Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam
lượt xem 5
download
Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền tài sản và quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Cao Thị Thu Phương Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở việt nam Luận văn thạc sĩ Luật học Hà nội – 2011 1
- Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật Cao Thị Thu Phương Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở việt nam Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 Luận văn thạc sĩ Luật học Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Hà Thị Mai Hiên Hà nội – 2011 2
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU 9 CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI SẢN VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT Khái niệm, sự phân loại quyền tài sản và đặc điểm quyền 1.1. 9 sở hữu đối với quyền tài sản 1.1.1. Khái niệm quyền tài sản 9 1.1.2. Phân loại quyền tài sản 16 1.1.3. Đặc điểm quyền sở hữu đối với quyền tài sản 30 1.2 Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền 35 tài sản và nội dung điều chỉnh pháp luật quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản 1.2.1 Đặc điểm của sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản 35 1.2.2 Vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ sở hữu chung của vợ 41 chồng đối với quyền tài sản 1.3. Pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng đối với tài sản 46 qua các giai đoạn phát triển 1.3.1. Quy định trước năm 1945 46 1.3.2. Quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000 52 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ SỞ HỮU 58 CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI SẢN – NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN 2.1. Nội dung pháp luật Việt Nam hiện hành về sở hữu chung của vợ, 59 chồng đối với quyền tài sản 2.1.1. Khái quát về sở hữu chung của vợ, chồng theo Luật HNGĐ Việt 59 4
- Nam năm 2000 2.1.2. Căn cứ phát sinh sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản 60 2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với quyền tài sản thuộc sở hữu 76 chung của vợ, chồng 2.1.4 Các căn cứ chấm dứt sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài 86 sản 2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về sở hữu chung của vợ, chồng đối với 92 quyền tài sản - Một số vấn đề đặt ra và phương hướng hoàn thiện 2.2.1 Một số vấn đề bất cập trong pháp luật về sở hữu chung của vợ, 92 chồng đối với quyền tài sản 2.2.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về sở hữu chung của vợ chồng 100 đối với quyền tài sản KẾT LUẬN 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 110 5
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự ĐHQGHN Đại học quốc gia Hà Nội HĐTP Hội đồng thẩm phán HN&GĐ Hôn nhân và gia đình LDN Luật Doanh nghiệp LĐĐ Luật đất đai NĐ Nghị định NQ Nghị quyết SHCN Sở hữu công nghiệp SHTT Sở hữu trí tuệ 6
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hôn nhân và gia đình là những yếu tố đặc biệt quan trọng trong xã hội. Ở bất kỳ quốc gia nào, hôn nhân và gia đình cũng là những yếu tố không thể thiếu để nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Vai trò của gia đình đã được Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 ghi nhận ngay ở lời nói đầu đó là “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”. Trong gia đình thì quan hệ giữa vợ và chồng là mối quan hệ giữ vai trò chủ đạo và có vai trò đặc biệt quan trọng. Mỗi gia đình đều được hình thành từ quan hệ cơ bản nhất là quan hệ hôn nhân và chủ thể của quan hệ đó là người vợ và người chồng. Từ nền tảng quan hệ hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà mà gia đình được tạo dựng và phát triển, sinh sôi, nảy nở. Hôn nhân chính là tiền đề cho sự ra đời của gia đình, mục đích của hôn nhân là để xây dựng gia đình và gia đình phải dựa trên cơ sở của hôn nhân, “hôn nhân sẽ không là đối tượng của việc lập pháp, cũng như tình bạn nếu nó không là cơ sở của gia đình” [28, tr. 47], đồng thời chịu tác động của các yếu tố đạo đức, tôn giáo, truyền thống, pháp luật… Khi một người nam và một người nữ thiết lập quan hệ hôn nhân theo quy định của pháp luật, giữa họ sẽ phát sinh một quan hệ đặc biệt đó là quan hệ giữa vợ và chồng. Quan hệ vợ chồng là quan hệ rất đặc thù và nội dung của quan hệ giữa vợ và chồng bao gồm các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Trong các quan hệ hôn nhân gia đình nói chung thì quan hệ nhân thân có là nhóm quan hệ chủ đạo và là yếu tố quyết định vì chỉ khi các quan hệ nhân thân được xác lập (như quan hệ hôn nhân hợp pháp giữa vợ chồng được xác lập sau sự kiện kết hôn) thì từ đó các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng mới phát sinh. Quan hệ nhân thân là các quan hệ phát sinh trên đời sống tinh thần và tình cảm 7
- giữa vợ và chồng. Bên cạnh các quan hệ nhân thân thì quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cũng là những quan hệ cơ bản và đặc biệt quan trọng đối với đời sống gia đình. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là các quan hệ được xác lập dựa trên đối tượng là tài sản. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện vật chất là cơ sở kinh tế của gia đình để nuôi sống gia đình. Do vậy chế độ tài sản của vợ chồng luôn được các nhà làm luật của tất cả các quốc gia trên thế giới quan tâm xây dựng như là một chế định cơ bản của luật HN&GĐ. “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định” [6, trg. 8]. Việc quy định và thực hiện chế độ sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản ở nước ta trong những năm qua đã góp phần đảm bảo sự ổn định và bền vững của các quan hệ hôn nhân gia đình, đặc biệt là bảo đảm sự cân bằng về mặt lợi ích giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ. Trong xã hội hiện đại, vai trò và đóng góp của người phụ nữ đối với gia đình cũng như đối với sự phát triển chung của toàn xã hội là rất to lớn và cần được trân trọng và bảo vệ. Việc pháp luật quy định hợp lý về vấn đề sở hữu chung của vợ, chồng sẽ giúp người phụ nữ bảo đảm và nâng cao vị trí của mình trong gia đình cũng như trong xã hội, giúp tạo sự bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội của người vợ so với người chồng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề tài sản chung của vợ chồng nhìn chung là khá đầy đủ và toàn diện, đã góp phần bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, lợi ích chung của gia đình cũng như lợi ích của toàn xã hội tuy nhiên trên thực tế áp dụng pháp luật vẫn nảy sinh nhiều điểm bất cập. Còn nhiều vấn đề pháp luật chưa quy định thực sự rõ ràng dẫn đến việc các bên tham gia quan hệ liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng cũng như các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. 8
- Trong các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng có một loại tài sản đặc biệt, đóng vai trò quan trọng cũng như chiếm giá trị lớn trong khối tài sản chung đó chính là các quyền tài sản. Bản thân quyền tài sản là một loại tài sản có nhiều đặc điểm khác biệt so với các loại tài sản khác. Quyền tài sản là tài sản vô hình, con người không thể cảm nhận được sự tồn tại của nó bằng các giác quan như đối với các tài sản khác mà con người nhận thức được sự tồn tại của các quyền tài sản thông qua các quy định của pháp luật. Nhắc đến quyền tài sản là nhắc đến góc độ pháp lý của tài sản do đó các quyền tài sản phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Do tính chất vô hình của mình mà việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của các chủ thể đối với quyền tài sản khá đặc biệt so với các loại tài sản khác. Đặc biệt trong quan hệ sở hữu chung của vợ chồng thì việc thực hiện quyền sở hữu của mỗi người đối với các quyền tài sản chung như thế nào cũng là một vấn đề rất phức tạp. Bên cạnh đó, hiện nay khi nền kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại và phát triển thì trong xã hội lại ngày càng xuất hiện nhiều loại tài sản mới có tính chất đặc thù như các quyền SHTT, các loại tài sản ảo trong các trò chơi trực tuyến (game online) v.v… Quyền SHTT là những quyền rất có ý nghĩa trong đời sống không chỉ vì giá trị rất lớn của nó đối với nền kinh tế mà còn