intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

48
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HẢI QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THANH HẢI QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng Hà Nội - 2016 [ ii
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thanh Hải iii
  4. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT Bộ luật Dân sự năm 2005 : BLDS Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 : BLTTDS Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : CHXHCN Hội đồng xét xử : HĐXX Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao : HĐTPTANDTC Tòa án nhân dân : TAND Tòa án nhân dân Tối cao : TANDTC Tố tụng dân sự : TTDS Luật Hôn nhân và Gia đình : Luật HN và GĐ Vụ án dân sự : VADS Viện kiểm sát : VKS iv
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1 .......................................................................................................... 8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT .. 8 CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ..................... 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự .......................................................................................... 8 1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự......................................................................................... 14 1.3. Lƣợc sử quá trình hình thành và phát triển của các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam . 17 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 29 Chƣơng 2 ........................................................................................................ 30 PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN30 TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ .................................................................................................................... 30 2.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự ......................................................................................................................... 31 2.2. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc thay đổi, bổ sung yêu cầu và rút đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập.................... 39 2.3. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc tham gia hòa giải và tự thỏa thuận giải quyết vụ án dân sự ............................................................. 47 2.4. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong việc kháng cáo, thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu kháng cáo ..................................................................... 54 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 63 Chƣơng 3 ........................................................................................................ 64 v
  6. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT ........................... 64 CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ ........ 64 3.1. Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay .................................................... 64 3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự ở nƣớc ta hiện nay........................................................ 73 KẾT LUẬN .................................................................................................... 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 89 vi
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong tố tụng dân sự quyền tự định đoạt của đương sự được xem là một quyền tố tụng đặc biệt quan trọng, chi phối quá trình tố tụng dân sự và tạo nên đặc trưng cơ bản của tố tụng dân sự so với các loại hình tố tụng khác như tố tụng hình sự, tố tụng hành chính. Các mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống dân sự không phải là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không phải là tội phạm được pháp luật hình sự điều chỉnh, vì vậy pháp luật quy định và bảo đảm cho đương sự có quyền định đoạt trong việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó. Quyền tự định đoạt của đương sự chính là quyền tự do ý chí của đương sự, trong đó đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết mâu thuẫn, các tranh chấp và các việc khác liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là bảo đảm cho đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án theo quy định của pháp luật. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những hoạt động tích cực trong công cuộc cải cách tư pháp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa sâu rộng trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội như hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội ngày càng được quan tâm, điều chỉnh bởi pháp luật. Nhà nước với tư cách là một chủ thể đặc biệt có chức năng quản lý xã hội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật đảm bảo cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội bảo vệ một cách tốt nhất các quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự 1
  8. 2004 (BLTTDS) được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 29/3/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 quy định khá đầy đủ các vấn đề về tố tụng dân sự là một công cụ pháp lý quan trọng bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế và lao động được nhanh chóng, kịp thời, công bằng, đúng pháp luật. Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, trong đó quy định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm đã được bổ sung, sửa đổi. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp và đã được cụ thể hóa một bước trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và nhiều đạo luật quan trọng khác. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói chung và Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự nói riêng , tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án. Để đáp ứng các yêu cầu trên, bên cạnh sự phát triển ngày càng sâu rộng về mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 25/11/2015, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Dự thảo Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi) năm 2015 được ban hành đã cụ thể hóa nhiều quy định của Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật tổ chức 2
  9. Tòa án nhân dân năm 2014, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự và các luật khác có liên quan; góp phần khắc phục các tồn tại, bất cập sau thực tiễn mười (10) năm thi hành Bô ̣ luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự năm2004; bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự một cách dân chủ, bình đẳng, công khai, công bằng, minh bạch; nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án; từ đó bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay, thông qua việc nước ta trở thành thành viên của nhiều tổ chức quốc tế lớn và tham gia vào các điều ước quốc tế khi chúng ta là thành viên. Việc đi sâu nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và những quy định của pháp luật hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án ở Việt Nam là việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và ổn định trật tự xã hội. Gắn lý luận với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thực tế, qua đó rút ra được những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình khoa học như: Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tiến Trung, năm 1997 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS”; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Văn Cung, năm 1997 với đề tài “Các nguyên tắc cơ bản của TTDS Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của 3
  10. Nguyễn Văn Tuyết, năm 2011 với đề tài “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS Việt Nam”; Khóa luận tốt nghiệp “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS” của Đỗ Văn Đại năm 1997; Khóa luận tốt nghiệp của Vũ Thị Thu Ngần, năm 2012 với đề tài “Quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Bên cạnh đó, còn có một số sách chuyên khảo như: “Pháp luật TTDS và thực tiễn xét xử” của tác giả Tưởng Duy Lượng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009; “Tìm hiểu về quyền tự định đoạt của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Phương Hạnh do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm 2012. Ngoài ra, còn có các bài viết đăng trên các tạp chí như: “Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2005; “Việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm”, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 9/2007; “Sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa dân sự sơ thẩm” của tác giả Bùi Thị Huyền, đăng trên Tạp chí Luật học số 8/2007; “Về nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Minh Hải, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật tháng 4/2009; “Một số vướng mắc trong quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự - Những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND) số 02, tháng 01/2010; “Một số vấn đề cần đặt ra khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường, Tạp chí TAND, số 11, tháng 6/2010; “Những vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của Phần chung của Bộ luật Tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Văn Cường - ThS. Phan Thị Thu Hà, Tạp chí TAND, số 23, 24, 25 tháng 12/2011… 4
  11. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã có đề cập đến quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nói chung, một số công trình đã chỉ ra được những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự được quy định trong pháp luật TTDS hiện hành hoặc đi sâu tìm hiểu về một nội dung nào đó của quyền tự định đoạt; một số công trình lại đề cập đến nội dung quyền tự định đoạt của đương sự như là một phần của công trình nghiên cứu nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình… Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung làm rõ quyền tự định của đương sự dưới góc độ là một nguyên tắc của TTDS, hoặc tìm hiểu quyền tự định đoạt của đương sự thông qua một số quyền tố tụng cụ thể và phần lớn còn nghiên cứu trong giai đoạn Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chưa được sửa đổi, bổ sung… Với mong muốn tiếp cận, đi sâu tìm hiểu một cách tổng quát quyền tự định đoạt của đương sự dưới dạng các quyền cụ thể trong phạm vi giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 và tiếp cận một số sửa đổi cơ bản về vấn đề này của BLTTDS năm 2015, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài của tác giả không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; các quy định của Bộ luật TTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết các vụ án dân sự; thực tiễn thực hiện các quy định này ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự là một vấn đề lớn với nhiều nội dung khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn này, việc nghiên cứu đề tài chỉ giới hạn ở phạm vi quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án 5
  12. cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành mà không nghiên cứu về quyền tự định đoạt của đương sự trong thủ tục việc dân sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê… 5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận, nội dung các quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong các vụ án dân sự tại Tòa án. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật và thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS nhằm đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trên thực tế. Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn đã hoàn thành một số nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS; - Nghiên cứu các quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam có liên quan tới quyền tự định đoạt của đương sự, tìm hiểu thực tiễn xét xử đảm bảo thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp luật về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS; - Đề xuất một giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện những quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. 6
  13. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và chuyên sâu về những vấn đề liên quan đến quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành nên có những điểm mới khoa học sau: - Hoàn thiện khái niệm, làm rõ bản chất, ý nghĩa và cơ sở của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự; - Xác định nội dung quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật TTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 và những điểm mới trong Bộ luật TTDS sửa đổi năm 2015; - Đánh giá đúng thực trạng và thực tiễn thực hiện các quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự tại các Tòa án trong giai đoạn hiện nay. - Chỉ ra được những điểm còn tồn tại và đề xuất một số kiến nghị về việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự ở Việt Nam trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Chương 2: Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự. Chương 3: Thực tiễn thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị. 7
  14. Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong giải quyết vụ án dân sự 1.1.1. Khái niệm quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp. Quyền và lợi ích của các chủ thể là tiền đề, động lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác và dẫn đến tranh chấp. Các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu người có hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Căn cứ Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tòa án phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự; đối 8
  15. với những việc không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên được gọi là việc dân sự (Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011). Như vậy, đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ dân sự, đó là sự không thống nhất về việc thực hiện hay không thực hiện quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự trong đời sống (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Đương sự trong tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền, lợi ích trong vụ việc dân sự cần giải quyết. Đương sự trong vụ án dân sự có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức, bao gồm: nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến giải quyết vụ án. Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự (TTDS) nói chung và trong giải quyết vụ án dân sự nói riêng là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, quyền này cũng được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Quyền tự định đoạt của đương sự được hình thành và bắt nguồn từ bản chất của các quan hệ dân sự được xác lập trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện, cam kết và thỏa thuận. Trên cơ sở đó, các bên hoàn toàn tự nguyện khi tham gia quan hệ dân sự và khi có tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này thì các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ngay cả khi quyết định phương thức yêu cầu Tòa án bảo vệ thì trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án, các chủ thể này hay còn được gọi là đương sự vẫn có quyền tự định đoạt để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho mình. 9
  16. Ở góc độ thuật ngữ thì “Quyền” là một khái niệm pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó mà cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Mặt khác, “Quyền” còn được hiểu là quyền năng mà pháp luật thực định quy định cho mỗi chủ thể pháp luật, cho phép các chủ thể đó làm một việc gì đó, yêu cầu hoặc ngăn cản người khác làm một việc gì đó vì lợi ích của chính mình hoặc vì lợi ích người khác. Như vậy, có thể nhận thấy, dấu hiệu đặc trưng của quyền là được ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật, đồng thời phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với các chủ thể và được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội nhất định. Đối với cá nhân, các quyền cơ bản phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất định, tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt, “định đoạt” được hiểu là “quyết định dứt khoát, dựa vào quyền hành tuyệt đối của mình” [47]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội, thì quyền tự định đoạt của đương sự là “Quyền tố tụng dân sự của đương sự tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ tại Tòa án… Trong tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; rút đơn khởi kiện, thay đổi yêu cầu khi khởi kiện; hòa giải với đương sự phía bên kia” [48, tr.224]. Khi nói đến khái niệm “quyền” thì nội hàm của nó đã bao hàm cả tính “tự định đoạt” của chủ thể có quyền, nhưng không phải trong mọi trường hợp thuộc tính “tự định đoạt” cũng được phản ánh đầy đủ trong phạm vi quyền. Chỉ trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thì quyền “tự định đoạt” của chủ thể mới được sử dụng rộng rãi và sâu sắc. 10
  17. Quyền tự định đoạt của đương sự là quyền năng đặc thù của các đương sự. Trong quan hệ dân sự, quyền tự định đoạt của các chủ thể được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu, được biểu hiện ở việc các bên tự quyết định về quyền lợi và nghĩa vụ của mình trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Trong tố tụng dân sự, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền của đương sự trong việc tự quyết định việc tham gia tố tụng và thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Trong suốt quá trình tố tụng, các đương sự cũng có thể ủy quyền cho người khác thực hiện một số hoặc toàn bộ quyền và nghĩa vụ của mình, nhưng quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về chính bản thân các đương sự. Khi có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, việc khởi kiện hay không khởi kiện là do đương sự tự quyết định. Sau khi khởi kiện có thay đổi nội dung khởi kiện hay không, có thỏa thuận giải quyết việc kiện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các đương sự. Điều đó có nghĩa, các đương sự hoàn toàn có quyền chủ động trong việc giải quyết các mâu thuẫn, các tranh chấp hoặc các vấn đề có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án chỉ thụ lý để giải quyết khi đương sự có đơn yêu cầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của pháp luật. Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là quyền tự quyết định về phương tiện tố tụng trước Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Các đương sự có quyền lựa chọn các biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích của mình thông qua những hành vi cụ thể dựa trên cơ sở ý chí tự nguyện của chính bản thân đương sự. Quyền này được thực hiện trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên nó có mối liên hệ trực tiếp đến hoạt động của Tòa án và ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng, bị chi phối bởi những quyết định của Tòa án. Tòa án - cơ quan nhân danh quyền lực Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các 11
  18. chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự và đảm bảo cho các quyền này được thực thi trên thực tế. Quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tự do ý chí của đương sự trong việc giải quyết tranh chấp, nhưng đương sự không được thể hiện ý chí định đoạt một cách tùy tiện mà phải thực hiện trong khuôn khổ nhất định do pháp luật quy định, sao cho không xâm phạm tới các quyền tố tụng và quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác hoặc lợi ích của Nhà nước và xã hội. Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) quy định về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, theo đó: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quyền tự định đoạt của đương sự không phải là vô hạn định mà phải được giới hạn bởi pháp luật, không xâm phạm đến quyền lợi của các chủ thể khác. Quyền tự định đoạt này phải đặt trong mối tương quan với nghĩa vụ của đương sự với các chủ thể khác và phải được đặt trong mối quan hệ với trách nhiệm của công dân đối với Nhà nước và xã hội. Qua những phân tích trên, ta có thể đưa ra khái niệm về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự như sau: Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một quyền tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự, theo đó đương sự thể hiện tự do ý chí của mình bằng việc tự mình lựa chọn quyết định các 12
  19. hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. 1.1.2. Ý nghĩa của quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự Quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự là một trong những quyền cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, nội dung mang tính xuyên suốt toàn bộ quá trình tố tụng nhằm bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình, tự mình thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng, trên cơ sở đó mà các quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo vệ và tôn trọng. Ngoài những ý nghĩa chung là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, là cơ sở để xây dựng và thực hiện các quy phạm khác của pháp luật TTDS thì quyền tự định đoạt còn mang ý nghĩa riêng: Thứ nhất, quyền tự định đoạt của đương sự có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khi tham gia vào các quan hệ dân sự và xảy ra mâu thuẫn, tranh chấp, các chủ thể có thể thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết hay quyết định việc có khởi kiện hay không khởi kiện ra trước Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật TTDS đã ghi nhận và bảo đảm cho các đương sự có điều kiện, bằng hành vi của mình quyết định việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo đúng bản chất của quan hệ dân sự. Thứ hai, bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quy định về quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự còn có ý nghĩa trong việc xác định rõ trách nhiệm của Tòa án trong bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Điều 5 BLTTDS quy định: “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Như vậy, Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi có đơn khởi kiện của đương sự 13
  20. và chỉ giải quyết trong phạm vi đương sự yêu cầu, tức là phụ thuộc vào ý chí của đương sự, từ đó đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự. Thứ ba, việc pháp luật tố tụng ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự đã tạo điều kiện cho đương sự quyết định việc giải quyết tranh chấp. Thể hiện ở việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền tự do định đoạt các quyền dân sự của mình nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước các vi phạm bằng việc khởi kiện hoặc rút đơn khởi kiện không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa hoặc các bên tự thỏa thuận, thương lượng với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Qua đó, góp phần làm giảm bớt áp lực giải quyết các tranh chấp của Toà án, giúp cho việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, tiết kiệm được chi phí và thời gian của Tòa án và của đương sự. Quyền tự định đoạt giúp đương sự quyết định phương thức giải quyết vụ việc một cách thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả. Những tác dụng này có ý nghĩa quan trọng trong việc ổn định trật tự xã hội và giúp nhân dân chủ động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. 1.2. Cơ sở của việc ghi nhận quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Nghiên cứu quyền tự định đoạt của đương sự trong giải quyết vụ án dân sự, trước hết cần nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định quyền tự định đoạt của đương sự. 1.2.1. Cơ sở lý luận Trước khi tham gia vào một quan hệ tố tụng dân sự cụ thể thì các đương sự chính là chủ thể của quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Trong các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng này, các chủ thể có các quyền dân sự nhất định và chỉ khi một trong các quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó mới có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ. Như vậy, các quyền dân sự của chủ thể là cơ sở của quyền tố tụng 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2