intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

21
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là: Làm sáng tỏ vấn đề về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài từ góc độ lý luận và pháp lý; làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU THỊ VÂN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2011
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƯU THỊ VÂN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƯỚC NGOÀI Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HỒNG BẮC Hà nội – 2011
  3. DANH MỤC CÁC BẢNG STT Tên Bảng Trang 1 Bảng 2.1. Sơ đồ về cơ cấu, tổ chức các cơ quan quản lý lao 35 động Việt Nam làm việc ở nước ngoài 2 Bảng 2.2. Các cơ quan quản lý lao động nước ngoài làm việc 50 tại Hàn Quốc
  4. MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................................... 1 LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................ 3 1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................................. 4 3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn ............................. 5 5. Điểm mới của luận văn............................................................................... 6 6. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài ................................................................ 6 7. Cơ cấu của luận văn .................................................................................. 6 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI................................................... 7 1. 1 Khái niệm quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài................. 7 1.1.1 Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài................................ 7 1.2. Đặc điểm của quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài .......... 12 1.3. Vai trò của quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài.............. 16 1.4 Sự cần thiết phải quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài trong hiện tại và tƣơng lai. .................................................................................... 19 1.5 Cơ sở pháp lý điều chỉnh quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài............................................................................................................. 20 1.5.1 Điều ƣớc quốc tế .................................................................................. 20 1.5.2 Pháp luật trong nƣớc ........................................................................... 21 1.6 Giải quyết xung đột pháp luật về lao động có yếu tố nƣớc ngoài. .......... 24 1.6.1 Giải quyết xung đột pháp luật về lao động có yếu tố nước ngoài theo pháp luật 1 số nước và theo điều ước quốc tế. ........................................................ 24 1.6.2. Giải quyết xung đột pháp luật về lao động có yếu tố nước ngoài theo quy định của Pháp luật Việt Nam. ....................................................................... 28 CHƢƠNG 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI ..................... 29 2.1. Quản lý của Nhà nƣớc về lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài .... 30 2.1.1 Nội dung quản lý nhà nƣớc về lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài. ..................................................................................................................... 30 2.1.2 Biện pháp quản lý của Nhà nƣớc về lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài............................................................................................................. 32 2.1.3 Cơ quan chuyên trách quản lý Nhà nƣớc về lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài................................................................................................. 34 Bảng 2.1 ....................................................................................................... 36 2.2. Quản lý của doanh nghiệp..................................................................... 39 2.2.1 Nội dung quản lý của doanh nghiệp .................................................... 41 2.2.2 Biện pháp quản lý của doanh nghiệp................................................... 45 2.2.3 Cơ cấu quản lý của doanh nghiệp ....................................................... 49 2.3 Quản lý của ngƣời lao động, ngƣời bảo lãnh cho ngƣời lao động đi làm việc ở nƣớc ngoài ......................................................................................... 50 2.4 Quản lý của nƣớc sở tại.......................................................................... 51 Bảng 2.2 ....................................................................................................... 51 1
  5. 2.5 Hành vi vi phạm và việc xử lí đối với hành vi phạm về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài .................................................................. 54 +) Các hành vi vi phạm của doanh nghiệp .................................................... 54 CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .................. 58 PHÁP LUẬT QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM..................................... 58 LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI..................................................................... 58 3.1.1. Thực trạng pháp luật Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. ..................................................................................................................... 58 3.2.1. Phương hướng quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài....... 67 KẾT LUẬN .................................................................................................. 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO: .......................................................................... 74 2
  6. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá và phân công lao động trên phạm vi quốc tế, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là một tất y ếu khách quan và đang có xu hướng phát triển ở nhiều nước, nhất là ở các nước đang phát triển như: Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Lào,…Đối với nước ta, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài một mặt xuất phát từ nhu cầu nội tại và xu hướng chung nhằm góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mặt khác, là biểu hiện của việc tăng cường giao lưu, hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, một số vấn đề đã phát sinh ngoài ý muốn chủ quan của các cơ quan, doanh nghiệp và người lao động như: việc làm của người lao động không đúng với hợp đồng đã ký với doanh nghiệp trước khi xuất cảnh, lao động Việt Nam bị chủ sử dụng lao động nước ngoài bóc lột về thời gian làm việc và tiền lương (công việc và tiền lương trả cho người lao động không đúng với Hợp đồng lao động đã ký trước khi đi làm ở nước ngoài - thường là thấp hơn), các khoản khấu trừ tiền lương của người lao động làm việc ở nước ngoài không rõ ràng, điều kiện sinh hoạt tối thiểu không đảm bảo, điều kiện làm việc không đáp ứng yêu cầu về an toàn lao động; hay hiện tượng lao động nước ta phá vỡ hợp đồng, tự ý bỏ nơi đang làm việc theo hợp đồng lao động để tìm công việc khác với mức thù lao cao hơn; uống rượu, gây gổ đánh nhau, tụ tập cờ bạc vào thời gian rảnh rỗi … hoặc ở lại nước ngoài trái phép khi đã kết thúc hợp đồng lao động. Những tồn tại đó đã và đang gây ra nhiều ảnh hưởng không tốt, cụ thể là: người lao động bị đe doạ về quyền lợi, từ đó họ dần mất lòng tin vào công việc; chủ sử dụng lao động thì hoài nghi về chất lượng lao động Việt Nam, dần từ bỏ ý định mở rộng quan hệ hợp tác và nghiêm trọng hơn nữa họ sẽ ngay lập tức ngừng tiếp nhận lao động nước ta đến làm việc, điều đó có nghĩa là thương hiệu của lao động Việt Nam dần bị lu mờ và nguy cơ mất thị 3
  7. trường đang cận kề. Không chỉ có vậy, hình ảnh người lao động Việt Nam nói riêng và đất nước, con người Việt Nam nói chung trong mắt bạn bè, đối tác quốc tế cũng bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu. Sở dĩ có tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân khác nhau, cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Trong đó, đặc biệt có nguyên nhân từ công tác quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài và các quy định của pháp luật với tư cách là công cụ quản lý. Những nội dung trên đặt ra yêu cầu cấp thiết đó là nghiên cứu tìm ra những giải pháp tốt nhất để khắc phục những tồn tại và tăng cường hiệu quả của công tác quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi chọn vấn đề: “Pháp luật về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài” làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Thời gian qua, ở trong nước đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài như: Các giải pháp đổi mới nhà nước về xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong giai đoạn 1995-2010; Một số giải pháp đổi mới quản lý tài chính về xuất khẩu lao động Việt Nam theo cơ chế thị trường; Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu lao động của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra còn một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, cấp cơ sở, luận văn, các bài viết đăng trên báo, tạp chí nghiên cứu chuyên ngành cũng đã đề cập đến hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong các giáo trình giảng dạy Luật tại các cơ sở đào tạo Luật học ở nước ta những năm qua (giáo trình Luật lao động, giáo trình Tư pháp quốc tế, ...) cũng chỉ mới đề cập một cách cơ bản nhất về quản lý lao động trong đó có ít dòng đề cập đến vấn đề quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài và thường thiên về quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Nhìn chung, trong các tài liệu kể trên, vấn đề quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài mới chỉ dừng lại ở nét chung cơ bản, chưa có sự phân tích chuyên sâu, các quy định còn chung chung, chưa thật sự phù hợp khi áp dụng vào thực tiễn khiến cho tình 4
  8. hình quản lý lực lượng lao động đặc biệt này trên thực tế còn phát sinh một số khó khăn, phức tạp cần được giải quyết trong thời gian tới góp phần đẩy mạnh hơn nữa vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ nghề nghiệp, tác phong làm việc tiên tiến cho người lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội nước ta phát triển. 3. Mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn Mục đích của luận văn là: - Làm sáng tỏ vấn đề về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài từ góc độ lý luận và pháp lý; - Làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. - Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. ý nghĩa của luận văn: - ý nghĩa lý luận + Luận văn sẽ là tài liệu phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại các cơ sở đào tạo Luật ở Việt Nam, đặc biệt đối với chuyên ngành Tư pháp quốc tế. + Nội dung luận văn có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, cần thiết cho mọi cá nhân khi tìm hiểu vấn đề quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. - ý nghĩa thực tiễn Tôi mong rằng những kiến nghị khoa học trong luận văn sẽ không chỉ được sử dụng trong vấn đề pháp điển hoá Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng mà còn được áp dụng trong thực tiễn quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài để dần nâng cao hiệu lực, hiệu quả pháp luật về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Đây là đề tài tương đối rộng, do vậy Luận văn không có tham vọng nghiên cứu toàn diện các vấn đề về lĩnh vực quản lý lao động mà chủ yếu đi sâu tìm hiểu 5
  9. về tình hình quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài (cơ quan có thẩm quyền quản lý - cách thức quản lý, hệ thống pháp luật điều chỉnh - những ưu điểm, hạn chế và kiến nghị sửa đổi, bổ sung). 5. Điểm mới của luận văn Dưới góc độ Tư pháp quốc tế, luận văn là công trình đầu tiên đi sâu vào phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống vấn đề quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích những quy định hiện hành của Nhà nước về vấn đề này, đối chiếu với thực tế quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm và đề xuất hiệu chỉnh những bất cập cần phải khắc phục, góp phần hoàn thiện pháp luật. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với những quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp đối chiếu, phương pháp chứng minh. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, luận văn có kết cấu thành ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Chương 2: Những nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 6
  10. CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ LAO ĐỘNG VIỆT NAM LÀM VIỆC Ở NƢỚC NGOÀI 1. 1 Khái niệm quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài 1.1.1 Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài. Một thực tế dễ nhận thấy trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay là: mặc dù đã có văn bản pháp luật quy định về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài nhưng chưa có văn bản nào định nghĩa về "quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài". Nghị định 141/2005/NĐ - CP ngày 11/11/2005 của Chính Phủ về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, nhưng cũng không hề giải thích thế nào là quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Đây là một hạn chế, tạo nên sự khó hiểu cho người đọc, người nghiên cứu văn bản. Với mục đích nghiên cứu là đi sâu tìm hiểu về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, điều đầu tiên mà luận văn muốn đề cập đến chính là khái niệm "quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài". Để có thể hiểu thế nào là "quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài" trước hết cần tìm hiểu "quản lý" và "quản lý lao động" là gì? "Quản lý" là gì? Đó là một câu hỏi mà bất cứ người học quản lý, người nghiên cứu về quản lý nào khi mới tiếp cận vấn đề đều không tránh khỏi sự băn khoăn và mong muốn lý giải. Quản lý là một thuật ngữ rộng bao gồm nhiều cách hiểu, nhiều cách định nghĩa khác nhau. Thường thì mỗi một nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo lại đưa ra một định nghĩa về quản lý của riêng mình. Chính bởi lẽ đó cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ, nghề nghiệp nên "quản lý" cũng có nhiều cách giải thích, lý giải khác nhau. Cùng với sự phát triển của phương thức xã hội hoá sản xuất và sự mở rộng trong nhận thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm quản lý càng trở nên rõ rệt. "Quản lý" theo định nghĩa của mỗi 7
  11. trường phái (trường phái quản lý học, triết học, kinh doanh - quản lý doanh nghiệp)…mang một màu sắc riêng, độc lập. Tuy vậy, dù được định nghĩa theo bất cứ trường phái nào thì về bản chất trên phương diện nghĩa của từ "quản lý" đều có nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động"[1, tr.888; 4 tr.800] và "là sự tác động của chủ thể lên đối tượng theo mục tiêu nhất định" [2, tr.277]. Và dù có được định nghĩa theo bất kỳ cách nào thì bản thân khái niệm "quản lý"đều phải đảm bảo sự tồn tại của 4 yếu tố cơ bản cấu thành sau: - Chủ thể quản lý: Trong đời sống xã hội, quản lý xuất hiện khi có hoạt động chung của con người. Quản lý điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành hoạt động chung thống nhất của tập thể hướng tới mục tiêu đã định trước. Để thực hiện hoạt động quản lý cần phải có tổ chức và quyền uy. Tổ chức phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của những người tham gia hoạt động chung; quyền uy đem lại khả năng áp đặt ý chí của chủ thể quản lý đối với các đối tượng quản lý, bảo đảm sự phục tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ thể quản lý điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc các đối tượng quản lý thực hiện các yêu cầu, mệnh lệnh của mình. Chủ thể của quản lý là cá nhân hay tổ chức - những người đại diện có quyền hạn và trách nhiệm liên kết, phối hợp những hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân hướng tới mục tiêu chung nhằm đạt được kết quả nhất định trong quản lý. Ví dụ: Giám đốc một doanh nghiệp là một cá nhân - người có quyền và nghĩa vụ lãnh đạo, liên kết các hoạt động riêng lẻ của từng nhân viên trong doanh nghiệp nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho cá nhân giám đốc nói riêng và tập thể lãnh đạo doanh nghiệp nói chung. - Khách thể quản lý: Khách thể của quản lý là trật tự quản lý. Trật tự quản lý được quy định bởi nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau như: quy phạm đạo đức, quy phạm tôn giáo, quy phạm pháp luật…tuỳ theo từng loại quản lý. - Mục đích quản lý: 8
  12. Mục đích của quản lý khá đa dạng: có thể là thời gian, tài chính, cơ sở vật chất…tuỳ vào từng hoàn cảnh, từng trường hợp cụ thể. Quản lý trong doanh nghiệp thường bao gồm nhiều mục đích khác nhau như: thời gian làm việc của nhân viên, cơ sở vật chất của doanh nghiệp và khi quản lý tốt hai yếu tố đó cộng với việc tiêu thụ tốt sản phẩm làm ra doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận đảm bảo mục đích cao nhất khi thành lập doanh nghiệp. - Môi trường và điều kiện tổ chức (hay hoàn cảnh quản lý): Môi trường quản lý có thể là trong nước, ngoài nước, trên phương tiện vận tải, trong nhà máy, xí nghiệp,… Như vậy chủ thể, khách thể, mục đích và môi trường quản lý là bốn yếu tố cơ bản nhất cấu thành quản lý, là nền tảng để người nghiên cứu đưa ra cách hiểu, cách định nghĩa về quản lý cho dù cách định nghĩa đó được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ khoa học nào. Trong lĩnh vực lao động nói riêng hoạt động quản lý luôn tồn tại, bao gồm: hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chủ sử dụng lao động và người lao động, quản lý của chủ sử dụng lao động đối với tư liệu lao động và người lao động. Tất cả các hoạt động quản lý đó được gọi chung là quản lý lao động. Vậy "quản lý lao động là gì?" Theo định nghĩa của Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng thì quản lý lao động là: “Hoạt động bao hàm cả việc thiết kế, công cụ quản lý, các biện pháp quản lý và vận hành cơ chế đó nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội". Quản lý gồm hai mặt: - Các biện pháp quản lý chung (tạo ra môi trường pháp lý lao động). - Các biện pháp bảo đảm duy trì quyền quản lý của nhà nước (tạo nên hiệu quả của hoạt động quản lý) [2, tr.277]. Từ những phân tích trên, có thể nhận thấy về cơ bản hai khái niệm “quản lý” và “quản lý lao động” đều đã được định nghĩa, mặc dù các cách định nghĩa chưa hoàn toàn thống nhất nhưng đã đem lại cho người nghiên cứu những tri thức ban đầu, đơn giản nhất về bản chất của vấn đề. Tuy nhiên, cho đến nay, khái niệm "quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài" vẫn chưa được chính thức nêu ra trong bất cứ tài liệu nghiên cứu 9
  13. nào. Để có thể đưa ra định nghĩa "quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài" luận văn xin đi sâu phân tích, khai thác vấn đề ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh và phạm vi khác nhau. Về bản chất, quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có nguồn gốc từ quản lý, quản lý lao động. Trong đó, khái niệm quản lý có ngoại diên rộng nhất còn quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài lại là khái niệm có ngoại diên hẹp hơn cả. Nếu quản lý là sự tổ chức, điều khiển hoạt động chung, quản lý lao động là quản lý tất cả lực lượng lao động trong xã hội, quản lý tư liệu lao động thì quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là sự quản lý riêng một số lượng người lao động - những người đi làm việc, tạo ra thu nhập và tạm trú có thời hạn ở nước ngoài. Như vậy, từ quản lý, quản lý lao động đến quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài đối tượng quản lý đã được thu hẹp dần vào một phạm vi nhất định. Về mặt thuật ngữ thuần tuý, quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài được ghép lại bởi hai cụm từ có nghĩa độc lập: “quản lý” và “lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài”. Như đã trình bày ở trên, quản lý có nghĩa là: “Tổ chức, điều khiển hoạt động”; Lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài được hiểu là: “Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận người lao động, đi làm việc ở nước ngoài" [29] theo các hình thức do pháp luật qui định. Từ đó, ta có thể hiểu quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài theo thuật ngữ thuần tuý là sự tổ chức, điều khiển hoạt động đưa công dân Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài khi họ đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định. Dưới góc độ kinh tế - xã hội, quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là một hiện tượng xã hội, bao gồm toàn bộ các hoạt động, các khâu từ phân công, điều động, hợp tác đến kiểm tra, giám sát nhằm mục đích duy trì quyền năng của cơ quan, tổ chức, cá nhân lên đối tượng quản lý (người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài). Hoạt động quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài tồn tại khách quan và được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Cụ thể hoạt động đó hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường khi 10
  14. nước ta mở cửa giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lao động. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động được thừa nhận là một loại hàng hoá; người lao động có quyền sở hữu sức lao động của mình và được tự do trao đổi. Người sử dụng lao động trong và ngoài nước là những người có tư liệu sản xuất, có khả năng về tài chính và hoàn toàn được quyền mua sức lao động thông qua hoạt động thuê mướn lao động (thuê mướn theo hợp đồng hoặc theo từng công việc, thời vụ). Tính đến nay, việc người lao động Việt Nam "bán" sức lao động cho chủ sử dụng lao động nước ngoài rất phổ biến. Đó là hành vi chân chính, được pháp luật bảo hộ. Tuy nhiên, hoạt động này mang tính chất phức tạp nên để đảm bảo lợi ích chung cho các chủ thể, Nhà nước ta ngày càng tăng cường quản lý. Dưới góc độ pháp lý, quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài không đơn thuần là một hiện tượng kinh tế - xã hội nữa, mà đã được thể chế thành một chế định pháp luật độc lập, bao gồm một hệ thống các quy định được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật, từ Bộ luật lao động, Luật người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đến các Nghị định, Thông tư và các Hiệp định hợp tác lao động giữa nước ta với các nước đối tác. Bên cạnh đó, quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài còn được nhìn nhận là hành vi pháp lý của các chủ thể có thẩm quyền đặc biệt như: cơ quan Nhà nước (Chính Phủ, bộ Lao động thương binh và xã hội và các Bộ, ngành liên quan…), doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và chủ sử dụng lao động. Hành vi của các chủ thể này đều mang yếu tố quyền lực, trong đó quyền lực Nhà nước là quyền lực vốn có (được nhân dân tự nguyện trao cho) còn quyền lực của chủ sử dụng lao động được kết tinh từ tài chính, tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại và sự bảo trợ của pháp luật. Các chủ thể này sử dụng quyền lực của mình trong việc quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài nhằm tạo ra trật tự, kỷ cương để quản lý lao động một cách hiệu quả, tránh sự vi phạm, xâm hại của các chủ thể khác. Từ sự nghiên cứu trên đây, có thể hiểu Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài như sau: 11
  15. Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thiết kế các cơ chế, công cụ để tổ chức, chỉ đạo, điều hành, bảo vệ người lao động của các chủ thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. 1.1.2 Quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài Chủ thể quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài gồm: Nhà nước, doanh nghiệp, người lao động. Trong đó Nhà nước là chủ thể quản lý đặc biệt nhất. Vì sự quản lý của Nhà nước luôn gắn liền với yếu tố quyền lực. Vậy quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là gì? Từ định nghĩa quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài như đã phân tích và định nghĩa ở phần trên, luận văn có thể đưa ra khái niệm quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài như sau: Quản lý Nhà nước về lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thiết kế các cơ chế, công cụ để tổ chức, chỉ đạo, điều hành, bảo vệ người lao động của Nhà nước (đại diện là các chủ thể được nhà nước trao quyền như: các Bộ, ngành) nhằm phát triển kinh tế đất nước theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 1.2. Đặc điểm của quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài Hoạt động quản lý lao động Việt Nam là việc ở nước ngoài có những đặc trưng cơ bản về chủ thể, phạm vi, tính chất và mục đích quản lý. Những đặc điểm này tạo nên sự khác biệt giữa quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài và quản lý lao động Việt Nam làm việc ở trong nước. 1.2.1 Về chủ thể: Xét từ góc độ pháp luật Việt Nam thì chủ thể tham gia quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài gồm hai chủ thể cơ bản là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước như: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bộ y tế,… và doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Nhà nước quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là xuất phát từ chức năng nội tại của Nhà nước - chức năng quản lý đương nhiên. Chức năng này có từ khi Nhà nước được thành lập và được duy trì trong suốt quá trình tồn tại và 12
  16. phát triển. Nhưng điểm đáng chú ý ở đây là hành vi quản lý của doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trên thực tế, doanh nghiệp này mặc dù trực tiếp tuyển chọn, đào tạo, giáo dục định hướng và đưa người lao động sang nước ngoài làm việc nhưng không phải bất kỳ doanh nghiệp nào đưa đi cũng trực tiếp sử dụng số lao động đó (chỉ doanh nghiệp nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam mới trực tiếp sử dụng lao động mà doanh nghiệp đã tuyển chọn và đưa đi, còn doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài thì không trực tiếp sử dụng). Tuy không trực tiếp sử dụng lao động đã tuyển chọn và đưa sang nước ngoài nhưng doanh nghiệp đó vẫn là chủ thể cơ bản trong công tác quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài vì cả doanh nghiệp và người lao động đều bị ràng buộc vào bản hợp đồng mà hai bên đã tự nguyện thoả thuận và ký kết, đó là: “hợp đồng đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Ngoài hai chủ thể trên còn một số chủ thể khác cũng tham gia vào hoạt động quản lý, đó là: chủ sử dụng lao động nước ngoài, người lao động và người bảo lãnh cho người lao động. Chủ sử dụng lao động nước ngoài là một chủ thể đặc biệt bởi vì chủ thể này trực tiếp sử dụng, quản lý lao động Việt Nam kể từ khi người lao động đến làm việc trong công ty của họ nhưng trách nhiệm quản lý, cách thức quản lý của chủ thể này như thế nào thì pháp luật lao động của Việt Nam không quy định. Sự quản lý đó hoàn toàn được thực hiện theo pháp luật của nước sở tại. Sở dĩ như vậy là do pháp luật lao động của Việt Nam trong trường hợp này chỉ có giá trị đối với công dân của Việt Nam. Còn người lao động và người bảo lãnh cho người lao động có phải là chủ thể quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài hay không? Đây là vấn đề còn nhiều nhiều quan điểm khác nhau. Theo chúng tôi sự quản lý của người lao động là hoạt động “tự quản” - bước phát triển cao của quản lý. Hoạt động tự quản này chính là ý thức tự giác chấp hành chính sách pháp luật của người lao động, nó hình thành và tồn tại cùng với sự tồn tại của người lao động, được tôi luyện nâng cao cùng với tri thức của người lao động về chính sách, pháp luật và lợi ích cá nhân, lợi ích gia đình và xã hội; 13
  17. Người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài là người được người lao động lựa chọn, giới thiệu và được doanh nghiệp chấp nhận để ký hợp đồng bảo lãnh với doanh nghiệp, khi có đủ các điều kiện như: có đầy đủ năng lực hành vi dân sự để giao kết hợp đồng bảo lãnh, có khả năng về kinh tế đáp ứng điều kiện trong hợp đồng bảo lãnh, có uy tín, trách nhiệm để đảm bảo việc người lao động thực hiện trách nhiệm của mình. Trên thực tế sự quản lý của người bảo lãnh đối với người lao động là hoạt động có thật và hoàn toàn hợp lý bởi quyền lợi, uy tín của người bảo lãnh phụ thuộc vào người lao động cho nên trong trường hợp này họ có quyền, có trách nhiệm quản lý người lao động mà họ đã nhận bảo lãnh. Hành vi quản lý người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài của bản thân người lao động và người bảo lãnh cho người lao động là sự quản lý ở góc độ xã hội. Do đó nó là một nội dung không thể thiếu của luận văn. 1.2.2 Về phạm vi: Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có phạm vi quản lý tương đối rộng - đã vượt ra khỏi lãnh thổ hành chính của quốc gia. Điều đó xuất phát từ đối tượng quản lý - người lao động Việt Nam - những người thực tế đang làm việc ngoài lãnh thổ Việt Nam. Do có phạm vi quản lý như vậy nên các chủ thể thực hiện quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài phải chủ động cử cán bộ quản lý hay đặt Ban quản lý ở nước đối tác để kiểm tra, giám sát và bảo vệ quyền lợi của người lao động Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam cũng đã đặt Ban quản lý ở một số nước, những nước có số lượng lớn lao động Việt Nam làm việc như: Hàn Quốc (Ban quản lý gồm bốn thành viên), Nhật Bản, Đài Loan, Lybia,… Tuy đã đặt Ban quản lý nhưng công tác quản lý còn gặp nhiều khó khăn do đặc điểm “ngoài lãnh thổ” tạo nên. Ví dụ: Hiện nay, tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở thị trường Hàn Quốc là khoảng 50.000 lao động, trong đó chỉ có 36.400 lao động làm việc hợp pháp. Như vậy, số lao động Việt Nam bỏ trốn tại thị trường Hàn Quốc còn chiếm tỷ lệ rất cao (27,2%). Số lao động này cư trú và làm việc bất hợp pháp, không khai báo với cơ quan đại diện nên rất khó có thể quản lý họ. Theo Trưởng ban quản lý lao động Việt Nam tại Hàn Quốc nếu như năm 2005 mới có 9.500 lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc thì tính đến thời điểm hiện nay con số này đã là 13.600 14
  18. [31]. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam cũng đang cố gắng tìm kiếm, xử lý vi phạm và yêu cầu họ về nước. Tuy nhiên, công việc này gặp nhiều trở ngại do nhiều nguyên nhân khác nhau, một trong những nguyên nhân đó là do quyền lực của các cơ quan Việt Nam không phát huy tác dụng trên lãnh thổ Hàn Quốc. ở Đài Loan tình trạng lao động Việt Nam làm việc bất hợp pháp trở nên căng thẳng hơn bất cứ thị trường tiếp nhận lao động nào. Từ năm 1990 Đài Loan bắt đầu mở cửa tiếp nhận lao động của các nước Thái Lan, Philippin, Malaisia v ào làm việc và từ tháng 11 năm 1999 đến nay Đài Loan tiếp nhận thêm lao động Việt Nam. Lao động nước ngoài (bao gồm cả lao động Việt Nam) thường được tiếp nhận vào làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện và giúp việc gia đình. Hiện nay, số lao động Việt Nam làm việc ở Đài Loan đã lên tới 80 vạn người, trọng đó có 60 vạn người làm việc trong lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ công (làm việc tại các khu điều dưỡng). Như vậy thị trường Đài Loan là một thị trường tiếp nhận lao động lớn, và trong tương lai nhu cầu về lao động của thị trường này vẫn có nhiều khả năng mở rộng. Tuy nhiên, trong tổng số 80 vạn lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan có rất nhiều lao động đã tự ý bỏ trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp hoặc có tư tưởng nhấp nhổm tìm cách bỏ trốn khi sắp kết thúc hợp đồng lao động. Cao điểm của tình trạng lao động bỏ trốn diễn ra trong những năm 2004, 2005 trong lĩnh vực giúp việc gia đình và khán hộ công. Chính lối làm việc tuỳ tiện, tư duy luôn thường trực ý muốn bỏ trốn này đã khiến cho thị trường Đài Loan thất vọng, hoài nghi về lao động Việt Nam. Năm 2004, Đài Loan đã ban hành lệnh dừng tiếp nhận lao động Việt Nam đến làm việc trong lĩnh vực khán hộ công và giúp việc gia đình. Lệnh dừng tiếp nhận lao động này đã gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động đưa lao động sang làm việc tại nước ngoài của nhiều doanh nghiệp, đồng thời gây thiệt hại lớn cho thị trường lao động Việt Nam. Bởi Đài Loan là thị trường có khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc lớn nhất (năm 2004, trong tổng số 67.500 lao động xuất khẩu thì hơn một nửa là sang làm việc tại Đài Loan) [31] 1.2.3 Về tính chất: Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài có tính chất phức tạp. Tính chất phức tạp này một mặt do phạm vi như đã đề cập ở 15
  19. trên tác động, mặt khác do người lao động Việt Nam khi sang làm việc ở nước ngoài đồng thời song song chịu sự điều chỉnh của hai hệ thống pháp luật: hệ thống pháp luật của nước sở tại và hệ thống pháp luật của nước mà họ là công dân - pháp luật Việt Nam. Chính vì vậy, trong nhiều trường hợp một vụ việc phát sinh liên quan đến lao động Việt Nam thì cả hai quốc gia đều có thẩm quyền giải quyết. Điều này rất dễ dẫn đến sự xung đột về thẩm quyền hay xử lý trùng lặp vấn đề phát sinh. Để tránh tình trạng này Chính Phủ hai nước cần đàm phán, ký kết c ác Hiệp định song phương về quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. 1.2.4. Về mục đích: Không phải ngẫu nhiên mà vấn đề quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài trong những năm gần đây trở thành vấn đề nóng, được nhiều người quan tâm, thảo luận. Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài được thực hiện với nhiều mục đích khác nhau, đầu tiên hoạt động này được thực hiện nhằm mang lại quyền lợi cho người lao động - những người luôn ở thế yếu, thường xuyên bị đe doạ về quyền lợi và cần được quan tâm bảo vệ; không chỉ vậy hoạt động này còn đảm bảo lợi ích cho chủ sử dụng lao động, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và đặc biệt nhằm giữ gìn mối quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với quốc gia tiếp nhận lao động. Như vây, công tác quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài mang lại lợi ích cho tất cả các chủ thể liên quan, do đó luôn được quan tâm trong thời gian vừa qua cũng như trong hiện tại và tương lai. 1.3. Vai trò của quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nƣớc ngoài 1.3.1. Vai trò đối với Nhà nước: Quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài là một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước. Thông qua hoạt động này quyền lực của Nhà nước được thực thi. Quyền lực là sức mạnh của Nhà nước, là yếu tố quan trọng giúp Nhà nước tồn tại và phát triển vững mạnh. Bên cạnh đó, hoạt động quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài chính là việc Nhà nước tổ chức thực hiện những quy định của pháp luật đã ban hành. Trên thực tế khi cần điều chỉnh, quản lý một lĩnh vực nào đó trong xã hội Nhà nước đều phải ban hành pháp luật, đề ra đường lối, chủ trương nhằm tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho các chủ thể tham gia. Sau khi ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước 16
  20. (thông qua các cơ quan chuyên môn) tổ chức thực hiện các quy định đó bằng hành vi quản lý và đưa chúng vào đời sống để chúng phát huy chức năng của mình. Đối với Nhà nước quản lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài còn có vai trò to lớn trong việc ổn định trật tự, an toàn xã hội. Với số lượng lớn lao động đi làm việc ở nước ngoài như hiện nay nếu công tác quản lý không được thực hiện tốt thì một mặt uy tín của nước ta bị tác động, mặt khác trật tự xã hội trong nước cũng theo đó mà bị ảnh hưởng. Cụ thể khi lao động Việt Nam gây gổ, đánh nhau, cướp giật hay bỏ trốn thì thái độ của nước đối tác đối với người lao động và Chính Phủ nước ta sẽ đi theo chiều hướng xấu. Chủ sử dụng lao động mất lòng tin đối với lao động Việt Nam. Họ kết luận người lao động Việt Nam thiếu tinh thần kỷ luật. Chính bởi lý do đó người lao động Việt Nam dù có thông minh, khéo léo, tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh tới đâu chủ sử dụng lao động nước ngoài cũng bỏ qua và tìm kiếm nguồn cung ứng lao động từ quốc gia khác. Ngược lại, trong trường hợp lao động nước ta bị bóc lột, bị chèn ép quá mức hoặc chết không rõ nguyên nhân ở nước ngoài mà không được giải quyết thoả đáng thì người thâ của họ ở trong nước sẽ bất bình, hoài nghi thậm chí gây rối lúc đó trật tự xã hội sẽ bất ổn. Hơn nữa đây là cơ hội để các thế lực thù địch chống phá Nhà nước, chống phá chế độ của ta, lợi dụng, lôi kéo kích động người lao động, người thân của người lao động chống phá Nhà nước. Quản lý tốt lực lượng lao động làm việc ở nước ngoài là biện pháp cụ thể nhất góp phần giúp Nhà nước bình ổn xã hội, giữ vững uy tín của mình trước các đối tác và bạn bè quốc tế. 1.3.2. Vai trò đối với doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài: Như đã đề cập ở trên, doanh nghiệp đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài gồm: doanh nghiệp nhận thầu, khoán công trình ở nước ngoài; doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có sử dụng lao động Việt Nam và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đưa lao động Việt Nam sang làm việc ở nước ngoài. Mặc dù các doanh nghiệp này trên thực tế có thể trực tiếp sử dụng hay không trực tiếp sử dụng số lao động đã đưa đi nhưng tất cả các doanh nghiệp đó đều có quyền và trách nhiệm quản lý người lao động của mình. Hoạt động quản lý này vừa giúp doanh nghiệp thực hiện mục đích kinh doanh vừa bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp. 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2