô hình cơ sở giáo dục tư thục của một số nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm cho Việt nam. Chương 3: Thực trạng pháp luật về cơ sở giáo dục tư thục tại Việt nam và định hướng, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt nam về mô hình cơ sở giáo dục tư thục. 12
  18. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC VÀ PHÁP LUẬT VỀ MÔ HÌNH CƠ SỞ GIÁO DỤC TƢ THỤC 1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ sở giáo dục tƣ thục Cơ sở giáo dục công lập và cơ sở giáo dục tư thục được phân biệt rõ qua hình thức đầu tư, điều hành và quản trị, cụ thể: Khái niệm cơ sở giáo dục công lập: Cơ sở giáo dục công lập do nhà nước đầu tư. Việc quản trị nguồn vốn và lợi nhuận được thực hiện theo quy chế tài chính được phê duyệt theo các quy định về sử dụng tài sản công. Hội đồng quản trị, hiệu trưởng do cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm. Khái niệm cơ sở giáo dục tƣ thục: Cơ sở giáo dục tư thục do nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn đầu tư, thành lập và điều hành hoạt động. Việc quản trị nguồn vốn được thực hiện theo ý chí của nhà đầu tư, vận dụng cơ chế biểu quyết theo số vốn góp được kiểm soát và đầu tư bằng vốn của các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế. Hội đồng quản trị của cơ sở đó gồm hầu hết các thành viên không do cơ quan có thẩm quyền bầu. Đặc điểm của cơ sở giáo dục tƣ thục: Cơ sở giáo dục tư thục được tự chủ về toàn bộ hoạt động tài chính, nhân sự và chương trình học bên cạnh các quy định về chương trình phải tuân theo quy định của chính phủ, được quyền lựa chọn học sinh, sinh viên. Cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục tư thục được đầu tư bằng nguồn vốn tư nhân, không phải vốn nhà nước. Toàn bộ thu nhập của cơ sở được thu từ nguồn học phí. Việc quản trị cơ sở giáo dục tư thục được thực hiện theo các quy định của pháp luật về giáo dục, có những đặc điểm chung về hội đồng trường, hiệu trưởng và quản trị về mặt học thuật như cơ sở giáo dục công lập. Các hoạt động của cơ sở giáo dục tư thục được tự chủ và tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho người học. 13
  19. Theo quy định tại Điều 48 của Luật Giáo dục số 38/2005/QH11 thì khái niệm về cơ sở giáo dục tư thục hay còn gọi là trường tư thục được định nghĩa như sau “Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước” Theo định nghĩa tại Luật Giáo Dục 2005 thì trường tư thục do các thành phần kinh tế trong xã hội thành lập, trong đó bao gồm cả cá nhân, chưa đề cập rõ hình thức cơ sở giáo dục tư thục có vốn đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh xã hội phát triển, các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực giáo dục tại Việt nam ngày càng nhiều, nên trong Luật giáo dục số 43/2019/QH14 thay thế Luật giáo dục 2005, thì khái niệm về trường tư thục đã được làm rõ hơn “Trường tư thục do nhà đầu tư trong nước hoặc nhà đầu tư nước ngoài đầu tư và bảo đảm điều kiện hoạt động” [28, Điều 47]. Nhìn vào pháp luật các nước Đông nam Á, thì định nghĩa về cơ sở giáo dục tư thục có khác biệt, cụ thể: Theo quy định tại Luật giáo dục Đại học tư thục Malaysia 2015 thì: Tổ chức giáo dục đại học tư thục có nghĩa là một tổ chức hoặc tổ chức giáo dục, bao gồm Đại học hoặc Cao đẳng Đại học, hoặc một cơ sở chi nhánh, được phê duyệt và đăng ký theo Đạo luật này, không được thành lập hoặc duy trì bởi Chính phủ [12, Điều 1]. Theo quy định tại Luật giáo dục tư thục Singapore 2011 thì: Giáo dục tư thục có nghĩa là bất kỳ người nào đề nghị cung cấp hoặc cung cấp giáo dục tư nhân dù ở Singapore hay ở nơi khác, vì lợi nhuận, cùng với giáo dục khác; hoặc là tự nó hoặc liên kết hoặc hợp tác với hoặc bằng cách liên kết với bất kỳ người nào khác; và trường đó đã được đăng ký theo Đạo luật Giáo dục [19, Điều 1]. 14
  20. Theo quy định tại Luật giáo dục tư thục Hàn quốc 2016 thì: Trường tư thục có nghĩa là một trường được thành lập bởi một pháp nhân, không phải là tổ chức công cộng, hoặc các cá nhân khác [17, Điều 2]. Từ các quy định của Malaysia hoặc Singapore hay của Việt nam cho thấy đặc điểm chung về điều kiện ban đầu để thành lập cơ sở giáo dục tư thục là nhà đầu tư phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định và đăng ký thành công vì không phải do nhà nước đầu tư. Tuy nhiên, trong Luật giáo dục tư thục của Singapore có thể thấy thêm một đặc điểm rất rõ là “vì lợi nhuận”. Trong Luật giáo dục tư thục của Hàn quốc ghi rõ là cơ sở giáo dục tư thục “được thành lập bởi một pháp nhân”. Từ các khái niệm về cơ sở giáo dục tư thục của các nước và của Việt nam, cũng như đặc điểm chung về điều kiện ban đầu để thành lập cơ sở giáo dục tư thục theo quy định các nước, cho thấy: cơ sở giáo dục tƣ thục là cơ sở giáo dục do tƣ nhân thành lập dƣới hình thức tổ chức có tƣ cách pháp nhân, và việc phải đăng ký đầu tƣ kinh doanh theo quy định của pháp luật đƣợc coi là điều kiện để nhà đầu tƣ xin phép thành lập một cơ sở giáo dục tƣ thục. 1.2. Mô hình cơ sở giáo dục tƣ thục Theo Luật giáo dục 2019 có hiệu lực vào ngày 1.7.2020, cơ sở giáo dục được chia thành 2 loại: cơ sở giáo dục công lập do nhà nước đầu tư thành lập, cơ sở giáo dục tư thục do nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư thành lập. Theo quy định tại luật này thì cơ sở giáo dục tư thục gồm 2 loại: cơ sở giáo dục có vốn đầu tư trong nước do nhà đầu tư là tổ chức và cá nhân đầu tư thành lập. Cơ sở giáo dục tư thục có vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đầu tư thành lập. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2