intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:122

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1: CEDAW và những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động; Chương 2: Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện CEDAW ở Việt Nam; Chương 3: Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ - một số vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------------------- VŨ NGỌC THỦY QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM (CEDAW) LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2007
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT -------------------- VŨ NGỌC THỦY QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG DƯỚI GÓC ĐỘ THỰC HIỆN CÔNG ƯỚC VỀ XÓA BỎ MỌI HÌNH THỨC PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM (CEDAW) CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ MÃ SỐ: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. CAO ĐỨC THÁI Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh HÀ NỘI – NĂM 2007
  3. MỤC LỤC Ký hiệu viết tắt .............................................................................................. 1 Mở đầu .......................................................................................................... 2 Chương 1: CEDAW và những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động................................................ 5 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động .......................................................................................... 5 1.1.1. Một số nét chính về quyền con người của phụ nữ .............................. 6 1.1.2.Vai trò của phụ nữ trong lao động và việc đảm bảo quyền con người của phụ nữ ..................................................................................................... 9 1.2. Tổng quan các điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động và Công ước CEDAW ........................................ 10 1.2.1. Tổng quan các Điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động ............................................................................... 10 1.2.2. Sơ lược lịch sử hình thành và vai trò của CEDAW .......................... 15 1.2.3. Nội dung các vấn đề pháp lý cơ bản của CEDAW trong lĩnh vực lao động ............................................................................................................. 19 1.2.4. Nghĩa vụ của Việt Nam – quốc gia thành viên CEDAW ................. 23 Chương 2: Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện CEDAW ở Việt Nam ................................. 26 2.1. Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta .. 26 2.1.1. Chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động -trước khi Việt Nam là thành viên của Công ước CEDAW, năm 1981 .............................. 26 2.1.2. Quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước liên quan đến bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động được ban hành sau khi Việt Nam tham gia Công ước CEDAW, năm 198129
  4. 2.2. Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực thi Công ước CEDAW ở Việt Nam ....................................... 54 2.2.1. Sơ lược kết quả thực hiện CEDAW ở các nước trên thế giới........... 54 2.2.2. Tình hình thực hiện CEDAW ở Việt Nam ....................................... 58 2.3. Thực hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên CEDAW ........................... 74 2.3.1. Việc soạn thảo và bảo vệ các báo cáo quốc gia thực hiện Công ước CEDAW ...................................................................................................... 74 2.3.2. Tuyên truyền nâng cao nhận thức ................................................... 75 2.3.3. Thiết lập bộ máy vì sự tiến bộ của phụ nữ ........................................ 77 2.3.4. Chiến lược, Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ .............. 81 2.3.5. Lồng ghép giới với việc bảo đảm quyền lao động của phụ nữ ......... 84 Chương 3: Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ - một số vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết ........................ 86 3.1. Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ - một số vấn đề đặt ra.................................................................................... 86 3.1.1. Một số quy định mang tính bình đẳng giới trong pháp luật lao động của nước ta chưa được đảm bảo trên thực tế ........................................ 86 3.1.2. Một số khuyến nghị của Uỷ ban CEDAW cần được nội luật hoá và bảo đảm trên thực tế ở Việt Nam ................................................................ 89 3.2. Phương hướng giải quyết ................................................................... 96 3.2.1. Giải pháp chung ................................................................................ 96 3.2.2. Giải pháp cụ thể ................................................................................ 98 Kết luận ..................................................................................................... 102 Phụ lục ...................................................................................................... 104 Tài liệu tham khảo ................................................................................... 107
