intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

45
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ, đánh giá tính phù hợp của các chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện tư. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 8380101.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Trí Trung HÀ NỘI – 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Minh Trang
  4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BCC : Hợp đồng hợp tác kinh doanh BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BVĐK : Bệnh viện đa khoa FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài KCB : Khám bệnh, chữa bệnh TTNDN : Thuế thu nhập doanh nghiệp
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN ............................................. 7 1.1. Khái quát về bệnh viện tư nhân .......................................................... 7 1.1.1. Khái niệm bệnh viện tư nhân ............................................................ 7 1.1.2. Đặc điểm của bệnh viện tư nhân....................................................... 9 1.1.3. Vai trò của bệnh viện tư nhân ......................................................... 14 1.2. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ............. 16 1.2.1. Khái niệm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ..... 16 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ... 17 1.2.3. Nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ...... 17 1.3. Pháp luật về bệnh viện tư nhân ở một số nước trên thế giới .......... 21 Chương II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......... 28 2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân .. 28 2.1.1. Quy định về chủ đầu tư bệnh viện tư nhân ..................................... 28 2.1.2. Quy định về góp vốn....................................................................... 30 2.1.3. Quy định về thành lập bệnh viện tư nhân ....................................... 33 2.1.4. Quy định về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư nhân ................. 47 2.1.5. Quy định về tổ chức lại ................................................................... 59 2.1.6. Quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán doanh nghiệp đối với bệnh viện tư nhân ...................................................................................... 61 2.1.7. Quy định pháp luật về hỗ trợ tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư 67 2.1.8. Quy định về cạnh tranh trong hoạt động bệnh viện tư nhân ......... 69 2.1.9. Các quy định về kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm đối với bệnh viện tư nhân............................................................................................... 73 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ........................................................................................................ 76 2.3. Những vấn đề pháp lý đặt ra đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ...................................................................... 83 Chương III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN ............ 88 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật ..................................................... 88 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ......................................................... 89 KẾT LUẬN .................................................................................................... 