còn vì những thành quả to lớn mà các đối tượng quyền SHTT mang lại đối với toàn xã hội. Pháp luật Việt Nam đã có nhiều quy định để bảo các quyền này mà điển hình là Luật SHTT được ban hành năm 2005. Luật SHTT 2005 đã ghi nhận đầy đủ các đối tượng của quyền SHTT cũng như cơ chế điều chỉnh và bảo vệ các đối tượng đó. Trong các loại quyền tài sản thì quyền SHTT lại là một loại quyền tài sản đặc thù nên việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ, chồng trên các quyền tài sản là quyền SHTT cũng khá khác biệt so với các loại quyền tài sản khác. Còn đối với đối tượng mới xuất hiện như tài sản ảo thì hiện nay pháp luật vẫn chưa có quy định cụ thể về việc ghi nhận, bảo vệ tài sản ảo nên chưa có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền của người có tài sản ảo cũng như để giải quyết các tranh chấp liên quan. Một thực tế hiện nay đó các quy định của pháp luật hiện hành cụ thể là BLDS 2005 về tài sản và quyền sở hữu nói chung cũng như các quy định về quyền 9
- tài sản nói riêng vẫn còn nhiều bất cập. Ngay bản thân khái niệm quyền tài sản chưa được định nghĩa một cách rõ ràng và chính xác, trong luật chưa có sự phân loại các quyền tài sản và chưa nêu ra được bản chất của từng loại quyền tài sản. Do chưa phân loại được và chưa hiểu đúng bản chất của từng loại quyền tài sản nên các quy định về quyền tài sản trong BLDS 2005 vừa thiếu lại vừa không chính xác. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền sở hữu đối với quyền tài sản còn trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, làm phát sinh nhiều mâu thuẫn trong việc áp dụng pháp luật, do đó các tranh chấp liên quan đến quyền tài sản chưa được giải quyết một cách hợp lý. Điều này khiến cho việc thực hiện quyền sở hữu chung của vợ chồng đối với các loại quyền tài sản lại càng gặp nhiều khó khăn hơn. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập như hiện nay, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng đang có nhiều thay đổi, sự thay đổi đó là cần thiết để tạo điều kiện cho vợ và chồng phát huy khả năng kinh doanh của mỗi người, đảm bảo nền tảng kinh tế cho cả gia đình cũng như sự phát triển kinh tế chung của toàn xã hội. Các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành điều chỉnh về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng đã tỏ ra có nhiều điểm không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế – xã hội ở nước ta, chính vì vậy việc nghiên cứu tìm ra những điểm bất cập của pháp luật và đề ra các giải pháp sửa đổi là rất cần thiết. Đồng thời càng ngày giá trị và vai trò của các quyền tài sản lại ngày càng được nâng cao hơn trong đời sống xã hội vì vậy yêu cầu hoàn thiện các quy định pháp luật về sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản đang đặt ra cấp thiết. Qua việc nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản, tác giả mong muốn sẽ làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật từ đó chỉ ra những điểm hợp lý và những điểm còn bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành quy định về vấn đề này và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cũng như nâng cao tính hiệu quả của pháp luật trong việc điều chỉnh về quyền tài sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng đối với 10
- quyền tài sản nói riêng. Vì các lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo pháp luật ở Việt Nam" có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, vấn đề quan hệ tài sản giữa vợ và chồng đã được nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu, trong đó có thể kể đến các tài liệu sau đây: Luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành Luật dân sự khoá 11 của học viên Nguyễn Hiển Vinh tại Khoa Luật - ĐHQGHN “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam”; Luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành Luật dân sự khoá 10 của học viên Đinh Thị Mai Phương tại Khoa Luật - ĐHQGHN “Căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam”; các bài viết “Một số ý kiến về quyền sở hữu tài sản của vợ chồng” – ThS. Nguyễn Thị Lan – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Khái