  5. KÝ HIỆU VIẾT TẮT Bộ LĐ- Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội TB&XH Bộ NNPTNT Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn CEDAW Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ Chiến lược Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam GDI Chỉ số phát triển giới HDI Chỉ số phát triển con người ILO Tổ chức lao động quốc Từ KHHĐ Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam UBQG Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam UNDP Chương trình phát triển của Liên Hợp quốc WTO Tổ chức thương mại thế giới 1
  6. MỞ ĐẦU Lao động là lĩnh vực có ý nghĩa then chốt trong mọi nền kinh tế. Vì vậy, để đánh giá địa vị của người phụ nữ người ta thường nhìn vào việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực này. Số liệu thống kê cho thấy phụ nữ Việt Nam chiếm 50,8% dân số và 48% lực lượng lao động cả nước. Tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở nước ta duy trì ở mức cao, năm 2003, tỷ lệ này ở nữ là 68,5%, còn ở nam là là 75,8%. Các số liệu này cho thấy, phụ nữ đã và đang có những đóng góp hết sức to lớn trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Nhìn lại lịch sử dân tộc, từ khi giành được độc lập, trong bối cảnh "vừa kháng chiến vừa kiến quốc” phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp vô cùng to lớn sức người, sức của, kể cả sinh mạng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Những đóng góp quan trọng của phụ nữ đã được Bác Hồ ghi nhận: “ Non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ” (Hồ Chí Minh: đd, t.6, tr432). Được ký kết vào cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, CEDAW chính là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài nhằm xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ đã tồn tại rất lâu đời ở tất cả các nước trên thế giới. Sự ra đời của CEDAW đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh vì bình đẳng giới. CEDAW là văn kiện pháp lý quốc tế cụ thể hoá Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các Công ước quốc tế về quyền con người khác, trong đó có phụ nữ. Một trong những nội dung mà CEDAW đặc biệt quan tâm là việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động. Sau 25 năm tồn tại, CEDAW đã có những tác động mạnh mẽ làm thay đổi nhận thức về vai trò, vị trí của phụ nữ trên toàn thế giới. Tuy nhiên, cho đến nay, sự tồn tại dai dẳng từ tư tưởng trọng nam hơn nữ của chế độ phụ quyền sẽ vẫn là thách thức lớn nhất trong cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ và mang lại bình đẳng giới cho mọi châu lục. 2
  7. Việt Nam là một trong những nước đầu tiên tham gia ký kết và phê chuẩn Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Kể từ khi CEDAW chính thức có hiệu lực ở Việt Nam, cùng với nhiều biện pháp khác, Nhà nước ta đã nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia nhằm tạo cơ sở pháp lý đảm bảo quyền của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực lao động. Để thực thi CEDAW phù hợp với đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam, nhiều chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ trong lao động đã được ban hành, đặc biệt phải kể tới Bộ Luật lao động (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002) dành một chương riêng quy định về lao động nữ. Ngoài ra, Thủ tướng đã ra quyết định thành lập cơ quan tư vấn của Thủ tướng trong việc giám sát tình hình thực hiện CEDAW và các Chiến lược, KHHĐ nhằm đảm bảo các quyền của phụ nữ, trong đó có quyền lao động. Hơn 10 năm thi hành, Bộ Luật Lao động năm 1994 đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lý điều chỉnh các quan hệ pháp luật lao động nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ khi tham gia lao động, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới ở Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi Bộ Luật Lao động có hiệu lực thi hành và hơn 4 năm sau khi Bộ Luật này được sửa đổi, bổ sung (năm 2002), thực tiễn cho thấy rằng: quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động hầu hết đã được quy định nhưng chưa được đảm bảo thực thi trên thực tiễn, một số quyền của phụ nữ được đề cập trong CEDAW nhưng chưa được thể hiện đầy đủ trong pháp luật lao động của nước ta. Đó là những vấn đề như: tuổi hưu của lao động nữ, lao động nữ khu vực nông thôn chưa được thụ hưởng các chính sách về bảo hiểm xã hội, điều kiện an toàn, vệ sinh lao động và phương tiện sản xuất còn thấp kém, tỷ lệ mắc bệnh nghề nghiệp cao, cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi luật lao động tại các doanh nghiệp còn thiếu hiệu quả ...đặc biệt, khi Việt Nam đã gia nhập WTO, những vấn đề nêu trên sẽ là trở ngại lớn của phụ nữ khi tham gia quan hệ lao động, nhiều phụ nữ có nguy cơ bị sa thải do không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp hoặc chính những quy định bảo vệ phụ nữ trong lao động sẽ là rào cản khiến các doanh nghiệp từ chối tuyển dụng lao động 3
  8. nữ do bản thân doanh nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu mà chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra… Vậy làm thế nào để các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động được thực thi trên thực tế và các yêu cầu của CEDAW trong lĩnh vực này được chuyển hoá vào pháp luật Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này, đồng thời cũng là để đánh giá việc thực hiện CEDAW trên bình diện pháp luật và thực tiễn ở Việt Nam sau 25 năm thực hiện CEDAW và góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, tác giả đã chọn đề tài: “Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học. Để hoàn thành Luận văn, tác giả đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua phương pháp tư duy của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là hệ Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống các khái niệm về quyền con người và luật quốc tế về quyền con người luôn được tác giả quán triệt trong quá trình làm luận văn. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng hai phương pháp nghiên cứu cơ bản là: phương pháp so sánh (luật so sánh): áp dụng cho lĩnh vực quyền lao động giữa CEDAW và luật quốc gia...; phương pháp phân tích tài liệu được áp dụng trong việc nghiên cứu hệ thống các quy định của pháp luật lao động, nhất là trong đánh giá thực trạng điều chỉnh của pháp luật, xác định khoảng cách và mức độ phù hợp của pháp luật thực định so với yêu cầu của thực tiễn. Một số phương pháp hỗ trợ khác được sử dụng trong quá trình nghiên cứu như: dự báo, tổng hợp, tài liệu, kế thừa, đặc biệt là phân tích dữ liệu... 4
  9. Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1 CEDAW và những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động; Chương 2 Tình hình bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động dưới góc độ thực hiện CEDAW ở Việt Nam; Chương 3: Pháp luật lao động Việt Nam trong việc đảm bảo quyền của phụ nữ - một số vấn đề đặt ra và biện pháp giải quyết. Tác giả đã hoàn thành luận văn với sự hướng dẫn khoa học của TS. Cao Đức Thái – Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Cao Đức Thái cùng sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong suốt quá trình học và làm luận văn vừa qua. CHƢƠNG 1 CEDAW VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con ngƣời của phụ nữ trong lĩnh vực lao động: Hồ Chí Minh đã từng nói "Phụ nữ là một lực lượng lao động rất quan trọng", phụ nữ chiếm một nửa nhân loại. Vì vậy, theo Người "Nếu không giải phóng phụ nữ là chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội nhất định phải sản xuất cho thật nhiều. Muốn sản xuất nhiều thì phải có nhiều sức lao động. Muốn nhiều sức lao động thì giải phóng lao động của phụ nữ" (Hồ Chí Minh: đd, t.9,tr523; t.10, tr.225; t11, tr194). Chúng ta đều thừa nhận rằng quyền lao động là một trong những quyền kinh tế - xã hội cơ bản của con người. Phụ nữ chiếm hơn 50% lực lượng lao động. Do đó, nếu bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động, đem lại cho phụ nữ vị thế bình đẳng như nam giới trong lĩnh vực này cũng có nghĩa là đem lại cuộc sống với chất lượng tốt hơn cho tất cả mọi người. Hầu hết các nước trên thế 5
  10. giới đều đang ngày càng có sự đồng thuận cao ở mức độ quốc tế rằng nếu phân biệt về giới được xoá bỏ thì điều này có lợi không chỉ đối với mỗi cá nhân mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội, giúp tăng trưởng kinh tế, bảo đảm ổn định chính trị và công bằng xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có hàng triệu người trên thế giới đang không có việc làm hoặc không được tham gia vào môi trường lao động chỉ vì lý do giới tính hay nói rõ hơn chỉ vì họ là phụ nữ. Sự phân biệt đối xử này đã hạn chế người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo và phụ nữ ở vùng dân tộc thiểu số không có cơ hội thể hiện quan điểm của mình trong công việc, không được tham gia một cách dân chủ, bình đẳng tại nơi làm việc và chịu thiệt thòi trong việc hưởng thụ tiền lương và phúc lợi xã hội. Vì vậy, thực hiện xoá bỏ sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính và bảo đảm quyền của phụ nữ tại nơi làm việc là thực sự cần thiết. Thực hiện tốt nội dung này sẽ giúp cho mọi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ có thể tự do lựa chọn nghề nghiệp cho riêng mình, từ đó giúp họ phát triển đầy đủ năng lực và được hưởng thành quả từ sự đóng góp của mình đối với công việc. Để đạt được sự bình đẳng và dân chủ này, trước hết cần phải tiếp cận vấn đề từ góc độ bảo đảm quyền con người của phụ nữ. 1.1.1. Một số nét chính về quyền con người của phụ nữ: Tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ rất sớm, song quyền con người - pháp luật về quyền con người chỉ ra đời khi có nhà nước và pháp luật. Những điều kiện cơ bản cho sự ra đời của quyền con người, gắn với chủ nghĩa tư bản, đó là xã hội công dân, kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền. Điều đó không có nghĩa chủ nghĩa tư bản là điều kiện và cơ hội tốt nhất cho việc bảo đảm quyền con người. Quyền con người là một phạm trù lịch sử, bị giới hạn bởi các điều kiện lịch sử cụ thể. Quyền con người được phản ánh qua các học thuyết triết học và một số đạo luật nổi tiếng của các quốc gia phát triển sớm trên thế giới như Anh, Pháp, Mỹ. Từ thế kỷ XVIII, khái niệm này được đề cập trong bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng của Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiếp theo đó, bản 6
  11. Tuyên ngôn nhân quyền và Tuyên ngôn dân quyền của Pháp năm 1789 cũng khẳng định: Mọi người sinh ra đều tự do, bình đẳng về các quyền... Ở nước ta, trong Tuyên ngôn độc lập, tiếp đó là Hiến pháp năm 1946 đã có nhiều quy định về quyền con người dưới hình thức các quyền công dân. Tuy nhiên, phải đến khi Liên Hợp quốc ra đời với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và các điều ước quốc tế về quyền con người ra đời thì quyền con người mới bắt đầu một quá trình mới, quá trình quốc tế hoá, đồng thời chính thức trở thành chủ đề quan trọng, thường xuyên được đề cập trong quan hệ quốc tế. Hiến chương Liên Hiệp quốc 1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 được coi là những văn kiện đánh dấu bước ngoặt của vấn đề quyền con người trong lịch sử nhân loại, biến một vấn đề của quốc gia trở thành một vấn đề cơ bản liên quan đến mỗi con người và các quốc gia được điều chỉnh bởi pháp luật quốc tế. Một trong những nguyên tắc của quyền con người là quyền bình đẳng giữa các thành viên, trong đó, phụ nữ cũng như nam giới đều được đảm bảo các quyền con người như nhau trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ đã diễn ra trong nhiều thời kỳ lịch sử. Thông qua các cuộc đấu tranh lâu dài và bền bỉ của phụ nữ trên khắp thế giới, quyền của phụ nữ dần được phát triển. Các cuộc đấu tranh này xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau và gắn với hiện thực kinh tế, chính trị, xã hội đa dạng ở các thời kỳ khác nhau. Ở chế độ thực dân, để xác định vai trò của mình trong xã hội, phụ nữ đấu tranh để đòi bảo đảm quyền lao động, quyền được trả lương bình đẳng, quyền dân sự và tự do. Đến khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quyền của phụ nữ đã được ghi nhận, điều này đã được thể hiện rõ trong Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, năm 1948. Vậy khái niệm quyền con người là gì? Quyền con người là quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có của con người được luật quốc tế và luật quốc gia ghi nhận. Quyền con người là một phạm trù 7
  12. lịch sử, là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của nhân loại vươn tới những lý tưởng giải phóng hoàn toàn cho con người và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, nhân đạo. Quyền con người là những quyền không thể chuyển nhượng hay nói cách khác là quyền gắn liền với mỗi con người. Quyền con người là sở hữu vốn có của mỗi con người bất kể địa vị của họ trong nền văn hoá, hệ thống luật pháp hoặc chính trị cụ thể nào và không bị hạn chế bởi bất cứ yếu tố nào về chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo...và giới tính. Sự hiện hữu của quyền con người phụ thuộc vào sự tồn tại của con người chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh hoặc hệ thống xã hội mà người đó đang sinh sống. Quyền con người được quốc tế thừa nhận và hình thành nên một chuẩn mực tối thiểu để tất cả mọi người phải tuân theo ở mọi nơi, không phân biệt vùng và lãnh thổ. Việc các quốc gia tham gia các điều ước quốc tế về quyền con người có nghĩa các quốc gia đã chấp nhận sự ràng buộc về mặt pháp lý theo công ước, có nghĩa vụ thực hiện Công ước hoặc không tuân thủ áp dụng các quyền con người nào được quy định trong các điều ước quốc tế mà họ đã tham gia. Bình đẳng và không phân biệt đối xử là những nguyên tắc cơ bản của quyền con người.d Khái niệm bình đẳng giới không chỉ có nghĩa là phụ nữ và nam giới được đối xử giống nhau. Người ta đều công nhận rằng phụ nữ và nam giới có những đặc điểm khác nhau về giới tính. Sự khác biệt về giới chủ yếu do khuôn mẫu văn hoá của mỗi quốc gia tạo nên. Phụ nữ và nam giới cũng có những vai trò quan trọng khác nhau trong việc xây dựng và phát triển xã hội và có những nhu cầu khác nhau. Do đó, Nhà nước cần xem xét sự khác biệt này trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách để thúc đẩy việc bảo đảm quyền con người và mang lại bình đẳng cho cả nam giới và phụ nữ. Thực tiễn cho thấy, mặc dù trong những năm gần đây, khái niệm bình đẳng giới đã được nhiều quốc gia chấp nhận và phong trào đấu tranh cho bình đẳng giới cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể song phụ nữ ở mọi quốc gia trên thế giới vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới. Phụ nữ vẫn đang là nạn nhân của tệ phân biệt đối xử trong gia đình, ngoài xã hội cũng như ở công sở. 8
  13. Như vậy, có thể nói quyền công dân, quyền con người của phụ nữ còn bị vi phạm dưới nhiều hình thức khác nhau mà chưa có các biện pháp xử lý có hiệu quả. Bất bình đẳng về giới là một trong những lý do dẫn tới việc thế giới hình thành khái niệm “chuẩn mực quốc tế về quyền con người của phụ nữ”. Khái niệm này cụ thể hoá các điều khoản quy định về quyền tự do và bình đẳng của phụ nữ với tư cách là tập hợp các quyền con người. Theo đó, các khía cạnh bình đẳng về địa vị, cơ hội và mức độ thụ hưởng phúc lợi của phụ nữ được đề cập đầy đủ, các hành vi phân biệt đối xử - trực tiếp và gián tiếp - được chỉ rõ cùng với các phương thức bảo đảm cho phụ nữ được hưởng các quyền theo luật định. Cùng với sự phát triển của nhận thức loài người, dưới ánh sáng của khoa học-công nghệ mới, chuẩn mực quốc tế về quyền con người của phụ nữ ngày càng được bổ sung đầy đủ hơn. Kế thừa và tôn trọng những luận điểm trên, Việt Nam cũng đã, đang và sẽ tiếp tục áp dụng các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nói chung và quyền con người của phụ nữ nói riêng ở Việt Nam. Các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc những năm gần đây luôn đề cập tới nội dung về bảo đảm quyền con người của phụ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện các quyền của mình. Các khái niệm giới, bình đẳng giới mà quốc tế đưa ra nhằm thiết lập lại quyền con người của phụ nữ cũng đã dần dần trở nên phổ cập ở nước ta. Việt Nam cũng đã tích cực tham gia các công ước quốc tế liên quan đến quyền con người của phụ nữ và của lao động nữ. 1.1.2. Vai trò của phụ nữ trong lĩnh vực lao động: Quyền lao động là một trong các quyền kinh tế - xã hội cơ bản của con người. Theo báo cáo của Liên hợp quốc, phụ nữ hiện đang ghánh vác gần 75% thời gian lao động, bao gồm cả lao động xã hội lẫn lao động trong gia đình. Nói về vai trò của người phụ nữ trong xã hội, S. Furier - người theo chủ nghĩa xã hội học không tưởng của Pháp đã từng nhận định: "Mức độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội". Danh ngôn cổ Trung quốc cũng có câu: "Phụ nữ đỡ nửa bầu trời". Sự đúc kết đó đã nói lên vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Cuộc đấu tranh nhằm phục hồi lại các quyền của phụ 9
  14. nữ nói chung và lao động nữ nói riêng đang diễn ra trên toàn thế giới và đây không còn là vấn đề riêng của một quốc gia nào. Ở nước ta, Bác Hồ cũng đã khẳng định: "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” (Hồ Chí Minh: đd, t.6, tr432). Ngày nay, tỉ trọng của lao động nữ trong lực lượng lao động đang có xu hướng gia tăng. Phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển của con người. Thông qua các hoạt động như chăm sóc gia đình, sản xuất nông nghiệp và làm công ăn lương - phụ nữ có tác động tích cực không chỉ trong lao động gia đình mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Trên toàn cầu, số lượng và ảnh hưởng của các vị trí công việc do phụ nữ đảm trách đang tăng lên. Phụ nữ đã tham gia vào các lĩnh vực và làm những việc mà trước đây chủ yếu là đặc quyền của nam giới. Bên cạnh những thay đổi lớn đó, phụ nữ vẫn chưa thực sự được đảm bảo bình đẳng về cơ hội và đối xử như nam giới trong lĩnh vực lao động. Phần lớn lao động nữ vẫn chỉ làm một số việc không cần kỹ năng, nhiều lao động nữ vẫn phải nhận lương ít hơn đồng nghiệp nam cho cùng một công việc. Ở những nước phát triển và các nước đang phát triển số phụ nữ bị thất nghiệp nhiều hơn nam giới và họ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực hơn nam giới khi kinh tế suy thoái. Điều này làm suy giảm những thành tựu mà vất vả lắm phụ nữ mới đạt được. Lao động nữ còn phải đối mặt với những thách thức khác như: vẫn phải chịu những hạn chế về văn hoá, kinh tế và xã hội; phụ nữ tiếp tục phải ghánh vác những trách nhiệm trong gia đình, công việc và những khó khăn hàng ngày trong cuộc sống; phải chịu áp lực nhiều hơn nam giới trước tình hình kinh tế của đất nước, trước những đổi mới công nghệ, điều chỉnh cơ cấu và những đổi thay trong thị trường lao động; phụ nữ hay bị giao những công việc không ổn định, tạm thời, không có hợp đồng, làm ngắn hạn và gia công... Những thách thức này làm cho phụ nữ luôn cảm thấy tự ti và dễ bị gạt ra ngoài lề cuộc sống, phụ nữ luôn phải làm việc quá sức, thậm chí phải làm những công việc trong môi trường độc hại như trong hầm lò, vệ sinh môi trường... 10
  15. Để rút ngắn khoảng cách giới và bảo đảm được quyền lợi của phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng, Liên hợp quốc và các nước đã áp dụng nhiều biện pháp tích cực, tuy nhiên, trên thực tế cho đến nay vẫn chưa có nước nào được công nhận là đã đạt được bình đẳng giới thực chất. Bên cạnh phương pháp tiếp cận phát triển và tiếp cận giới, nhiều nước hiện nay đang quan tâm sử dụng phương pháp tiếp cận quyền để bảo đảm cho phụ nữ được tôn trọng nhân phẩm và phát triển bền vững. Phương pháp tiếp cận quyền cho phép chúng ta xem xét vấn đề vai trò và sự tham gia của phụ nữ một cách tổng thể, không thiên kiến và chủ yếu dựa trên các quy định mang tính pháp lý về quyền tự do, bình đẳng của con người. Do vậy, nó hoàn toàn khác với quan điểm "ưu tiên" cho phụ nữ. Ngày nay, phụ nữ đã ý thức cao hơn về quyền lợi của mình. Họ chủ động tham gia và hoạt động tốt trên nhiều lĩnh vực. 1.2. Tổng quan các điều ƣớc quốc tế về quyền con ngƣời của phụ nữ trong lĩnh vực lao động và Công ƣớc CEDAW: 1.2.1 Tổng quan các điều ước quốc tế về quyền con người của phụ nữ trong lĩnh vực lao động: Cùng với sự ra đời của Liên hợp quốc, Hiến chương Liên hợp quốc xác định mục tiêu của Liên hợp quốc và các quốc gia thành viên là tôn trọng, khuyến khích và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo và coi đó là một trong những điều kiện quan trọng của công cuộc gìn giữ hoà bình và tiến bộ trên toàn thế giới. Với tư cách một tổ chức pháp lý lớn nhất trên thế giới có trên 190 quốc gia thành viên, Liên hợp quốc thừa nhận và khuyến khích sự tham gia của phụ nữ trong hệ thống của mình. Điều 8 của Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: “Liên hợp quốc không đưa ra bất kỳ mặt hạn chế nào về việc phụ nữ và nam giới được quyền tham gia vào bất cứ công việc gì trên cương vị bình đẳng vào các cơ quan chính và trực thuộc của Liên hợp quốc”. Trong thực tiễn hơn 50 năm hoạt động của mình, Liên hợp quốc đã tuân thủ nghiêm các quy định trên và đã có những biện pháp rất tích cực để tăng cường số lượng phụ nữ trong bộ máy của mình. 11
  16. Kể từ khi tổ chức Liên hợp quốc ra đời đến nay đã có rất nhiều điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người nói chung và quyền con người của phụ nữ nói riêng được ban hành. Tính đến nay đã có trên 50 Công ước, tuyên ngôn, các điều lệ và tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền con người. 50 văn kiện này xác lập các chuẩn mực quốc tế về quyền con người dựa trên 3 văn kiện chính - được coi là "Bộ luật quốc tế về quyền con người", đó là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội năm 1966.  Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1948. Đây là văn kiện đầu tiên, văn bản “gốc” cho "Bộ luật quốc tế về quyền con người" và được coi như "một thành tựu chung của tất cả các quốc gia, dân tộc". Bản tuyên ngôn đề cập đến quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người, bất kể đàn ông hay phụ nữ, ở bất cứ nơi nào trên thế giới, không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn là khẳng định quyền tự do và bình đẳng là quyền cố hữu và không thể chuyển nhượng của con người (Điều 1). Điều 2 đề cập tới nguyên tắc cơ bản về bình đẳng và không phân biệt đối xử trong việc thụ hưởng các quyền tự do và bình đẳng của con người, đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, kể cả về phương diện giới tính. Điều 23 quy định mỗi người đều có quyền làm việc, tự do chọn nghề nghiệp, được có những điều kiện làm việc thuận lợi và chính đáng, được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; được trả lương xứng đáng và hợp lý để đảm bảo cho bản thân và gia đình một cuộc sống có đầy đủ giá trị nhân phẩm , được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo hiểm xã hội khác; được thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ quyền lợi của mọi người. Điều 24 quy định quyền nghỉ ngơi và giải trí bao gồm được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và nghỉ phép định kỳ hưởng lương. Tuyên ngôn quy định rõ quyền của tất cả mọi người - phụ nữ và nam giới được đối xử như mọi thành viên trong xã hội, quyền được bảo trợ xã hội, được làm việc, được tham gia vào đời sống văn hoá của cộng đồng, được tiếp cận các dịch vụ công cộng… Như vậy, bên cạnh các quyền về dân sự - chính trị, Tuyên ngôn đề cập 12
  17. đến các quyền tham gia vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, trong đó có quyền làm việc của con người. Tất cả những quyền này được đảm bảo cho cả nam và nữ trên cơ sở sự thừa nhận chung là con người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền và rằng họ được phú cho lý trí, lương tri và đạo đức, cho nên họ phải được thụ hưởng các quyền và tự do tất yếu, một cách bình đẳng, không phân biệt giới tính.  Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua năm 1966, có hiệu lực năm 1976 sau khi có 35 quốc gia cùng phê chuẩn. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Đây là văn kiện pháp lý quốc tế cơ bản quan trọng nhất về các quyền dân sự, chính trị của con người. Công ước ghi nhận quyền của tất cả mọi người về dân sự, chính trị ...(Điều 25) và quy định tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng (Điều 26).  Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966, có hiệu lực năm 1976 sau khi có 35 quốc gia ký và phê chuẩn. Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982. Liên quan tới lĩnh vực lao động-việc làm của phụ nữ, Công ước thừa nhận quyền làm việc, quyền của mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự lựa chọn hoặc chấp thuận và trách nhiệm của các quốc gia thành viên tạo công ăn việc làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo quyền tự do cơ bản về chính trị, kinh tế của từng cá nhân. Điều 6 yêu cầu bảo đảm điều kiện làm việc cho phụ nữ không kém nam giới và được tin cậy như nhau đối với cùng công việc như nhau và “cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt từ công việc của mình lên chức vụ thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và khả năng làm việc” (khoản c). Điều 13 quy định mọi người có quyền được giáo dục - đây là tiền đề cơ bản cho việc tiếp cận và thụ hưởng các quyền con người và là điều kiện cho họ tham gia một cách có hiệu quả vào xã hội, thúc đẩy sự hiểu biết chung. Điều 15 quy định quyền tham gia vào đời sống văn hóa, hưởng các lợi ích từ tiến bộ khoa học và được bảo hộ các quyền lợi vật chất, tinh thần từ các hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân. Ở đây quyền được 13
  18. hưởng đời sống văn hóa bao gồm cả quyền bình đẳng trong tiếp cận thông tin, hưởng lợi các thành quả khoa học công nghệ tiên tiến là một vấn đề mấu chốt. Bởi vì thực tế cho thấy chính do thiếu thông tin, thiếu hiểu biết không làm chủ được các thiết bị mới, trong đó có công nghệ thông tin - truyền thông mà một bộ phận khá đông đảo phụ nữ đã bị loại dần khỏi xã hội. Công ước có các quy định cụ thể như quyền được lao động trong các điều kiện công bằng và thuận lợi có bảo trợ xã hội, quyền có mức sống xứng đáng và có những chuẩn mực cao nhất về sức khoẻ thể chất và tinh thần, quyền được giáo dục và hưởng các lợi ích từ tiến bộ khoa ọc và văn hóa. Dựa trên nguyên tắc quyền không thể chia cắt và phụ thuộc lẫn nhau của các quyền con người, các quyền được nêu trên ngày càng được các quốc gia quan tâm hơn. Quy định này góp phần bảo đảm quyền con người cho mọi công dân, đặc biệt là phụ nữ. Theo quy định “nghĩa vụ công dân”, các quyền đó cần được thực hiện ngày càng tốt hơn tương ứng với các điều kiện phát triển của đất nước. Điều này mang lại một lợi ích to lớn cho việc đáp ứng các nhu cầu thực tiễn, trước mắt của phụ nữ và trẻ em gái về việc làm, thu nhập, giáo dục cơ bản, chăm sóc sức khỏe. Khi các nhu cầu thực tiễn này được đảm bảo, chúng sẽ tạo ra nền tảng vững chắc cho việc đáp ứng các lợi ích chiến lược của phụ nữ, đó là việc nâng cao vị thế của họ trong gia đình và ngoài xã hội. Năng lực làm việc của phụ nữ do đó ngày càng được nâng cao hơn. Quy định không phân biệt đối xử nêu trong Điều 2 của Công ước này yêu cầu các quốc gia tham gia Công ước phải rà soát luật pháp, chính sách và đề ra các giải pháp để loại trừ mọi hình thức, biểu hiện phân biệt đối xử trên cơ sở giới. Nghiên cứu và phân tích các quy định liên quan đến phụ nữ trong văn kiện của "Bộ luật quốc tế về quyền con người" cho thấy về mặt pháp lý phụ nữ có quyền được hưởng đầy đủ các quyền tự do và bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ngang bằng với nam giới. Trong lĩnh vực lao động - việc làm, nhà nước không chỉ có trách nhiệm bảo hộ các quyền của phụ nữ mà còn phải tạo ra các điều kiện và cơ hội thuận lợi cho phụ nữ được phát triển bình đẳng như nam 14
