intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

43
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nhằm phân tích, làm rõ các vấn đề về mặt lý luận về thị trường chứng khoán OTC nói chung và thị trường chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam nói riêng, có sự so sánh đối chiếu với các qui định pháp luật một số nước trên thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra được những điểm hạn chế, khoảng trống của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT BÙI THỊ HẰNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007 1
  2. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƢỜNG 5 CHỨNG KHOÁN CHƢA NIÊM YẾT 1.1. Khái niệm chứng khoán chưa niêm yết và quản lý phát 5 hành chứng khoán 1.1.1. Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán 5 1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán 5 1.1.1.2. Phân loại chứng khoán 6 1.1.2. Quản lý phát hành chứng khoán 8 1.1.2.1. Khái niệm quản lý phát hành chứng khoán 8 1.1.2.2. Sự khác nhau giữa quản lý chứng khoán niêm yết và chứng 9 khoán chưa niêm yết 1.2. Khái quát về thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm 12 yết 1.2.1. Khái niệm, lược sử và đặc điểm thị trường chứng khoán 12 chưa niêm yết 1.2.2. Phân biệt thị trường chứng khoán chưa niêm yết và các thị 16 trường khác 1.2.3. Mô hình tổ chức thị trường chứng khoán chưa niêm yết 18 một số nước 1.2.3.1. Thị trường OTC Hoa Kỳ 18 1.2.3.2. Thị trường OTC Nhật Bản 19 1.2.3.3. Thị trường OTC Trung Quốc 20 1.2.4. Rủi ro đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa niêm yết 21 1
  3. 1.3. Mô hình điều chỉnh pháp luật về quản lý giao dịch chứng 23 khoán chưa niêm yết Chương 2: CƠ SỞ THỰC TIỄN XÂY DỰNG KHUNG PHÁP LÝ 26 VỀ QUẢN LÝ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƢA NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng giao dịch chứng khoán chưa niêm yết 26 2.1.1. Thông tin về công ty và cổ phiếu giao dịch 26 2.1.2. Nhà môi giới cổ phiếu chưa niêm yết 30 2.1.3. Rủi ro phát sinh trên thị trường OTC 31 2.2. Những bất cập phát sinh trong giao dịch và quản lý giao 41 dịch trong thị trường chứng khoán chưa niêm yết và hướng điều chỉnh pháp luật 2.2.1. Bất cập đảm bảo quyền tiếp cận thông tin 41 2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư 44 2.2.3. Bất cập trong xây dựng thị trường có tổ chức 46 2.3.4. Bất cập trong quản lý thu thuế 48 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ QUẢN 51 LÝ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƢA NIÊM YẾT 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật 51 3.2. Các kiến nghị cụ thể 54 3.2.1. Mô hình thị trường 54 3.2.2. Quản lý công ty chưa niêm yết 56 3.2.3 Quản lý thông tin giao dịch 58 3.2.3.1. Về tổ chức giao dịch 58 3.2.3.2. Về thông tin thị trường 59 2
  4. 3.2.3.3. Về giám sát giao dịch 60 3.2.3.4. Lưu ký và thanh toán 61 3.1.4 Loại hàng hóa giao dịch 62 3.1.5 Giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước 62 3.1.6 Hoàn thiện về hình thức văn bản pháp luật 63 3.1.7. Lộ trình xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về thị 65 trường OTC 3.1.8. Một số kiến nghị sửa đổi qui định pháp luật có liên quan 67 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 3
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thị trường chứng khoán (TTCK) là một chế định tài chính bậc cao của nền kinh tế thị trường. Trong đó TTCK chưa niêm yết (CNY) (hay còn gọi là thị trường OTC) là một mảng quan trọng của TTCK nói riêng cũng như thị trường tài chính nói chung của các quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu một giải pháp để đưa TTCK CNY vào hoạt động có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề mang tính thời sự. Xét về mặt kinh tế vĩ mô, khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, việc thúc đẩy hoạt động lành mạnh và phát triển các doanh nghiệp này là một chiến lược kinh tế quan trọng của Việt Nam trong quá trình phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó qui mô TTCK ở nước ta vẫn còn nhỏ bé, chưa tương xứng với qui mô của nền kinh tế. Mặt khác, thị trường tự phát giao dịch các chứng khoán CNY đang hình thành và ngoài tầm giám sát của Nhà nước. Thị trường tự phát này mang tính rủi ro rất cao đối với những người tham gia thị trường do những vấn đề về tính trung thực và tiếp cận thông tin. Trước thực trạng đó, chiến lược phát triển TTCK của Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 được Chính phủ thông qua, mô hình tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán (GDCK) Việt Nam được xác định theo hướng: xây dựng thị trường GDCK CNY tại Hà Nội và chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung. Đây là một chiến lược đúng đắn thể hiện sự quan tâm của Chính phủ cũng như của ngành tới khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp tăng trưởng, là một sự nhìn nhận về tầm quan trọng của khu vực này cũng như 4
  6. tính cấp thiết của việc hình thành một thị trường chứng khoán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, để thực hiện được chiến lược và phát triển thị trường OTC một cách có hiệu quả trong tình hình hiện tại của Việt Nam, còn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu, do đây là một thị trường mới mẻ, đòi hỏi công nghệ cao và chưa có thực tiễn xây dựng thị trường tại Việt Nam. Việc xây dựng mô hình, các hệ thống vận hành thị trường và công tác quản lý thị trường sẽ là những vấn đề quan trọng cần phải nghiên cứu. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để xác định rõ mô hình và hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường OTC tại Việt Nam là hết sức cần thiết giúp cho cơ quan quản lý hoạch định chính sách có những cơ sở để đề ra những nội dung cơ bản cho lộ trình xây dựng một tổng thể thị trường giao dịch chứng khoán có hiệu quả tại Việt Nam. 2. Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài "Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam" tập trung vào việc làm rõ những vấn đề lý luận về thị trường chứng khoán CNY, yêu cầu điều chỉnh của pháp luật đối với TTCK CNY, thực trạng pháp luật về thị trường OTC, đề xuất xây dựng khung pháp lý điều chỉnh mô hình thị trường phi tập trung phù hợp với điều kiện phát triển của thị trường chứng khoán tại Việt Nam đồng thời đưa ra các kiến nghị về điều chỉnh các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của TTCK. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nhằm phân tích, làm rõ các vấn đề về mặt lý luận về thị trường chứng khoán OTC nói chung và thị trường chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam nói riêng, có sự so sánh đối chiếu với các qui định pháp luật một số nước trên thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam trong thời gian qua. Qua đó, chỉ ra được những điểm hạn chế, 5
  7. khoảng trống của pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật, đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. 4. Phạm vi nghiên cứu Do tính phức tạp của vấn đề cùng với việc nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm xây dựng và phát triển thị trường OTC tại một số nước, luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của TTCK CNY và đưa ra một số đề xuất về pháp luật điều chỉnh hoạt động của mô hình thị trường OTC đang và sẽ được dự kiến xây dựng ở Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Bằng phương pháp phân tích kinh tế trên cơ sở tư duy lý luận, phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lý luận hệ thống, phương pháp thống kê nhằm khái quát những vấn đề cơ bản của luận văn có liên quan đến mô hình hoạt động và quản lý của thị trường OTC đặc biệt trên các khía cạnh liên quan đến khung pháp lý và mô hình quản lý. Do ở Việt Nam thị trường OTC chưa phát triển, việc đề xuất khung pháp lý phải dựa trên cơ sở xác định mô hình thị trường OTC, lộ trình phát triển, khung pháp lý điều chỉnh tương ứng được đề xuất trên bối cảnh phát triển của thị trường chứng khoán và các yếu tố có liên quan tại Việt Nam. 6. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc Hiện nay, mới chỉ có đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng và phát triển thị trường OTC Việt Nam" của TS Trần Cao Nguyên, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) nghiên cứu vấn đề này. Tuy nhiên, đề tài chưa chuyên sâu về khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường OTC, mới chỉ dừng lại ở các lý luận chung về thị trường, vì vậy việc nghiên cứu chuyên sâu hơn về pháp luật điều chỉnh thị trường OTC với các mô hình được đề xuất phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay là một tiền đề quan trọng để phát triển loại hình thị trường này trong thời gian tới. 6
  8. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát về chứng khoán và thị trường chứng khoán chưa niêm yết. Chương 2: Cơ sở thực tiễn xây dựng khung pháp lý về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam hiện nay. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết. 7
  9. Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN CHƢA NIÊM YẾT 1.1. KHÁI NIỆM CHỨNG KHOÁN CHƢA NIÊM YẾT VÀ QUẢN LÝ PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niệm chứng khoán và phân loại chứng khoán 1.1.1.1. Khái niệm chứng khoán Thị trường chứng khoán ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế, là nơi phát hành và mua bán chứng khoán. Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: - Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quĩ. - Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán [14, Điều 6]. Chứng khoán là tài sản tài chính có các đặc điểm sau: Thứ nhất, chứng khoán có tính thanh khoản: Thanh khoản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc và khoảng thời gian và chi phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của chứng khoán do chuyển đổi. Chứng khoán có tính thanh khoản cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua ở chỗ khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau. 8
  10. Thứ hai, chứng khoán có tính rủi ro: Chứng khoán là các tài sản mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Rủi ro phi hệ thống là rủi ro chỉ tác động tới một tài sản hoặc một nhóm tài sản. Các nhà đầu tư (NĐT) thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức - người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp bởi lợi tức tăng thêm. Thứ ba, chứng khoán có tính sinh lợi: Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lời bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý - mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao. 1.1.1.2. Phân loại chứng khoán * Căn cứ theo tính chất của chứng khoán Chứng khoán vốn gồm cổ phiếu và chứng chỉ quỹ, là bằng chứng xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu vốn góp và các quyền hợp pháp đối với tổ chức phát hành. Chứng khoán nợ gồm trái phiếu, tín phiếu, là chứng chỉ ghi nhận nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả cho người đứng tên sở hữu chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền nhất định bao gồm cả gốc và lãi trong những khoảng thời gian cụ thể. Chứng khoán phái sinh bao gồm hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, quyền mua trước, chứng quyền, là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ 9
  11. chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ với các chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán và lưu thông phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán. * Căn cứ theo khả năng chuyển nhượng Chứng khoán vô danh bao gồm giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu. Loại chứng khoán này được chuyển nhượng dễ dàng, không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định. Chứng khoán ghi danh bao gồm giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ có ghi tên chủ sở hữu. Loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải tuân thủ theo những qui định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng, người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có sổ quyền chuyển nhượng. * Căn cứ theo khả năng thu nhập Chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm trái phiếu nhà nước, trái phiếu địa phương, trái phiếu công nghiệp - trái phiếu công ty, trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm, tín phiếu kho bạc: là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, không phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc ghi danh, có thể là tín phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Lợi tức của loại này thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm hoặc là một năm. Mỗi loại chứng khoán có qui định thời hạn trả lợi tức khác nhau. Kỳ hạn của các chứng khoán rất khác nhau, chẳng hạn tín phiếu có kỳ hạn ngắn thường nhỏ hơn hoặc bằng 1 năm, trái phiếu là trung và dài hạn 2-30 năm, cổ phiếu ưu đãi là vô thời hạn. Kỳ hạn này có thể thay đổi do hoạt động chuộc lại chứng khoán của nhà phát hành. 10
  12. Chứng khoán có thu nhập biến đổi bao gồm cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức, nó biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Khác với cổ phiếu phổ thông, ở chứng chỉ quỹ đầu tư - người sở hữu không được quyền tham gia giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu song không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông. Chứng khoán hỗn hợp bao gồm trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi, trái phiếu có quyền mua cổ phiếu, là loại chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập không cố định. Việc phát hành chứng khoán này nhằm để thích ứng với yêu cầu đặc biệt của thị trường vốn. * Căn cứ theo mức độ quản lý chứng khoán Chứng khoán niêm yết (CKNY) là những loại chứng khoán có đủ điều kiện giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán (SGDCK), Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK). CKCNY là những loại chứng khoán của các CTCP có qui mô vừa và nhỏ, các công ty mới thành lập, các công ty hoạt động kinh doanh hiệu quả nhưng chưa đủ điều kiện hoặc chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. 1.1.2 Quản lý phát hành chứng khoán 1.1.2.1. Khái niệm quản lý phát hành chứng khoán Phát hành chứng khoán được coi là khâu khởi đầu, tiền đề của các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Phát hành chứng khoán để chỉ một công ty cổ phần (CTCP) hoặc Chính phủ chào bán chứng khoán một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng hoặc chào bán riêng lẻ [33]. 11
  13. Có hai phương pháp phát hành chứng khoán trên thị trường chưa niêm yết đó là: Phát hành riêng lẻ là quá trình trong đó chứng khoán được bán trong phạm vi một số người nhất định (thường là nhà đầu tư có tổ chức) với khối lượng phát hành hạn chế. Việc phát hành chứng khoán riêng lẻ thông thường chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Chứng khoán phát hành theo phương thức này không phải là đối tượng giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn nhà đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phát đạt được một mức nhất định. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng được gọi là các công ty đại chúng. 1.1.2.2. Sự khác nhau giữa quản lý chứng khoán niêm yết và chứng khoán chưa niêm yết Trong khi ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc việc phát hành chứng khoán chưa niêm yết đã được qui định và quản lý có hệ thống thì ở Việt Nam vẫn còn nhiều khoảng trống trong việc ban hành qui định pháp luật và quản lý. CKCNY là chứng khoán phát hành theo phương thức phát hành riêng lẻ hoặc theo phương thức chào bán ra công chúng nhưng chưa đăng ký giao dịch tại SGDCK và TTGDCK. Về đăng ký phát hành, công ty đại chúng có chứng khoán CNY nộp hồ sơ đăng kí tại Trung tâm lưu ký chứng khoán (TTLKCK) thông qua các công ty chứng khoán (CTCK). Còn công ty có CKNY nộp hồ sơ đăng ký trực tiếp tại TTLKCK. Về điều kiện đăng ký giao dịch, nếu như chứng khoán của các công ty niêm yết phải thực hiện theo điều kiện niêm yết tại Nghị định số 14/2007/CP-NĐ 12
  14. ban hành ngày 19/01/2007 của Chính phủ về việc qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán năm 2006 thì công ty đại chúng có CKCNY phải đáp ứng đủ điều kiện: là công ty đại chúng đã thực hiện đăng ký chứng khoán tại TTLKCK và được một CTCK làm thủ tục đăng ký thông tin giao dịch [1]. Về các qui định giao dịch, trong đó biên độ dao động giá không qui định đối với CKCNY, ngược lại CKNY có qui định biên độ giá. CKNY có giá tham chiếu là bình quân gia quyền giá giao dịch của ngày giao dịch gần nhất, còn CKCNY thì không có giá tham chiếu. Phương thức thực hiện của CKNY là khớp lệnh và thỏa thuận và NĐT không được phép vừa đặt lệnh mua vừa đặt lệnh bán một loại chứng khoán trong cùng một phiên giao dịch vào những giờ đã được qui định từ 9 - 11h còn CKCNY thì chủ yếu là thỏa thuận, NĐT có thể vừa mua vừa bán cùng một loại chứng khoán trong phiên giao dịch vào bất kỳ thời gian nào trong ngày. Về công bố thông tin, công ty có CKCNY thực hiện việc công bố thông tin qua CTCK, còn CKNY sẽ thực hiện qua công ty đăng ký giao dịch trực tiếp. Về quản lý tỷ lệ nắm giữ nước ngoài, công ty có CKCNY thì tỷ lệ nắm giữ nước ngoài là tối đa 30% vốn điều lệ, còn công ty niêm yết thì tỷ lệ đó là tối đa 49% trừ một số loại hình pháp luật có qui định tỷ lệ thấp hơn. Ở Việt Nam, pháp luật hiện nay không qui định về phát hành chứng khoán nói chung mà chỉ qui định về phát hành, chào bán chứng khoán ra công chúng. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải chịu sự chi phối của pháp luật về chứng khoán và phải được cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán cấp phép. Những công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và 13
  15. chịu sự giám sát riêng theo qui định của pháp luật chứng khoán. Hoạt động này được điều chỉnh bởi Luật Chứng khoán và Nghị định 14/2007/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày 19/01/2007. Còn hoạt động phát hành riêng lẻ chưa được quản lý bằng qui định pháp luật. Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng dự thảo về nghị định về chào bán cổ phần riêng lẻ. Mục đích của việc phân biệt hai hình thức phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng như trên là nhằm có các biện pháp bảo vệ công chúng đầu tư, nhất là những NĐT nhỏ không hiểu biết nhiều về lĩnh vực chứng khoán. Nhằm mục đích này, để được phép phát hành ra công chúng, tổ chức phát hành phải là những công ty làm ăn có chất lượng cao, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đáp ứng được các điều kiện do UBCKNN qui định. Việc phát hàng chứng khoán là quyền của doanh nghiệp theo qui định của Luật Doanh nghiệp và theo ý chí của cổ đông đã được đưa ra trong nghị quyết của Đại hội cổ đông. Còn UBCKNN chỉ là cơ quan thực hiện thẩm định hồ sơ phát hành theo qui định của Luật Chứng khoán chứ không có quyền cấm hay hạn chế doanh nghiệp pháp hành. Về cơ bản, các qui định pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng khá thông thoáng, theo hướng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp trên cơ sở công bố thông tin đầy đủ. Là cơ quan xây dựng và quản lý thị trường chứng khoán, UBCKNN đã nỗ lực tối đa trong việc thẩm định chặt chẽ các hồ sơ đăng ký chào bán. Các doanh nghiệp có nhu cầu phát hành phải nộp hồ sơ đầy đủ cho UBCKNN. Nếu phương án phát hành của doanh nghiệp được cổ đông thông qua đúng luật và doanh nghiệp có đủ hồ sơ hợp pháp thì UBCKNN căn cứ vào quy định của pháp luật phải thực hiện cấp giấy chứng nhận chào bán ra công chúng mà không thể từ chối, mặc dù nhận thấy phương án phát hành khiến giá cổ phiếu bị pha loãng và có thể ảnh hưởng đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và cổ đông nói chung. UBCKNN không có quyền yêu cầu doanh nghiệp sửa đổi 14