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Sau hơn 20 năm thực hiện nghị quyết số 90/CP của Chính phủ ban hành ngày 21/08/1997 về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế văn hóa đã có lượng vốn hàng nghìn tỷ đồng được đầu tư vào hệ thống y tế tư nói chung và bệnh viện tư nhân nói riêng. Hiện các bệnh viện tư nhân vẫn không ngừng phát triển và lớn mạnh về mọi mặt, góp phần đa dạng hóa các dịch vụ khám, chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho người dân. Các bệnh viện được tập trung đầu tư cả về nhân lực và vật lực, được trang bị thiết bị y tế hiện đại, góp phần giảm tải tình trạng quá tải ở các bệnh viện công. Sự ra đời của khối bệnh viện tư nhân nằm trong chủ trương xã hội hóa y tế của Chính phủ. Nghị quyết 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã khuyến khích hợp tác công-tư, đầu tư tư nhân trong lĩnh vực y tế. Đầu tư tư nhân được khuyến khích trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của ngành y tế, từ sản xuất, cung ứng thuốc, trang thiết bị đến đào tạo, tư vấn sức khỏe, khám chữa bệnh… Trong số đó lĩnh vực y tế được tư nhân đầu tư nhiều vẫn là đầu tư phát triển cơ sở khám, chữa bệnh. Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 9 năm thi hành Luật KCB cho biết các cơ sở y tế tư nhân có bước phát triển lớn, đóng vai trò quan trọng trong cung ứng dịch vụ y tế cho người dân. Số bệnh viện và số giường bệnh ngoài công lập tăng nhanh: Năm 2005 có 43 bệnh viện trên địa bàn của 9 tỉnh, thành phố với 3.324 giường bệnh, nay đã tăng lên 250 bệnh viện với 15.475 giường bệnh (đạt 1,7 giường/vạn dân, chiếm 15% số bệnh viện và 5,6% số giường bệnh trong toàn quốc), có khoảng gần 40.000 nhà thuốc, 35.000 phòng khám đa khoa, chuyên khoa, cung cấp 43% dịch vụ ngoại trú và 2,1% tổng số dịch vụ 1
  7. nội trú cho người dân. Một số bệnh viện 100% vốn nước ngoài có trang thiết bị hiện đại đã được đưa vào hoạt động. Y tế tư nhân phát triển nhanh cả về quy mô và số lượng qua các năm. Năm 2018, 2019 tiếp tục thu hút sự tham gia của khu vực y tế tư nhân, một số bệnh viện tư nhân có quy mô được thành lập mới. Điển hình là các bệnh viện như: Bệnh viện Nhi Đức Tâm, Đăk Lăk (50 giường bệnh), Bệnh viện Mắt Cao Nguyên tại Gia Lai (100 giường bệnh), Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Hải Phòng (180 giường bệnh), Bệnh viện Phương Châu Sa Đéc (50 giường bệnh), Bệnh viện Đa khoa Medlatec với một loạt cơ sở mới tại Hà Nội… Bệnh viện tư nhân đã đạt được nhiều thành công nhất định trong hoạt động khám, chữa bệnh ngày càng khẳng định vai trò trong hệ thống y tế Việt Nam. Tuy nhiên một số bệnh viện tư vẫn còn xảy ra nhiều vi phạm trong quá trình hoạt động cũng như gặp phải nhiều vướng mắc, khó khăn. Vi phạm phổ biến của bệnh viện tư hiện nay là hoạt động không đúng với nội dung giấy phép được cấp, không công khai tên người hành nghề, bằng cấp, chứng chỉ, kinh nghiệm làm việc; không niêm yết công khai giá các dịch vụ; sử dụng lao động không có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn tương ứng; hoạt động không đúng địa điểm ghi trong giấy phép. Cá biệt có những cơ sở sử dụng “chui” lao động là người nước ngoài, không qua sự quản lý của các cơ quan chức năng về y tế và lao động. Việc tuân thủ quy trình khám chữa bệnh ở nhiều cơ sở còn bị xem nhẹ, dẫn đến những hậu quả đáng tiếc. Những bất cập của bệnh viện tư nhân ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh và gây khó khăn cho công tác quản lý của Nhà nước. Nguyên nhân của những bất cập trên là do cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động của bệnh viện tư nhân chưa hoàn thiện. Hiện chưa có hành lang pháp lý cụ thể cho bệnh viện tư. Các quy định pháp luật liên quan đến bệnh viện tư được quy định trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Bảo hiểm y tế, Luật 2
  8. Đầu tư, Luật Doanh nghiệp…và các văn bản dưới luật. Điều này có thể gây khó khăn, lúng túng cho bệnh viện tư khi thực hiện các quy định của pháp luật vì các quy định còn chưa thống nhất, đồng bộ, hoặc một số quy định còn chưa phù hợp với thực tiễn. Do vậy việc nghiên cứu pháp luật bệnh viện tư nhân là cần thiết, vừa là cơ sở để hoàn thiện pháp luật vừa tạo động lực thúc đẩy bệnh viện tư nhân phát triển. Bởi những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân ở Việt Nam” để hiểu rõ về quy trình thủ tục điều kiện, hoạt động của bệnh viện tư và đề xuất những giải pháp phù hợp hoàn thiện hệ thống pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bệnh viện tư nhân là một hình thức cơ sở khám, chữa bệnh trong y tế tư nhân. Có thể nói y tế tư nhân đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu y tế tư nhân có thể kể đến như: + Thực trạng chấp hành một số quy định của pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân năm 2003 tại các quận của thành phố Hà Nội” (556+567), tr.90-92; “Thực trạng một số vi phạm quy định của pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân năm 2003 tại các quận của thành phố Hà Nội”(569+570), tr.49-51 trên tạp chí Y học thực hành của tác giả Trần Quang Trung; + Đánh giá hiệu quả một số giải pháp tăng cường công tác quản lý hành nghề y tư nhân tại thành phố Đà Nẵng(2007-2009) trên tạp chí Y học thực hành (75), tr.70-73 của các tác giả Trần Quang Trung, Lê Ngọc Trọng, Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Huỳnh (2011); + “Một số kết quả đat được của y tế tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng (2007-2008) (741), tr (117-119) trên tạp chí Y học thực hành của các tác giả Trần Quang Trung, Lê Ngọc Trọng, Nguyễn Văn Hưng (2010); 3
  9. + Luận án tiến sĩ của tác giả Trần Quang Trung về “Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các cơ sở hành nghề y tế tư nhân tại Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp can thiệp (2007-2009)”. Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về hoạt động chuyên môn của các cơ sở y tế tư nhân. Một số công trình nghiên cứu y tế tư nhân dưới góc độ pháp luật có thể kể đến: + Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công “Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế” của tác giả Nguyễn Hoàng Phúc (2000); + Luận án Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội “Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Quang (2010). Có thể thấy các công trình nghiên cứu mới chỉ quan tâm về chuyên môn y tế và quản lý nhà nước trong y tế tư nhân. Chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện, đầy đủ về pháp luật bệnh viện tư nhân, từ đó đưa ra khuyến nghị hoàn thiện pháp luật, tăng cường kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện cho hoạt động thực tiễn, nâng cao hiệu quả hoạt động của bệnh viện tư nhân. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu tổng quát của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ, đánh giá tính phù hợp của các chế định pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện tư. 3.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tổng quát, luận văn cần làm rõ những vấn đề lý luận về đặc điểm của bệnh viện tư, pháp luật tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư. Nghiên cứu về điều kiện, trình tự thủ tục cấp giấy phép hoạt động và thực trạng 4
  10. hoạt động của bệnh viện tư hiện nay. Đồng thời chỉ ra mặt hạn chế trong quy trình, thủ tục đó, ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng của bệnh viện tư. Từ những hạn chế đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về bệnh viện tư. 4. Tính mới và những đóng góp của đề tài Có thể nói nghiên cứu pháp luật về tổ chức, hoạt động của bệnh viện tư là đề tài khá mới mẻ chưa có nhiều tác giả nghiên cứu sâu. Phần lớn những vấn đề được quan tâm là xây dựng y tế tư nhân, so sánh giữa y tế tư và y tế công... Việc nghiên cứu về điều kiện hoạt động không những đưa ra giải pháp tăng cường công tác quản lý mà còn hoàn thiện hệ thống y tế tư nhân, để hệ thống tư nhân phát triển bền vững, hạn chế những mặt tồn tại, những rủi ro đáng tiếc trong việc khám chữa bệnh cho người dân. Đề tài này cũng góp phần làm rõ lý luận trong việc nghiên cứu, điều chỉnh trình tự, thủ tục hoạt động của bệnh viện tư, những khó khăn trong phát triển bệnh viện tư. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật bảo hiểm y tế và các văn bản dưới luật, các nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách pháp luật… về hoạt động của bệnh viện tư và thực trạng hoạt động của bệnh viện tư ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay. 6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những nội dung sau: Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân; Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân Việt Nam hiện nay; Định hướng 5
  11. hoàn thiện và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân. Phương pháp nghiên cứu của luận văn Phần lý luận chung về pháp luật về điều kiện hoạt động của bệnh viện tư sử dụng các phương pháp nghiên cứ bao gồm: phương pháp diễn dịch, phân tích, tổng hợp. Phần thực trạng thực thi pháp luật trong hoạt động của bệnh viện tư sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm phương pháp diễn dịch, thống kê, so sánh, phân tích. Phần giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của bệnh viện tư sử dụng phương pháp nghiên cứu bao gồm: phương pháp phân tích, tổng kết, diễn dịch. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của bệnh viện tư nhân 6
  12. Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỆNH VIỆN TƯ NHÂN 1.1.Khái quát về bệnh viện tư nhân 1.1.1.Khái niệm bệnh viện tư nhân Trong những năm gần đây, hệ thống y tế Việt Nam ngày càng hiện đại, các dịch vụ y tế ngày càng phát triển và đem lại hiệu quả cao. Người dân có thêm nhiều cơ hội tiếp cận các thông tin y tế, được bảo vệ, chăm sóc nâng cao sức khỏe một cách khá toàn diện. Hệ thống y tế Việt Nam được tổ chức theo tổ chức hành chính bao gồm y tế tuyến trung ương, y tế tuyến địa phương, y tế cơ sở hoặc theo lĩnh vực hoạt động như khám chữa bệnh, điều dưỡng, y tế dự phòng, y tế công cộng, giám định, kiểm nghiệm, dược, thiết bị y tế hoặc tổ chức dựa theo tính chất chủ sở hữu bao gồm y tế Nhà nước và y tế tư nhân. Y tế tư nhân ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong hoạt động khám chữa bệnh. Khi y tế tư nhân phát triển thì các cơ sở y tế tư nhân đặc biệt là bệnh viện tư nhân cũng phát triển theo, cả về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ thu hút ngày càng nhiều người dân có nhu cầu khám chữa, bệnh. Theo khoản 2, điều 2 của Pháp lệnh 07/2003/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về hành nghề y dược tư nhân: Các cơ sở hành nghề y, dược tư nhân bao gồm: a) Cơ sở y, dược tư nhân; b) Cơ sở y, dược dân lập; c) Cơ sở y, dược có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó cơ sở y, dược tư nhân là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và quản lý, điều hành. Cơ sở y, dược dân lập là cơ sở do tổ chức đứng ra thành lập, được đầu tư bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước do tổ chức, cá nhân đóng góp và tự quản lý, điều hành. [24] 7
  13. Là một bộ phận không thể tách rời của một tổ chức xã hội y tế, bệnh viện là một cơ sở khám và điều trị bệnh được nhà nước công nhận, có chức năng chăm sóc sức khỏe toàn diện cho nhân dân. Bệnh viện không chỉ có khả năng và phương tiện chẩn đoán bệnh, điều trị và phẫu thuật, có điều kiện thuận lợi cho việc điều trị ngoại trú, nội trú mà còn là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, bệnh viện còn có chức năng chỉ đạo tuyến, hệ thống các bệnh viện được tổ chức theo tuyến kỹ thuật, tuyến trên có trách nhiệm chỉ đạo kỹ thuật cho tuyến dưới; chức năng phòng bệnh, song song với khám, chữa bệnh, phòng bệnh là nhiệm vụ quan trọng của bệnh viện; chức năng hợp tác quốc tế, bệnh viện thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của Nhà nước; chức năng quản lý kinh tế, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về thu, chi ngân sách của bệnh viện từng bước tổ chức thực hiện việc hạch toán chi phí về khám bệnh, chữa bệnh trong bệnh viện. Bệnh viện thường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, dựa vào chức năng chuyên môn để phân loại thành bệnh viện đa khoa có thể xét nghiệm, chữa trị hầu hết các loại bệnh, bệnh viện chuyên khoa dựa trên nhu cầu điều trị đặc biệt hoặc phân loại bệnh viện theo tuyến hoặc dựa vào tính chất sở hữu và hệ thống quản lý có thể phân loại thành bệnh viện công lập (do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật) và bệnh viện tư nhân (do cá nhân tổ chức không phải nhà nước đăng ký thành lập, sở hữu và điều hành). “Bệnh viện tư là một trong các thành phần kinh tế ngoài nhà nước cùng tham gia cung cấp các dịch vụ y tế, tham gia vào lực lượng xã hội để bổ khuyết cho khu vực y tế công” [12, tr.26], phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu khám, chữa bệnh trong xã hội. Nhiệm vụ của bệnh viện tư nhân được quy định cụ thể trong khoản 1 điều 7 Quyết định 217-BYT/QĐ: - Khám bệnh, kê đơn, chữa bệnh và làm các thủ thuật theo quy định của các cơ quan y tế có thẩm quyền và Hội đồng chuyên môn xét duyệt tiêu chuẩn 8
  14. hành nghề y tế tư nhân cùng cấp tuỳ theo năng lực cán bộ và các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật khác. - Phải tiếp nhận và giải quyết mọi trường hợp cấp cứu hoặc sơ cứu rồi chuyển ngay bệnh nhân đến các cơ sở y tế Nhà nước gần nhất. Như vậy, bệnh viện tư nhân là cơ sở y tế do các cá nhân, tổ chức góp vốn thành lập, thực hiện cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, thực hiện đồng thời các mục tiêu kinh doanh và phát triển sự nghiệp y tế. 1.1.2. Đặc điểm của bệnh viện tư nhân Là một tổ chức do các nhân, tổ chức đầu tư kinh doanh, thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân, bệnh viện tư nhân vừa có những đặc điểm của doanh nghiệp vừa có đặc điểm của một đơn vị sự nghiệp. Bệnh viện tư nhân là hình thức doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khám, chữa bệnh, là cơ sở kinh doanh có điều kiện. Bệnh viện tư nhân hội tụ đầy đủ các điều kiện của một thương nhân bao gồm: “Thực hiện các hành vi thương mại một cách thường xuyên và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình; Tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ” [5]. Bệnh viện tư nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cung cấp dịch vụ thương mại là dịch vụ y tế nhằm mục đích sinh lợi. Bệnh viện tư tham gia vào các hoạt động kinh doanh với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập, có khả năng bằng hành vi của mình, nhân danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật và tự chịu trách nhiệm đối với các hành vi đó. Các hoạt động kinh doanh của bệnh viện tư nhân được tiến hành thường xuyên, liên tục, và nguồn thu nhập chính là từ hoạt động kinh doanh đó. Để có thể đi vào hoạt động, bệnh viện tư phải đáp ứng các thủ tục hành chính như được cấp giấy phép đăng kí kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp và các giấy phép khác liên quan đến hoạt động chuyên môn. Ngoài ra doanh nghiệp thành lập bệnh viện còn phải đáp ứng các yêu 9
  15. cầu về nguồn lực con người, tài chính, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, quy trình kỹ thuật, địa điểm kinh doanh v.v... theo quy định của pháp luật và duy trì những yêu cầu đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Bệnh viện tư nhân là cơ sở kinh doanh có điều kiện do kinh doanh trong lĩnh vực khám chữa bệnh là ngành nghề có điều kiện theo quy định tại Luật Đầu tư. Bệnh viện tư là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xã hội đặc biệt. Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hóa tồn tại chủ yếu dưới hình thái vô hình, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời các nhu cầu sản xuất và đời sống của con người. Dịch vụ xã hội là những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao giá trị đạo lý, nhân văn, vì con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác [22]. Trong đó dịch vụ y tế chủ yếu do Nhà nước cung cấp, nhưng khu vực tư nhân cũng đã nhanh chóng tham gia cung cấp dịch vụ này, đặc biệt là khối bệnh viện tư nhân. Bệnh viện tư nhân cung cấp dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội đặc biệt bởi: Dịch vụ y tế cũng tham gia vào tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tạo cơ hội việc làm và tạo khả năng phát triển dịch vụ khác. Bên cạnh mục tiêu vì lợi nhuận, dịch vụ y tế còn bị điều tiết bởi yếu tố đạo đức, nhân văn, do dịch vụ y tế là dịch vụ xã hội tác động trực đến con người, gắn với trách nhiệm cao trước sức khỏe con người và tính mạng người bệnh. Chất lượng dịch vụ y tế không chỉ đơn thuần đánh giá bằng giá cả trên thị trường như các dịch vụ khác mà còn dựa trên sự hài lòng của người bệnh, kết quả công tác khám chữa bệnh, ứng xử, tác phong chăm sóc bệnh nhân của đội ngũ y bác 10
  16. sĩ…Dịch vụ y tế khác với các dịch vụ kinh tế hay xã hội khác vì liên quan đặc biệt đến các quyền con người như quyền được sống, quyền được bảo vệ sức khỏe. Tất cả mọi người trong xã hội không phân biệt lứa tuổi, giàu nghèo đều được hưởng một mức chăm sóc y tế tối thiểu như nhau. Do liên quan chặt chẽ đến yếu tố nhân đạo, nên dịch vụ y tế không bị nguyên tắc thị trường chi phối hoàn toàn. Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật để điều tiết và kiểm soát các doanh nghiệp bệnh viện trong việc cung ứng dịch vụ y tế theo yêu cầu của nhà nước, quy định, kiểm soát quy trình hoạt động của bệnh viện để đảm bảo quyền lợi cho người bệnh. Bệnh viện tư nhân do tư nhân thành lập dưới sự cho phép, ủy quyền của Nhà nước trong việc trực tiếp cung ứng dịch vụ y tế cho xã hội, được sự trợ giúp từ Nhà nước bằng các chính sách miễn, giảm thuế, các chính sách ưu đãi trong quá trình thành lập và hoạt động. Trong cung ứng dịch vụ, việc xác định đối tượng phục vụ là rất quan trọng. Xác định được đối tượng phục vụ, doanh nghiệp sẽ đáp ứng đúng, kịp thời, nhu cầu của khách hàng, đảm bảo hoạt động cho doanh nghiệp. Bệnh viện tư là doanh nghiệp cung cấp hàng hóa là dịch vụ y tế phục vụ đối tượng khách hàng đặc biệt là người bệnh. Khách hàng ở đây là người bệnh, trên thực tế thường có ít thông tin về bệnh tật và chỉ định điều trị, do vậy hầu như người bệnh phải hoàn toàn dựa vào các quyết định của bệnh viện trong việc lựa chọn dịch vụ y tế, không thể tùy ý lựa chọn dịch vụ mà phải theo sự hướng dẫn của các y bác sĩ có chuyên môn. Cụ thể, khi người dân có nhu cầu khám chữa bệnh, việc điều trị bằng phương pháp nào, thời gian bao lâu hoàn toàn do thầy thuốc quyết định. Như vậy, người ta chỉ có thể lựa chọn nơi điều trị và ở một chừng mực nào đó, người chữa chứ không chủ động lựa chọn được phương pháp điều trị cho mình. Mặt khác, do dịch vụ y tế là loại hàng hoá gắn liền với tính mạng con người nên mặc dù không có tiền nhưng người bệnh vẫn cần được khám, chữa bệnh (mua dịch vụ). Điểm này khiến đối tượng khách hàng 11
  17. này trở nên đặc biệt, khác với các đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ khác không phải là sức khỏe, người mua có thể có nhiều giải pháp lựa chọn, thậm chí tạm thời không mua nếu chưa có khả năng tài chính [10]. Hơn nữa, sử dụng dịch vụ này, giữa khách hàng là người bệnh và bên cung cấp dịch vụ là bệnh viện không có sự thỏa thuận giá cả, giá dịch vụ là do cơ sở bệnh viện tư quyết định. Người bệnh là người có tổn thương về thể chất và tinh thần, luôn lo lắng cho thể trạng sức khỏe và tình hình bệnh tật của mình và họ thường chỉ tìm đến dịch vụ y tế khi không thể tự phục hồi tại nhà, do vậy họ mong muốn được sử dụng dịch vụ tốt nhất trong điều kiện có thể để hồi phục sức khỏe nhanh nhất. Đối tượng phục vụ của các bệnh viện tư thường là những người có điều kiện, có nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế chất lượng tốt, trang thiết bị hiện đại, quy trình khám chữa bệnh nhanh chóng, chính xác. Hiện nay các bệnh viện tư cũng tiến tới đa dạng hóa các đối tượng phục vụ bằng việc đăng kí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, vì cung cấp dịch vụ y tế là cung cấp dịch vụ xã hội liên quan đến an sinh xã hội, đảm bảo quyền cơ bản của con người là quyền được sống, được chăm sóc sức khỏe. Bệnh viện tư nhân là doanh nghiệp vì sự nghiệp Nhà nước, vì cộng đồng hay còn gọi là đơn vị sự nghiệp ngoài công lập. Đơn vị sự nghiệp ngoài công lập là những tổ chức sự nghiệp không nằm trong khu vực nhà nước, được thành lập bởi các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp, các cá nhân hoặc liên doanh giữa các tổ chức với nước ngoài, có tư cách pháp nhân, cung cấp các dịch vụ công, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Bệnh viện tư nhân là đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được khuyến khích xây dựng, thành lập theo chủ trương xã hội hóa y tế của Chính phủ. Trong điều kiện nguồn lực còn hạn chế, Đảng, Quốc hội và Nhà nước đã có chủ trương xã hội hóa nhằm huy động các nguồn lực của xã hội, không những của Nhà nước mà còn của cá nhân, gia đình, cộng đồng và xã hội, của các cấp ủy đảng, chính quyền địa 12
  18. phương cũng như các ban ngành đoàn thể và các tổ chức xã hội phục vụ cho công tác chăm sóc sức khỏe. Nội dung chính là xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe, không phải là giảm đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước mà huy động các nguồn trên. Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của mỗi người dân, cộng động cũng như các cơ quan liên quan. Chủ trương xã hội hóa thực hiện theo quan điểm của Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng bệnh, KCB.” [16] Xã hội hóa sẽ đa dạng hóa các hình thức cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe (Nhà nước, tập thể, dân lập, tư nhân) cho phép nhiều lực lượng có hiểu biết và kinh nghiệm nghề nghiệp tham gia các dịch vụ chăm sóc sức khỏe dưới sự quản lý của Nhà nước nhằm cung ứng dịch vụ ngày càng thuận tiện cho người dân và giảm bớt sức ép về ngân sách cho Nhà nước. Khuyến khích các tổ chức, các cá nhân trong và ngoài nước thành lập các cơ sở khám chữa bệnh tư như bệnh viện tư nhân. Hội nghị lần thứ sáu ban chấp hành trung ương khóa XVII đã ban hành Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Trong đó nêu rõ quan điểm “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu” [2]. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) Về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi 13
  19. trường. Các chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế, khuyến khích phát triển y tế tư bao gồm cả bệnh viện tư nhân, bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài, phục vụ không chỉ nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân trong nước mà còn có thể thu hút các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nước ngoài. Xã hội hóa y tế sẽ tạo điều kiện và cơ chế cho các nhà đầu tư rót vốn vào lĩnh vực y tế, xây dựng mới, cải tạo bệnh viện. Bệnh viện tư nhân ra đời bắt nguồn từ nhu cầu của xã hội, là xu thế tất yếu của xã hội nhằm phục vụ cộng đồng trong công tác chăm sóc sức khỏe. Hơn nữa xây dựng và thành lập bệnh viện tư nhân cũng xuất phát từ sự quan tâm và thực sự mong muốn hoạt động vì cộng đồng của chủ đầu tư vì để bệnh viện tư nhân đi vào hoạt động cần tổng vốn đầu tư rất lớn, trang thiết bị máy móc phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh có thể lên đến nhiều tỷ đồng trong khi thu lợi từ hoạt động kinh doanh này phải diễn ra trong một thời gian dài nên đối với nhiều chủ đầu tư đây không phải là lĩnh vực đầu tư hấp dẫn. Bệnh viện tư nhân phải tuân thủ các yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình hoạt động để hướng tới sản phẩm đặc thù là sức khỏe người bệnh. Thực hiện chủ trương xã hội hóa y tế bằng việc khuyến khích thành lập bệnh viện tư không những đáp ứng cho nhu cầu xã hội mà còn thể hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong công tác chăm sóc sức toàn dân, trong sự nghiệp y tế. Từ những đặc điểm trên có thể nói bệnh viện tư là một chủ thể doanh nghiệp đặc biệt do bản chất có sự pha trộn giữa một đơn vị kinh doanh và một đơn vị sự nghiệp. Vậy nên pháp luật điều chỉnh hoạt động bệnh viện tư cũng cần có những đặc điểm đặc thù để đảm bảo cho bệnh viện tư có thể đồng thời đáp ứng được cả hai nhiệm vụ, nhiệm vụ của doanh nghiệp và nhiệm vụ của đơn vị sự nghiệp vì cộng đồng. 1.1.3. Vai trò của bệnh viện tư nhân Sự ra đời và phát triển của bệnh viện tư nhân cả về quy mô và chất lượng 14
  20. là xu thế tất yếu phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân. Người dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế đa dạng theo nhu cầu và yêu cầu, được phục vụ tận tình, chu đáo và tiết kiệm thời gian. Thu hút được nhiều người bệnh đến với mình cũng đồng nghĩa bệnh viện tư nhân đang chia sẻ gánh nặng quá tải với bệnh viên công nói riêng và khối y tế công lập nói chung trong việc cung cấp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ khám chữa bệnh. Trong khi bệnh viện công luôn đối mặt với tình trạng quá tải mỗi ngày, các bác sĩ, nhân viên tại bệnh viện công gần như phải làm việc trong trạng thái căng thẳng, mệt mỏi nên khó có thể đáp ứng toàn bộ được sự hài lòng của bệnh nhân thì bệnh viện tư có thể coi là một giải pháp giảm thiểu sự quá tải cho bệnh viện công. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các bệnh viện tư đã tạo ra sự cạnh tranh và những hiệu ứng tích cực đối với các cơ sở y tế công lập. “Nhiều đơn vị y tế công lập thời gian qua đã phải nhanh chóng đổi mới lề lối, tác phong phục vụ, đầu tư trang thiết bị hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng khám, điều trị để cạnh tranh” [20].Có thể nói sự phát triển của các bệnh viện tư nói riêng và hệ thống cơ sở y tế tư nhân nói chung đã kích thích thay đổi của hệ thống bệnh viện công theo hướng tích cực, giúp bệnh viện công thoát ra khỏi cách làm việc lâu năm trong cơ chế được bao cấp nguồn kinh phí hoạt động. Việc đầu tư từ nhân lực đến vật lực của bệnh viện tư nhân còn góp phần hạn chế tình trạng “chảy máu ngoại tệ” do người dân ra nước ngoài khám, chữa bệnh. Hiện nay rất nhiều người dân Việt Nam có điều kiện, một phần vì tâm lý hướng ngoại, một phần vì mong muốn ở nước ngoài được khám chữa bệnh trong môi trường không quá tải, cơ sở vật chất hiện đại, thái độ phục vụ tận tình và tôn trọng bệnh nhân mà lựa chọn các nền y tế khác trong khu vực như Singapore, Malaysia…Theo ước tính của Bộ Y tế Việt Nam, trong năm 2018 có khoảng 60.000 lượt bệnh nhân trong nước ra nước ngoài điều trị làm “chảy máu” nguồn ngoại tệ khoảng 2 tỷ USD. Với chất lượng dịch vụ y tế 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2