  19. giới, nhằm bù đắp một phần sức lực phụ nữ đã bỏ ra để tái sản xuất sức lao động cho xã hội thông qua việc sinh đẻ. Có thể nói, mặc dù trong điều kiện cộng đồng quốc tế hiện nay vẫn đang tồn tại sự khác biệt về hệ tư tưởng, chế độ xã hội, truyền thống và bản sắc văn hoá, Bộ luật quốc tế về quyền con người vẫn được xem như nền tảng tinh thần, cơ sở đạo lý và pháp lý chung của cộng đồng quốc tế. Và kể từ khi ra đời đến nay, các văn kiện trong "Bộ luật quốc tế về quyền con người" luôn được thừa nhận như Hiến pháp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền (Viện nghiên cứu quyền con người, Luật quốc tế về quyền con người, tr73) và có ảnh hưởng sâu sắc tới tất cả các văn kiện của Liên hợp quốc, trong đó có các văn kiện về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ.  Tổ chức Lao động thế giới (ILO) và các điều ước liên quan đến lao động nữ: Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã ghi nhận tình trạng phân biệt đối xử với lao động nữ là phổ biến. Cùng với các Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác, ILO đã ban hành nhiều Công ước nhằm đảm bảo quyền và nâng cao địa vị của người phụ nữ trong lĩnh vực lao động, tiêu biểu là các Công ước như: Công ước 45 (1935) về sử dụng lao động nữ vào những công việc dưới mặt đất, trong hầm mỏ; Công ước số 100 (1951) về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau; Công ước số 111 (1958) về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp; Công ước 156 (1981) về bình đẳng cơ may và đối xử với lao động có trách nhiệm gia đình… Công ước số 100 và Công ước số 111 là hai trong số những công ước nêu trên của ILO được nước ta phê chuẩn đầu tiên sau khi tái gia nhập ILO năm 1992 (Việt Nam phê chuẩn 2 công ước này vào năm 1997). Đây là hai công ước được đánh giá là có ảnh hưởng nhiều nhất tới việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực lao động. Công ước 100 khẳng định: “trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một công việc có giá trị ngang nhau” là các mức trả công được ấn định không phân biệt đối xử về giới tính. Khái niệm “trả công” được 15
  20. hiểu bao gồm tiền lương cơ bản hoặc tiền đãi ngộ và các thù lao khác được trả trực tiếp hoặc gián tiếp bằng tiền hoặc hiện vật do người sử dụng lao động trả cho người lao động từ việc làm của người lao động. Mức trả công chênh lệch giữa những người lao động không xét giới tính mà là tương ứng với sự khác biệt trong công việc được xác định và đánh giá khách quan được Công ước coi là không trái với nguyên tắc bình đẳng trong trả công nêu trên. Công ước 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp ra đời với mục đích chấm dứt sự phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp. Theo Công ước này sự “phân biệt đối xử” bao hàm bất cứ sự phân biệt, loại trừ hay ưu tiên nào dẫn đến sự đối xử bất công hoặc tước đi cơ hội trong công việc vì những lý do không liên quan tới năng lực của người lao động (ví dụ như giới tính, tuổi tác…). Công ước cũng chỉ ra những trường hợp không bị coi là phân biệt đối xử bao gồm: sự phân biệt đối xử dựa trên các yêu cầu hợp lý của công việc (ví dụ: giới tính- người phục vụ hay dọn nhà vệ sinh là nam hay nữ); các biện pháp bảo vệ đặc biệt hoặc trợ giúp đặc biệt được quy định trong các công ước và khuyến nghị của ILO (VD: bảo vệ lao động nữ đang mang thai không phải làm đêm – C.Ư 171); những biện pháp đặc biệt – sau khi có ý kiến của các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động, người lao động- nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của những người mà việc bảo vệ họ hoặc sự trợ giúp đối với họ được thừa nhận là cần thiết vì những lý do như giới tính, độ tuổi, gánh nặng gia đình... 1.2.2. Sơ lƣợc lịch sử hình thành và vai trò của CEDAW: Xuất phát từ những khó khăn trong việc đấu tranh đòi quyền con người cho phụ nữ, Liên hợp quốc đã có nhiều nỗ lực để cải thiện tình hình. Trước hết phải kể tới sự ra đời của bản Tuyên bố về xoá bỏ tất cả mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1967. Có thể nói bản Tuyên bố là Dự thảo quan trọng của CEDAW khi đưa ra một cách tiếp cận mới trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ. Tuyên bố yêu cầu các quốc gia bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới trước pháp luật. Tuy nhiên, Tuyên bố không phải là một văn kiện pháp lý nên chưa đủ hiệu lực để ngăn ngừa tình trạng phân biệt đối xử với 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2