  16. phương án phát hành và sử dụng vốn mà chỉ có thể yêu cầu doanh nghiệp nêu rõ những rủi ro liên quan đến đợt phát hành trong bản cáo bạch. Trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành nghị định về chào bán riêng lẻ, sửa đổi một số văn bản có liên quan đến việc quản lý phát hành. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT 1.2.1. Khái niệm, lƣợc sử và đặc điểm thị trƣờng chứng khoán chƣa niêm yết TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính mà tại đó diễn ra việc mua bán các công cụ tài chính dài hạn. Các TTGDCK, SGDCK là nơi diễn ra hoạt động giao dịch chứng khoán đã đủ điều kiện niêm yết. Các CKCNY trên TTGDCK, SGDCK được giao dịch trên thị trường phi tập trung hay còn gọi là TTCKCNY. TTCKCNY, tiếng Anh là Over-The-Counter Market gọi tắt là thị trường OTC. Thị trường này được tổ chức theo hình thức mua bán thỏa thuận giá giữa người đầu tư và công ty chứng khoán, hoặc giữa công ty chứng khoán với nhau. OTC là một loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm nhất trong lịch sử và tiếp tục tồn tại và phát triển đến ngày nay. Theo tiến trình lịch sử, có thể phân chia sự phát triển của thị trường thành ba giai đoạn sau: - Thời kỳ sơ khai ban đầu (thế kỷ 15): thị trường OTC là nơi người mua và người bán gặp gỡ trực tiếp để giao dịch chứng khoán, thị trường có thể là một địa điểm nào đó như quán cà phê. Nghĩa tiếng Anh của từ over - the - counter nghĩa là thị trường qua quầy và đây là một đặc điểm mang tính lịch sử của thị trường khi chứng 15
  17. khoán được mua bán trực tiếp qua quầy của các ngân hàng hoặc công ty chứng khoán mà không phải thông qua các trung gian môi giới để đưa vào đấu giá tập trung tại một địa điểm. Thuật ngữ này có cùng ý nghĩa là người mua, bán chứng khoán sẽ thỏa thuận giá trực tiếp với công ty chứng khoán chứ không thông qua công ty chứng khoán để đấu giá với những người mua, bán khác trên thị trường. - Bước phát triển tiếp theo (thế kỷ 16 -17): phát triển thành mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư. Hoạt động mua bán diễn ra ở bất kỳ một địa điểm nào đó mà không bắt buộc phải diễn ra ở một địa điểm tập trung. Hình thức giao dịch truyền thống của thị trường OTC là phương thức định giá thông qua thương lượng song phương giữa một bên mua và một bên bán mà không phải bằng đấu giá tập trung giữa nhiều bên mua và nhiều bên bán. Phương thức định giá này sẽ kéo theo một số đặc thù khác của thị trường OTC như địa điểm mua bán phi tập trung, có các nhà tạo tập thị trường chứng khoán, đàm phán giao dịch qua điện thoại. - Thị trường OTC hiện nay: với sự phát triển ngày càng lớn của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin đã giúp người mua và bán thêm nhiều phương thức giao dịch mới bên cạnh phương thức giao dịch trước đây, đặc biệt là giao dịch qua mạng điện tử diện rộng. Nhờ đó mà các đối tượng tham gia thị trường của công ty chứng khoán, công ty niêm yết, các nhà đầu tư, nhà quản lý…có thể cung cấp và truy cập các thông tin cần thiết. Bên cạnh đó, thị trường OTC có thể chỉ cần hệ thống báo giá trung tâm, thành viên hệ thống có thể yết giá một chiều và tiến hành thương lượng giao dịch qua hệ thống. Với sự phát triển không ngừng của thị trường chứng khoán, cùng với xu hướng toàn cầu hóa và cạnh tranh ngày càng cao đã là động lực thúc đẩy 16
  18. sự phát triển của thị trường này trong tính đa dạng của nó. Do hình thức giao dịch thỏa thuận trong một số trường hợp đã không phát huy được hiệu quả. Chính vì vậy, ở một số thị trường OTC phát triển trên thế giới đã sử dụng cơ chế kết hợp cả hệ thống thương lượng và khớp lệnh, điều này đã giúp thị trường OTC phát triển một cách hiệu quả hơn nhiều. Cho đến nay chưa có một quốc gia hay một văn bản nào định nghĩa chính xác về thị trường OTC và đến ngày nay rõ ràng đã có sự thay đổi cả về bản chất và nội dung của thị trường OTC. Thông qua đó có thể đưa ra hai khái niệm cơ bản tạm thời về thị trường OTC, đó là: - Thị trường OTC truyền thống là thị trường chỉ có hình thức giao dịch thỏa thuận thông qua hệ thống nhà tạo lập thị trường, địa điểm giao dịch không tập trung và giao dịch chủ yếu qua điện thoại, fax… - Thị trường OTC hiện đại là thị trường có hình thức giao dịch thỏa thuận và có kết hợp cả các hình thức khớp lệnh tập trung. Trong đó hình thức thỏa thuận có thể sử dụng hệ thống báo giá trung tâm hoặc hệ thống nhà tạo lập thị trường thông qua mạng điện tử diện rộng dưới sự quản lý của trung tâm điều hành, bên cạnh đó cũng sử dụng các phương tiện truyền thống như fax. *Đặc điểm của thị trường OTC Một là, thị trường OTC truyền thống là thị trường có hình thức tổ chức giao dịch mua bán phi tập trung với nghĩa là không có địa điểm, vị trí giao dịch tập trung giữa bên mua và bên bán như đối với thị trường niêm yết. Trên thị trường OTC truyền thống các giao dịch diễn ra tại nhiều địa điểm, ở bất kỳ nơi nào có thể thương lượng và xác lập giá giữa bên mua và bên bán. Hai là, ở thị trường OTC truyền thống có cơ chế xác lập giá là thương lượng giá giữa bên mua và bán, khác với cơ chế khớp lệnh thị trường tập trung. 17
  19. Tính tập trung cao thông qua sử dụng mạng điện tử diện rộng và có một đơn vị quản lý thống nhất. Đây là một bước chuyển biến căn bản so với hình thức giao dịch phân tán nhiều địa điểm khác nhau trong giao dịch OTC trước đây. Điều này đã giúp cho việc giao dịch diễn ra một cách phi tập trung tại nhiều địa điểm khác nhau nhưng vẫn đảm bảo tập trung thông tin tiện lợi cho việc giao dịch, thông tin đồng thời đảm bảo hiệu quả cho việc quản lý thị trường. Ba là, một đặc trưng rất cơ bản của thị trường OTC truyền thống là có sự tham gia vận hành của các CTCK - họ được coi là động lực của thị trường bởi hoạt động mua bán chứng khoán họ đều tự chịu rủi ro. Điều kiện là họ cần có một lượng vốn tối thiểu và luôn phải nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định, loại mà họ làm tạo lập thị trường để liên tục chào bán và sẵn sàng mua loại chứng khoán này trên thị trường. Điều này đã giúp tính thanh khoản, tính khả mại cho thị trường, làm cho thị trường không ngừng hoạt động. Bốn là, chứng khoán được giao dịch chủ yếu là chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết hoặc chưa muốn niêm yết trên thị trường tập trung. Năm là, thị trường được quản lý chặt chẽ để đảm bảo lợi ích của mọi đối tượng tham gia thị trường chống những hoạt động lạm dụng thị trường. Tương tự như hệ thống thị trường tập trung, thị trường OTC các nước thường được tổ chức quản lý theo 2 cấp, cấp quản lý nhà nước và cấp tự quản nhằm mục tiêu chung là đảm bảo sự ổn định và phát triển thị trường và bảo vệ nhà đầu tư. Sáu là, thị trường có cơ chế thanh toán kết hợp giữa phương thức thanh toán bù trừ đa phương như thị trường tập trung với hình thức thanh toán linh hoat đa dạng giữa người mua và người bán 18
  20. 1.2.2. Phân biệt thị trƣờng chứng khoán chƣa niêm yết và các thị trƣờng khác * Phân biệt với thị trường tập trung Điểm giống nhau của thị trường CKCNY và thị trường tập trung là có sự quản lý nhà nước, được tổ chức chặt chẽ và được điều chỉnh bằng pháp luật chứng khoán. Điểm khác nhau căn bản là về địa điểm xác lập giá. Thị trường tập trung được xác lập tại sở giao dịch, trung tâm giao dịch còn thị trường chứng khoán chưa niêm yết là ngoài SGDCK và TTGDCK. Nếu như thị trường tập trung sử dụng hình thức khớp lệnh thì thị trường chưa niêm yết áp dụng phương thức thỏa thuận về giá. Từ đó mà hai thị trường này có cơ chế thanh toán khác nhau, thị trường chưa niêm yết sẽ rất đa dạng về thời gian và hình thức còn ngược lại thị trường tập trung có một cơ chế thanh toán bù trừ đa phương thống nhất có thời hạn và hình thức xác định. Như vậy, thị trường OTC luôn có ưu thế hơn thị trường tập trung về tính linh hoạt, thông thoáng tiện lợi cho NĐT trong việc tiếp cận thị trường, tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch. Đặc biệt là thị trường OTC hiện đại hiện nay có thể đảm bảo cho mọi đối tượng tham gia thị trường có thể tiếp cận thị trường nhanh, thuận tiện, chia sẻ thông tin thị trường tối đa, các nhà quản lý có thể giám sát tốt thị trường. Với cơ chế vận hành của các nhà tạo lập thị trường, luôn sẵn sàng mua bán chứng khoán bất kỳ khi nào nên tính thanh khoản của thị trường này thường cao hơn so với thị trường tập trung. Tuy nhiên, thị trường này ở hình thái truyền thống thủ công có nhược điểm là khó quản lý, khó bảo vệ NĐT do hình thức giao dịch phi tập trung. Ở hình thái hiện đại hiện nay, thị trường có đặc điểm có thể coi là điểm bất lợi đối với một số nước như ở Việt Nam, đó là để xây dựng hạ tầng 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1