quát tài sản của vợ chồng trong pháp luật Hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới” – ThS. Nguyễn Hồng Hải – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội; “Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong hoạt động hợp tác sản xuất, kinh doanh theo pháp luật của cộng hoà Pháp” – ThS. Bùi Minh Hồng – Khoa Luật Dân sự - Đại học Luật Hà Nội (nghiên cứu sinh tại Cộng hoà Pháp) … một trong những nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện nhất về quan hệ tài sản giữa vợ, chồng đó là Luận án tiến sĩ luật học của nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Cừ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” năm 2005 và sau đó tác giả này cũng đã phát hành cuốn sách chuyên khảo: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam - TS. Nguyễn Văn Cừ - Nhà xuất bản Tư pháp - năm 2008 để những người nghiên cứu có điều kiện dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên trong các nghiên cứu nói trên về quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng thì chưa nghiên cứu nào đặt vấn đề này trong bối cảnh Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế cũng như sự thay đổi đáng kể trong quan hệ sản xuất của kinh tế thị trường khiến cho quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ và chồng cũng có những sự thay đổi đáng kể. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam 11
- điều chỉnh về quan hệ sở hữu tài sản của vợ chồng vẫn chưa có sự thay đổi phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy việc nghiên cứu để làm rõ cả vấn đề lý luận và thực tiễn để có những quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ, chồng cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước ta như hiện nay là rất cần thiết. Các vấn đề liên quan đến quyền tài sản cũng đã được nhiều tác giả nghiên cứu đề cập đến trong các tài liệu chuyên sâu khác nhau, cụ thể là: “Quyền tài sản - một loại tài sản theo pháp luật Dân sự Việt Nam” – Luận văn thạc sỹ của Sỹ Hồng Nam học viên cao học Khoá 9 chuyên ngành Luật Dân sự tại Khoa Luật – ĐHQGHN; bài viết “Tổng quan về Luật tài sản” của TS. Ngô Huy Cương; bài viết “Cần xây dựng lại khái niệm Quyền tài sản trong Luật dân sự” và “Một số vấn đề về quyền tài sản và hướng hoàn thiện” của TS. Nguyễn Ngọc Điện; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đại học Luật Hà Nội v.v… Tuy nhiên, có thể nói cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể về quan hệ sở hữu chung giữa vợ, chồng đối với quyền tài sản, một loại tài sản đặc biệt trong thực tiễn. Trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, vấn đề về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản nói chung và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản nói riêng, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: * Mục đích: Làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh về vấn đề này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về quyền tài sản và quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam. * Nhiệm vụ: 12
- - Làm rõ cơ sở lý luận, khái niệm, đặc điểm và sự phân loại của quyền tài sản; đặc điểm của sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và nội dung điều chỉnh pháp luật đối với sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản. - Phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về quyền tài sản, về sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản và thực tiễn áp dụng các quy định đó. - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản. 4. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quyền tài sản được nghiên cứu trong luận văn là một đối tượng của quyền sở hữu. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luật học so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp hệ thống. 6. Điểm mới của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu sâu về sắc về sở hữu chung của vợ chồng đối với một loại tài sản đặc biệt đó là quyền tài sản. - Luận văn đã đưa ra được khái niệm, đặc điểm và phân loại quyền tài sản; chỉ ra và phân tích được các đặc điểm và nội dung của quan hệ sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản. - Luận văn đã phân tích, làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản, chỉ ra những điểm tiến bộ so với các quy định trước đây và những điểm còn bất cập. Luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng các quy 13
- định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản và chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của chúng. - Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra được những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với tài sản nói chung và đối với quyền tài sản nói riêng. 7. Ý nghĩa của luận văn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tài sản và sở hữu chung của vợ chồng đối với quyền tài sản nói riêng, từ đó góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả của pháp luật đối với đời sống xã hội. Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập các môn học như Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình v.v… tại các cơ sở đào tạo luật. 8. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Khái quát một số vấn đề lý luận về sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản và vấn đề điều chỉnh pháp luật Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về sở hữu chung của vợ, chồng đối với quyền tài sản – Những bất cập và hướng hoàn thiện 14
- Chương 1 KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỞ HỮU CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG ĐỐI VỚI QUYỀN TÀI SẢN VÀ VẤN ĐỀ ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT 1.1 Khái niệm, sự phân loại quyền tài sản và đặc điểm quyền sở hữu đối với quyền tài sản 1.1.1 Khái niệm quyền tài sản Theo nghĩa thông thường được ghi nhận trong từ điển tiếng Việt thì thuật ngữ “quyền” được hiểu là “điều mà pháp luật hoặc xã hội cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi” còn thuật ngữ “tài sản” được hiểu là những của cải vật chất tồn tại khách quan, nằm trong sự chiếm hữu và chi phối của con người, được con người khai thác và mang lại lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần...nhưng quyền tài sản là một khái niệm pháp lý vì vậy cần phải xem xét ý nghĩa của nó theo các quan điểm khoa học pháp lý và quy định của pháp luật. Tuy nhiên để có thể hiểu được khái niệm quyền tài sản thì trước hết chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm tài sản. Tài sản là một khái niệm khá rộng mà định nghĩa pháp lý của nó không phải lúc nào cũng được ghi nhận ở trong các văn bản pháp luật. Thông thường, BLDS của các nước khác không nêu ra khái niệm về tài sản mà chúng ta có thể hiểu về tài sản trong luật của họ thông qua các học thuyết pháp lý và các quy định gián tiếp. Theo quan niệm của luật học latinh, tài sản được hiểu là một vật có giá trị tiền tệ, có thể được nhận dạng theo hai cách: Ở góc độ vật lý, tài sản thực sự là một vật. Tuỳ theo vật đó có thể được dịch chuyển hay không, người ta phân biệt giữa động sản và bất động sản. Ở góc độ pháp lý, tài sản được hình dung như một quyền. Tuỳ theo quyền đó có thể được thực hiện một cách trực tiếp hoặc thông quan vai trò của một chủ thể khác, người ta phân biệt giữa vật quyền và trái quyền. Do tính chất quan trọng của vật quyền, đặc biệt do ảnh hưởng sâu rộng của nó đối với đời sống xã hội và giao lưu 15
- dân sự nói riêng, người làm luật có xu hướng đòi hỏi vật quyền phải được luật ghi nhận mới được coi là tồn tại hợp pháp và được bảo vệ. Cũng bằng phương pháp loại suy, người ta nói rằng những tài sản không phải là vật quyền thì được gọi là trái quyền. Theo thời gian có một loại quyền thứ ba, gắn với giá trị kinh tế của các công trình tim óc như tác phẩm văn chương, khoa học, nghệ thuật gọi là quyền sở hữu trí tuệ, đứng bên cạnh vật quyền và trái quyền như là một tài sản đặc thù [17]. Cách hiểu này được ghi nhận trong trường phái luật Châu Âu lục địa đó là coi tài sản bao gồm: tài sản hữu hình là các vật và tài sản vô hình liên quan tới các quyền. Điển hình cho cách quy định này là BLDS 1804 của Pháp. Bộ luật kinh điển này không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản tuy nhiên tài sản được ghi nhận trong Bộ luật này bao gồm hai loại là bất động sản và động sản (quyển thứ hai, thiên 1 chương I nói về bất động sản và chương II nói về động sản). Trong thiên II quyển thứ hai của Bộ luật này nói về quyền sở hữu đã ghi nhận cách phân loại khác đó là tài sản bao gồm vật, các vật quyền và các tố quyền nhằm đòi lại tài sản. BLDS Đức 1900 cũng không có định nghĩa cụ thể về tài sản nhưng xuyên suốt các quy định của bộ luật này người ta có thể hiểu rằng tài sản theo nghĩa pháp lý không chỉ là vật mà chủ yếu là các quyền. Cách nhận thức về tài sản của các nước theo hệ thống luật Châu Âu lục địa cũng khá tương đồng với các nước theo họ Pháp luật Anh - Mỹ. Các nước theo họ pháp luật Anh – Mỹ cho rằng tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực chống lại những sự xâm hại của các chủ thể khác. Các luật gia Hoa Kỳ cho rằng, tài sản là các quyền giữa mọi người có liên quan tới vật, hay nói cách khác, bao gồm một hệ thống các quyền được thừa nhận về mặt pháp lý do ai đó thủ đắc trong mối liên hệ với những người khác mà liên quan tới vật. Họ coi tài sản là “một mớ quyền” (a bundle of rights) điều này có nghĩa là tài sản là một tập hợp các quyền trên vật có hiệu lực chống lại những người khác. Sự chống lại hay quyền loại trừ được các luật gia Hoa Kỳ xem là xương sống của tập hợp các quyền và diễn đạt ý tưởng về sự độc quyền của chủ sở hữu đối với tài sản [8]. 16
- Qua các phân tích nêu trên có thể nhận thấy rằng mặc dù có sự thể hiện khác nhau tuy nhiên các hệ thống pháp luật trên thế giới có cách hiểu này khá tương đồng với nhau về khái niệm pháp lý của tài sản. Tài sản chính là tổng hợp các quyền của chủ thể có tài sản và đối kháng với các chủ thể khác. Các quyền đó được phân loại theo các tiêu chí khác nhau và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên ở Việt Nam các luật gia lại có cách quy định khác về khái niệm tài sản. Điều 163 BLDS 2005 có đưa ra khái niệm “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.” Cách quy định này của BLDS 2005 thực chất chỉ mang tính liệt kê những đối tượng nào được coi là tài sản theo pháp luật Việt Nam. Mặc dù khái niệm tài sản trong BLDS 2005 đã được sửa đổi một cách hợp lý hơn so với BLDS 1995 tuy nhiên vẫn có nhiều tranh luận khác nhau về khái niệm này. Theo quan niệm của luật Việt Nam hiện hành thì khái niệm tài sản bao gồm cả quyền tài sản và quyền tài sản được coi là một loại tài sản cơ bản bên cạnh các loại tài sản khác là vật, tiền và giấy tờ có giá. Chính vì quan niệm nội hàm khái niệm tài sản trong các hệ thống pháp luật khác nhau là khác nhau nên cách hiểu về khái niệm quyền tài sản trong các hệ thống pháp luật cũng có điểm khác biệt. Khái niệm quyền tài sản là một khái niệm khá mới trong nền khoa học pháp lý ở nước ta nên cho đến hiện nay trong giới nghiên cứu luật học ở Việt Nam vẫn còn tồn tại những quan điểm khác nhau về khái niệm quyền tài sản. Hiện nay trong giới nghiên cứu luật ở Việt Nam, các chuyên gia đã đưa ra một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền tài sản như sau: Cách hiểu chính thống của các nhà làm luật Việt Nam về quyền tài sản được ghi nhận tại điều 181 BLDS 2005 đó là “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Thực ra quy định tại Điều 181 BLDS 2005 chưa phải là khái niệm quyền tài sản mà chỉ nêu ra hai yêu cầu cơ bản để một quyền được coi là quyền tài sản đó là phải trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Việc nêu ra hai yêu cầu cơ bản này của quyền tài sản nhằm mục đích phân biệt các quyền tài sản với các quyền không mang tính tài sản. 17
- Một quyền muốn được coi là tài sản thì trước hết quyền đó phải trị giá được bằng tiền. Đây là đặc điểm nhằm phân biệt quyền tài sản với quyền nhân thân. Quyền nhân thân được ghi nhận trong BLDS là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (điều 24 BLDS 2005). Quyền nhân thân là các quyền liên quan đến giá trị tinh thần và gắn liền với mỗi cá nhân, quyền nhân thân cũng là nội dung cơ bản của phạm trù nhân quyền. Chính vì vậy quyền nhân thân không thể trị giá được bằng tiền mà chỉ có các quyền tài sản mới có thể trị giá được bằng tiền. Giá trị của quyền tài sản có được thông qua các hình thức pháp lý khác nhau như : thông qua hợp đồng dân sự như quyền đòi nợ, quyền sử dụng tài sản thuê... hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho như quyền sử dụng đất, quyền khai thác khoáng sản hoặc thông qua hoạt động sáng tạo ra tác phẩm hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu công nghiệp... Có một số quyền tài sản gắn liền với yếu tố nhân thân như quyền tác giả và các quyền liên quan và trong một số trường hợp yếu tố nhân thân ảnh hưởng lớn đến giá trị của quyền tài sản đó ví dụ như tác phẩm của một họa sĩ nổi tiếng sẽ có giá trị lớn hơn rất nhiều so với tác phẩm của một họa sĩ bình thường. Các quyền sở hữu trí tuệ là các quyền vô hình và giá trị của các quyền đó có thể thay đổi theo thời gian và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nên việc định giá tài sản trí tuệ là rất khó. Đặc tính cơ bản thứ hai của quyền tài sản theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành đó là quyền đó có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự. Điều này có nghĩa quyền tài sản phải là quyền được tự do lưu thông trong các giao dịch dân sự. Tuy nhiên với yêu cầu này của điều 181 BLDS 2005 thì còn nhiều loại quyền mang tính chất tài sản có nghĩa là có thể được định giá bằng tiền nhưng không thể tự do chuyển giao trong giao dịch dân sự như các quyền tài sản gắn liền với nhân thân (quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế…) thì không phải là quyền tài sản. Như vậy nội hàm của khái niệm quyền tài sản trong pháp luật Việt Nam dường như có sự khác biệt so với pháp luật của các quốc gia khác trên thế giới. Ví dụ: trong Luật về quyền tài sản của Trung Quốc được ban hành vào ngày 16 tháng 3 18
- năm 2007 thì khái niệm quyền tài sản được ghi nhận như một loại quyền đối lập hoàn toàn với quyền nhân thân đó chính là “quyền tài sản là quyền có thể được định giá bằng tiền”. Khái niệm quyền tài sản trong Luật Trung Quốc có nội hàm rộng hơn khái niệm đó trong luật Việt Nam vì còn bao gồm cả các quyền gắn với nhân thân nhưng lại có tính cách tài sản. Cũng theo quan điểm của các nhà làm luật thì thông qua định nghĩa tại điều 181 và các quy định khác của BLDS 2005, khác với vật (tài sản hữu hình) quyền tài sản là tài sản vô hình. Để tồn tại với ý nghĩa là tài sản vô hình thì ngoài việc đáp ứng được hai điều kiện được nêu ở điều 181, các tài sản vô hình còn phải có một số đặc điểm sau [2, tr. 426]: Đầu tiên, tài sản vô hình cần phải nhận dạng được. Việc nhận dạng tài sản vô hình có thể thông qua một số chứng cứ hữu hình để có thể mô tả được loại tài sản vô hình đó. Ví dụ: một sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, khoa học – công nghệ nếu mới chỉ hình thành trong ý nghĩ của người sáng tạo chúng thì chưa được coi là tác phẩm và người có ý nghĩ đó chưa được bảo hộ quyền tác giả mà ý nghĩ đó phải được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định thì mới được bảo hộ (điều 737 BLDS 2005); hay các quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa... thì quyền sở hữu các đối tượng này được thể hiện bằng giấy chứng nhận do các cơ quan nhà nước cấp. Quyền sử dụng đất hay quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề thể hiện ở giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thỏa thuận sử dụng hạn chế bất động sản liền kề được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các trái quyền được ghi nhận trong hợp đồng, trong quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc một số loại quyền được ghi nhận tại giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như là giấy phép khai thác khoáng sản... Đây là một điều kiện quan trọng để một quyền vô hình được coi là tài sản vì nếu không thể nhận biết được thì pháp luật cũng như các chủ thể khác không thể công nhận và tôn trọng quyền của chủ sở hữu đối với loại tài sản đó và nếu không thể nhận biết được thì bản thân chủ sở hữu quyền tài sản đó cũng không thể thực hiện quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình. 19
- Tiêu chí thứ hai là phải nhận biết được thời điểm bắt đầu cũng như kết thúc quyền tài sản đó. Việc nhận biết sự tồn tại của quyền tài sản cũng việc dựa trên các bằng chứng, tài liệu xác nhận quyền tài sản như đã phân tích ở trên. Đối với các vật quyền thì ngoài các căn cứ nói trên, ở một số nước có thiết lập hệ thống đăng ký các vật quyền tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể quan tâm có thể biết được về sự tồn tại của vật quyền đó. Tiêu chí thứ ba là chủ sở hữu tài sản vô hình được pháp luật bảo vệ khi quyền sở hữu bị xâm phạm thì chủ sở hữu cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý khi thực hiện quyền sở hữu các loại tài sản vô hình này [58, tr. 51]. Thực ra đây là yếu tố luật định mà không phải chỉ là đặc điểm riêng của quyền tài sản mà còn là đặc điểm của tài sản nói chung. Cách hiểu thứ hai về khái niệm quyền tài sản đó là “quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình” [57, tr. 7]. Thông qua khái niệm quyền tài sản nêu trên, chúng ta có thể hiểu quyền tài sản được thể hiện dưới hai dạng đó là “quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình” và “quyền yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình”. Tuy nhiên việc ghi nhận quyền tài sản là “quyền của các cá nhân, tổ chức được pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình” khiến người ta có thể hiểu ngay đó là quyền sở hữu tuy nhiên quyền tài sản không chỉ là quyền sở hữu mà còn bao gồm rất nhiều quyền đối vật khác ví dụ như quyền hưởng dụng (quyền hưởng dụng là một vật quyền có thời hạn trên tài sản của người khác), quyền địa dịch... mà các quyền này không thực hiện trên tài sản thuộc sở hữu của chính người đó mà được thực hiện trên tài sản của người khác. Quyền sở hữu bản chất là một quyền tài sản tiêu biểu nhưng không thể cấu thành khái niệm quyền tài sản một cách đầy đủ. Còn việc quy định quyền tài sản là “quyền yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình” đã nêu lên bản chất của các trái quyền, là quyền đối nhân. Như vậy 20
- khái niệm quyền tài sản nêu trên chỉ bao gồm hai bộ phận cấu thành là quyền sở hữu tài sản và quyền đối nhân mà thiếu đi sự ghi nhận của nhiều loại quyền tài sản khác (các quyền đối vật khác ngoài quyền sở hữu và các quyền SHTT) do đó khái niệm này chưa thật đầy đủ và chính xác. Cách hiểu thứ ba về khái niệm quyền tài sản đó là quyền tài sản được hiểu là cách cư xử của con người với nhau liên quan đến tài sản. “Trong quyền tài sản bao giờ cũng có hàm ý tập trung quyền kiểm soát cho người này, giới hạn và loại trừ quyền đó đối với người khác. Quyền tài sản được hiểu là tập hợp của rất nhiều quyền và lợi ích cơ bản như quyền kiểm soát việc sử dụng tài sản, quyền thụ hưởng lợi nhuận thu được từ việc sử dụng tài sản, các quyền chuyển nhượng, thế chấp tài sản” [34]. Đây là cách hiểu về quyền tài sản có nội hàm khá rộng theo đó quyền tài sản là khả năng của chủ thể thu được những lợi ích vật chất nhất định từ việc sử dụng, khai thác quyền của mình và quyền đó hạn chế, loại trừ các chủ thể khác. Cách hiểu này đặt quyền tài sản trong mối tương quan giữa các quan hệ xã hội chứ không coi quyền tài sản là một loại tài sản đặt bên cạnh các loại tài sản khác như quy định của BLDS 2005. Sở dĩ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về quyền tài sản là do BLDS chưa đưa ra được khái niệm đầy đủ và chính xác về quyền tài sản. “Có thể thấy rằng khái niệm quyền tài sản được nêu tại điều 181 BLDS 2005 là một loại tài sản đối lập với tài sản hữu hình và là một yếu tố có tác dụng đặt cơ sở cho việc xây dựng một hệ thống phân loại tài sản đặc thù, bên cạnh các hệ thống phân loại kinh điển - động sản và bất động sản, vật chính và vật phụ,... Với cách quy định đó của BLDS 2005 quyền tài sản trở thành một khái niệm rất hẹp và không đủ tầm vóc để đảm đương vai trò đối trọng với quyền nhân thân, là những quyền không có giá trị tài sản, trong luật dân sự” [15]. Vậy thế nào là quyền tài sản và nội hàm của khái niệm này được mở rộng đến đâu vẫn còn là một vấn đề lớn mà các nhà làm luật của Việt Nam phải giải quyết. 21
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn