Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sự hỗ trợ của toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam
lượt xem 7
download
Trong nội dung trình bày đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lý luận chung về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài, sau đó tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Sự hỗ trợ của toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG VÂN HUYỀN SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TỐNG VÂN HUYỀN SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý HÀ NỘI - 2011 2
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ 5 SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại 5 1.1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại 5 1.1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại 7 1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại 10 1.1.4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng 15 tài thương mại 1.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với 16 phương thức thương lượng, hòa giải và tòa án 1.2. Khái quát sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp 18 bằng trọng tài thương mại 1.2.1. Đối với việc thay đổi trọng tài viên 19 1.2.2. Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội 20 đồng trọng tài về thẩm quyền 1.2.3. Về việc triệu tập người làm chứng 21 1.2.4. Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời 21 1.2.5. Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc 25 1.2.6. Hủy phán quyết trọng tài 26 1.2.7. Một số vấn đề cần được lưu ý trong quá trình tòa án giải 30 quyết quyết các vụ việc liên quan tới trọng tài thương mại Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ SỰ 33 HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 3
- 2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng Trọng tài thương 33 mại tại Việt Nam 2.1.1. Thực trạng Pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam 33 2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam 36 2.1.3. Những điểm hạn chế của pháp lệnh trọng tài thương mại 42 năm 2003 2.2. Thực trạng sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết tranh 56 chấp bằng con đường Trọng tài thương mại tại Việt Nam 2.2.1. Thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp 56 bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam 2.2.2. Những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại trong vấn 59 đề hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại Chương 3: ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 71 VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 3.1. Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại trong giải quyết 71 tranh chấp 3.1.1 Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài 71 3.1.2. Thỏa thuận trọng tài 72 3.1.3. Một số điểm mới về quy định trọng tài viên 74 3.1.4. Một số điểm tiến bộ khác 74 3.2. Đổi mới nhận thức về sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết 76 tranh chấp bằng trọng tài thương mại 3.2.1. Hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng 77 các biện pháp khẩn cấp tạm thời 3.2.2. Hỗ trợ của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài 82 3.2.3. Hỗ trợ trong việc triệu tập nhân chứng 83 3.2.4. Hủy quyết định Trọng tài 84 KẾT LUẬN 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 4
- Danh môc c¸c b¶ng Sè hiÖu Tªn b¶ng Trang b¶ng 2.1 Số lượng vụ tranh chấp thương mại do các tổ chức trọng 41 tài thương mại Việt Nam giải quyết 5
- MỞ ĐẦU 1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết "thuận buồm xuôi gió" vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, thuật ngữ "tranh chấp thương mại" hay "tranh chấp kinh doanh" đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây. Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật. Trọng tài thương mại ra đời và phát triển từ rất sớm, ở nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì phần lớn các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại thường được giải quyết thông qua phương thức trọng tài. Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, tuy mới được hình thành, nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử dụng trong một loạt các luật như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp... Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài có 4 ưu 6
- thế so với giải quyết bằng con đường tòa án. Thứ nhất là thủ tục giải quyết đơn giản và nhanh. Thứ hai là bảo đảm bí mật (xử kín). Điều này rất quan trọng đối với DN vì nó liên quan đến vấn đề uy tín, thương hiệu của DN. Thứ ba, các trọng tài viên là những chuyên gia hàng đầu. Ưu thế thứ tư, xét xử bằng cơ chế trọng tài chỉ một lần nên nó là chung thẩm. Quyết định của trọng tài buộc các bên phải thi hành ngay, nếu không sẽ được chuyển sang cơ quan thi hành án dân sự thi hành. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách nhanh chóng, hiệu quả và cũng làm giảm bớt gánh nặng cho tòa án. Trong thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan phi Chính phủ nên vẫn cần có sự trợ giúp của Tòa án. Tòa án hỗ trợ giám sát rất lớn đối với việc thực thi các phán quyết của trọng tài, hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời… Có thể nói trọng tài không thể hoạt động tốt nếu thiếu sự hỗ trợ của tòa án. Vì vậy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, thực trạng về trọng tài và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài là cần thiết trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thực sự đạt hiệu quả. Chính vì vậy tác giả chọn đề tài "Sự hỗ trợ của toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam" để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này nhưng cũng chỉ nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về trọng tài thương mại, bản chất thỏa thuận trọng tài cũng như thực trạng về thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài của Việt Nam. 7
- 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Trong nội dung trình bày đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lý luận chung về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài, sau đó tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật về sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài về 5 nội dung: - Tòa án hỗ trợ trong việc thi hành thỏa thuận trọng tài - Sự hỗ trợ của tòa án trong việc lựa chọn trọng tài viên - Tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài về tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài, về thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp. - Sự hỗ trợ của tòa án trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời - Sự hỗ trợ của tòa án trong việc hủy quyết định của trọng tài Qua đó nêu lên những điểm đổi mới hoàn thiện của Luật Trọng tài thương mại. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài thương mại tại Việt Nam. Trước tiên, nghiên cứu về trọng tài thương mại, thực trạng và sự phát triển của trọng tài thương mại nói chung. Sau đó tập trung nghiên cứu và đưa ra quan điểm đổi mới hoàn thiện pháp luật về sự hỗ trợ của tòa án và thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại ở nước ta. Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời cũng kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh… để nghiên cứu. 8
- 5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa học trên những khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại ở Việt Nam Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về thỏa thuận trọng tài thương mại thông qua một số ví dụ cụ thể. Thứ ba: Đưa ra quan điểm đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương Chương 1: Lý luận chung về Trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Chương 2: Thực trạng về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam. Chương 3: Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. 9
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thƣơng mại 1.1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại Thực tiễn thương mại trên thế giới đã chứng tỏ rằng, trọng tài là một phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp. Phương thức này đã xuất hiện từ lâu và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới. Khái niệm trọng tài được nghiên cứu dưới rất nhiều bình diện khác nhau trong khoa học pháp lý và hiện nay cũng có rất nhiều cách tiếp cận về khái niệm này. Trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp là cách tiếp cận chủ yếu của hệ thống các quy định pháp luật về trọng tài. Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường" thì Trọng tài làm một phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên. Theo Luật mẫu của UNCITRAL - một văn bản nhiều nước tiếp nhận khi xây dựng luật trọng tài thì Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của tổ chức. Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) thì Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành. 10
- Theo cuốn "Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ biên thì Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó. Theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế thì: Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; các tranh chấp có liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu [2]. Tuy nhiên, trọng tài thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài kinh tế vì hoạt động thương mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu một cách ngắn gọn thì trọng tài thương mại trước hết phải là một trong những hình thức trọng tài, chức năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh chấp thương mại. Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm này: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự thủ tục do pháp lệnh này quy định" [30, Khoản 1, Điều 2]. Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp cũng là cách tiếp cận khá phổ biến, ví dụ như theo Từ điển tiếng Việt thì trọng tài là người được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp. Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định pháp luật, theo cuốn Danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là "một chế định 11
- cử tư nhân giải quyết sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp" [16]. Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài, nhưng tựu chung lại, có thể nhìn nhận trọng tài thương mại với hai tư cách: Một là, Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp. Hai là, Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp. 1.1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại * Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tại song song với Tòa án. Pháp luật tôn trọng quyền tự do lựa chọn của các bên, khi có tranh chấp trong thương mại phát sinh, các chủ thể có thể lựa chọn hoặc Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu các bên đã có thỏa thuận trọng tài có hiệu lực, đưa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án không được thụ lý và sẽ trả lại đơn kiện và vụ tranh chấp đó sẽ do trọng tài giải quyết. Trong tương quan so sánh với Tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp thương mại thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước, Trọng tài thương mại có những đặc trưng riêng khác hẳn với Tòa án, cụ thể là: Một là, với hình thức là một Trung tâm Trọng tài thì trọng tài là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại; còn với hình thức là trọng tài vụ việc (ad- hoc) thì trọng tài là một tổ chức lâm thời do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết một vụ việc tranh chấp cụ thể. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước. Các 12
- trọng tài viên không phải là viên chức nhà nước và cũng không hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà nhân danh "quyền lực tư" để ra các phán quyết. Hai là, thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương mại cụ thể không tự nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp. Pháp luật quy định, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Có thể nói, chính các chủ thể tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp của mình đã trao quyền được xét xử vụ việc cho trọng tài. Ba là, phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như Tòa án nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết của trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một hoặc các bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ quan cưỡng chế của riêng mình để cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để cưỡng chế thi hành. Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, tồn tại độc lập, song song với Tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên lựa chọn. * Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tồn tại song song với các phương thức giải quyết 13
- tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn ADR. Trọng tài và các phương thức ADR, nói chung là các phương thức giải quyết ngoài tòa án, không cạnh tranh với toàn án mà tòa án, trọng tài ADR là các phương thức bổ sung lẫn nhau. Thực tế, trọng tài không thể phát triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng của tòa án quốc gia. Trọng tài đã trở thành phương thức được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Với tính chất là một phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại được hiểu là phương thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài; và trọng tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, được quyền đưa ra quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên. Tại Việt Nam, trọng tài theo đúng nghĩa là một phương thức giải quyết tranh chấp chỉ ra đời từ năm 1993 trên cơ sở Quyết định số 204-TTg của thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 về việc thành lập trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau: Một là, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất. Trọng tài do chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Trọng tài là người hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra các phán quyết bắt buộc để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên. Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Đối với trọng tài thường trực trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó 14
- quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận thủ tục tố tụng riêng, ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng phải tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra. Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của trọng tài mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên đương sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc đối với các bên). 1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại Với tư cách là tổ chức giải quyết tranh chấp trọng tài thường được biết đến với hai hình thức phổ biến là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực (trọng tài quy chế). * Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết. Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này được thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp. Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào. Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà quy tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn 15
- bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế. Vì vậy khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào bất kỳ quy tắc tố tụng nào, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và đúng pháp luật. Hoạt động của của trọng tài vụ việc rất linh hoạt, phù hợp với những tranh chấp đơn giản. Trọng tài viên do các đương sự thỏa thuận lựa chọn không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có. Thông thường trọng tài viên được chọn có thể là các thương gia có tu nghiệp pháp lý hay các luật sư làm việc cho các công ty, họ không chỉ nắm vững kiến thức về luật pháp mà còn rất am hiểu về hoạt động thương mại. Thỏa thuận trọng tài vụ việc thường được thiết lập khi tranh chấp đã xảy ra cho nên thường là phù hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh chấp. Thời gian giải quyết tranh chấp nhanh chóng theo sự định đoạt của đương sự, họ có toàn quyền trong việc xác định quy chế tố tụng. Tuy nhiên, để soạn thảo được các thỏa thuận trọng tài vụ việc đòi hỏi các bên phải có luật sư chuyên gia tư vấn pháp lý có chuyên môn trong lĩnh vực trọng tài. Giữa các bên tranh chấp có sự thiện chí, hợp tác chặt chẽ. Mặt khác, do tính chất không ổn định, không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết vụ việc tranh chấp của trọng tài vụ việc là không cao. Sự khác biệt cơ bản giữa nước ta với nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có lịch sử trọng tài tồn tại khá lâu đó là ngay từ khi xuất hiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, họ đã thừa nhận có hai hình thức tổ chức trọng tài là trọng tài adhoc và trọng tài thường trực. Ở Việt Nam, trước khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời, chưa từng có trọng tài vụ việc. Mặc dù đã có một số văn bản điều chỉnh các quan hệ kinh tế, thương mại với nước ngoài thừa nhận trọng tài adhoc trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế như: Luật đầu tư nước ngoài 1987; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 1991… nhưng chưa có văn bản 16
- pháp luật nào về trọng tài quy định về trọng tài vụ việc. Do vây trên thực tế hình thức trọng tài này hầu như không tồn tại. Ưu điểm của hình thức Trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế là là quyền tự định đoạt của các bên lớn hơn, chi phí cho tố tụng trọng tài thấp và thời gian giải quyết nhanh. Tuy nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn chế nhất định, hạn chế lớn nhất là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của các bên. Nếu một bên không có thiện chí quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng. Mặt khác trong quá trình tố tụng cũng không có tổ chức nào giám sát nên kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các trọng tài viên. Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ giúp đặc biệt từ một tổ chức Trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thể giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là sự hỗ trợ của Tòa án. * Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế) Khác với trọng tài adhoc, trọng tài thường trực luôn tồn tài không phụ thuộc vào tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động thường xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên. Trọng tài thường trực được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài, nhưng chủ yếu và phổ biến vẫn là các Trung tâm Trọng tài. Có thể kể tên các Trung tâm Trọng tài nổi tiếng như: Tòa án trọng tài quốc tế (IAC) thuộc Phòng Thương mại quốc tế (ICC) có trụ sở tại Paris (Pháp); Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA); Trọng Tài quốc tế Singapore; Trọng Tài quốc tế Hồng kông; ở Việt Nam có Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC và một số trung tâm khác. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định. 17
- Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản về hình thức trọng tài này như sau: Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Thể hiện: - Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước. - Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước. - Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết. - Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài... Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới. Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm. Cụ thể: - Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử. 18
- - Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định. Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện: - Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. - Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này. - Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín. Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung tâm. Có thể nói ưu điểm lớn nhất trọng tài quy chế so với trọng tài vụ việc là có quy tắc tố tụng chi tiết từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này đảm bảo trong mọi trường hợp tranh chấp sẽ được giải quyết, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố tụng trọng tài hay không. Ưu điểm thứ hai là hầu hết các tổ chức trọng tài đều 19
- có những chuyên gia hỗ trợ cho quá trình trọng tài. Họ đảm bảo cho Hội đồng Trọng tài sẽ được thành lập, các khoản phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đôn đốc đúng thời hạn... Bên cạnh đó, trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất định, mà hạn chế lớn nhất đó là tốn kém nhiều chi phí vì ngoài việc phải trả chi phí thù lao cho các trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các Trung tâm trọng tài. Nhược điểm thứ hai của Trọng tài quy chế là với những vụ việc cần giải quyết nhanh chóng hoặc vụ việc đơn giản thì quá trình tố tụng thường bị kéo dài mà các bên tranh chấp và Hội đồng trọng tài vẫn bắt buộc phải tuân theo do phải tuân thủ các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng. 1.1.4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại Trọng tài thương mại là một trong 4 hình thức giải quyết tranh chấp thương mại. Đây là một hình thức giải quyết tranh chấp khá đơn giản, nhanh chóng và có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để áp dụng hình thức này trong việc giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ một số những nguyên tắc cơ bản sau: 1. Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. 2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật. 3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. 4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm [23]. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo Luật hình sự Việt Nam
14 p | 234 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn