Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng thẩm quyền cho kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam
lượt xem 7
download
Mục đích của nghiên cứu đề tài này là làm rõ được những bất cập trong những quy định hiện nay về Kiểm sát viên, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất về tăng thẩm quyền tố tụng cho Kiểm sát viên khi họ thực thi nhiệm vụ của tố tụng hình sự đặt ra, liên quan đến Viện kiểm sát để họ có đầy đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng thẩm quyền cho kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN MẠNH ĐÔNG TĂNG THẨM QUYỀN CHO KIỂM SÁT VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỘT YÊU CẦU TẤT YẾU CỦA TIẾN TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN 7 HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP 1.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong 7 quá trình tiến hành tố tụng hình sự 1.1.1. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự 7 1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng 11 hình sự 1.2. Những yêu cầu đặt ra trong tiến trình cải cách tư pháp liên quan đến 28 nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên 1.2.1. Những yêu cầu về đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan tư pháp nói 28 chung và Cơ quan Viện kiểm sát nói riêng liên quan đến Kiểm sát viên 1.2.2. Những yêu cầu về tố chất bên trong Kiểm sát viên đáp ứng yêu cầu cải 33 cách tư pháp hiện nay khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình Chương 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ 37 TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2.1. Khái quát về hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân và tình hình 37 chung về đội ngũ Kiểm sát viên của Viện kiểm sát ở giai đoạn hiện nay 2.2. Tình hình Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều 40 1
- tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm 2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách 40 nhiệm của Kiểm sát viên 2.2.2. Những tồn tại, thiếu sót trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách 51 nhiệm của Kiểm sát viên 2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những tồn tại, thiếu sót trong thực hiện nhiệm 65 vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên Chương 3: NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUYỀN 80 HẠN CHO KIỂM SÁT VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tăng quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm 81 sát viên trong hoạt động tố tụng hình sự 3.2. Bồi dưỡng, đào tạo, bổ sung những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ liên 86 quan đến tăng quyền hạn, trách nhiệm cho Kiểm sát viên 3.3. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện quyền hạn, trách 88 nhiệm của đội ngũ Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng 3.4. Tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, điều kiện công tác đối với 89 đội ngũ Kiểm sát viên 3.5. Hoàn thiện hệ thống tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan tiến 90 hành tố tụng nói chung và của Viện kiểm sát nói riêng KẾT LUẬN 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 2
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1. Số lượng án hình sự mà Viện kiểm sát nhân dân các cấp 41 trên toàn quốc đã thụ lý và giải quyết 2.2 Số lượng án hình sự Tòa án nhân dân cấp huyện và cấp tỉnh trên toàn 45 quốc đã xét xử sơ thẩm 2.3 Số lượng các vụ án mà tòa án cấp trên hủy án sơ thẩm 61 3
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Viện kiểm sát, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố. Tuy nhiên, người thực hiện chức năng của Viện kiểm sát chính là Kiểm sát viên. Hay nói cách khác, những thành công cũng như những thất bại của Viện kiểm sát trong thực hiện chức năng của mình đều phụ thuộc vào thái độ, trách nhiệm, năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức… của Kiểm sát viên. Chính vì vậy, Kiểm sát viên giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ quan Viện kiểm sát các cấp. Nếu so sánh với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và các văn bản pháp luật có liên quan, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có những quy định về quyền năng pháp lý của Viện kiểm sát nói chung, Kiểm sát viên nói riêng đã rõ ràng hơn theo hướng từng bước tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng để giải quyết vụ án hình sự. Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, quá trình thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên cho thấy, những quy định tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự chưa bảo đảm được yêu cầu để Viện kiểm sát chủ động thực hiện đúng chức năng của mình trong tình hình án hình sự ngày một tăng lên và tính phức tạp ngày càng cao. Đã xuất hiện nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự mà lẽ ra, đã không xảy ra nếu các Kiểm sát viên được trang bị các quyền năng pháp lý một cách đầy đủ, hoàn thiện hơn. Thấy được tình hình này, trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra sự cần thiết phải: 4
- … Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật…[11]. Như vậy, vấn đề tăng thẩm quyền cho những người tiến hành tố tụng nói chung, trong đó có Kiểm sát viên là yêu cầu bức thiết đặt ra đối với những người tiến hành tố tụng nói chung và Kiểm sát viên nói riêng. Điều này đặt ra sự cần thiết nghiên cứu để đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền của Kiểm sát viên. Đó là lý do tại sao tác giả chọn đề tài: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự - một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay chưa có một công trình chuyên khảo nào nghiên cứu một cách đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự để đưa ra đề xuất liên quan đến tính hợp lý trong những quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên nói chung và tăng thẩm quyền và trách nhiệm cho Kiểm sát viên nói riêng. Tuy nhiên, có một số đề tài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này. Ví dụ, đề tài khoa học cấp Bộ của TS. Lê Hữu Thể, Viện Nghiên cứu khoa học Kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao: "Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị". Đây là một công trình khoa học được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu các quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm luận giải cơ sở pháp lý và vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư 5
- pháp trong giai đoạn điều tra; đánh giá khái quát thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong những năm qua nhằm phân tích tìm ra những nguyên nhân của các kết quả và những mặt còn hạn chế. Qua đó tác giả đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002. Luận văn thạc sĩ luật học của Phương Lan về: "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong giải quyết các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở Hà Nội", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004). Đây được coi là công trình nghiên cứu chuyên khảo đầu tiên về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở Hà Nội. Nội dung nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc làm sáng tỏ cơ sở lý luận về pháp chế xã hội chủ nghĩa nói chung và pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nói riêng; đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự của các Viện kiểm sát cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp góp phần tăng cường pháp chế trong việc giải quyết vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện ở thành phố Hà Nội hiện nay. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của tác giả, được biết cũng chưa có bài viết nào đăng trên các tạp chí pháp lý đề cập vấn đề tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên. Trong một số cuộc hội thảo khoa học do Viện kiểm sát chủ trì cũng như trong nhiều báo cáo tổng kết của Viện kiểm sát hàng năm đều ghi nhận, bên cạnh những thành tích đạt được trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát còn có nhiều vấn đề. Ví dụ, nhận xét của Viện kiểm sát cho rằng, đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay còn nhiều yếu kém: ý thức trách nhiệm của một bộ phận Kiểm sát viên chưa cao; năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ, của nhiều Kiểm sát viên còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu hiện nay; việc quản lý, chỉ đạo, 6
- điều hành kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới chưa được quan tâm đúng mức; công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong nhiều lĩnh vực còn chưa kịp thời; công tác phối hợp, chỉ đạo giải quyết án còn yếu. Trong đội ngũ Kiểm sát viên còn một bộ phận sa sút về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp, nên đã có người vi phạm kỷ luật hoặc vi phạm pháp luật đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trung bình mỗi năm có khoảng 40 đến 50 trường hợp Kiểm sát viên vi phạm pháp luật khi thực thi nhiệm vụ đến mức phải xử lý. Nguyên nhân gây nên tình trạng này có nhiều, nhưng nguyên nhân cơ bản vẫn là quy định của pháp luật tố tụng hình sự chưa được đầy đủ, rõ ràng, trong khi đó, không ít Kiểm sát viên không nắm vững quy định của pháp luật nên đã mắc vào các sai phạm trong thực thi nhiệm vụ của mình. Do vậy, có thể coi đây là nghiên cứu đầu tiên về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và vấn đề tăng thẩm quyền cho họ trong thực thi nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền công tố nhà nước trong tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta đến năm 2020. 3. Mục đích, nội dung nghiên cứu Mục đích của nghiên cứu đề tài này là làm rõ được những bất cập trong những quy định hiện nay về Kiểm sát viên, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất về tăng thẩm quyền tố tụng cho Kiểm sát viên khi họ thực thi nhiệm vụ của tố tụng hình sự đặt ra, liên quan đến Viện kiểm sát để họ có đầy đủ điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Nội dung nghiên cứu đề cập đến khái niệm, đối tượng, phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự, đi sâu phân tích các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; thực trạng tình hình thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự; đề xuất giải pháp hoàn thiện về vấn đề này. 7
- 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài đi sâu nghiên cứu về quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên thuộc cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Qua đó phân tích, đánh giá, liên hệ với thực tiễn, đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm luận chứng cho việc cần tăng cường và hoàn thiện các quyền năng và trách nhiệm pháp lý của Kiểm sát viên tại các giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản nêu trên nhằm hoàn thiện quyền năng pháp lý cho Kiểm sát viên khi tiến hành tố tụng hình sự. Luận văn không đề cập tới vấn đề: - Hệ thống Viện kiểm sát quân sự; - Các chức danh Viện trưởng, Phó Viện trưởng cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong và ngoài quá trình tiến hành tố tụng - Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta về tổ chức bộ máy cơ quan tư pháp, về mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng hình sự, về yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về yêu cầu đặt ra của quá trình cải cách tư pháp… Ngoài ra, luận văn còn sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp, phương pháp lịch 8
- sử, phương pháp khảo sát thực tiễn, tham khảo ý kiến của các cán bộ tiến hành tố tụng ở các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là các Kiểm sát viên trong ngành Kiểm sát nhân dân đã có bề dày thực tiễn trong tiến hành tố tụng hình sự. 6. Những đóng góp của luận văn Có thể coi những nội dung sau đây được đề cập trong luận văn là những đóng góp cho khoa học luật tố tụng hình sự hiện nay: - Phân tích một cách có căn cứ khoa học về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan cũng như thực tế áp dụng pháp luật hiện nay; những bất cập trong các quy định này, gây nên những trở ngại cho Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự; - Những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian tới theo tinh thần cải cách tư pháp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự và những yêu cầu đặt ra trong cải cách tư pháp. Chương 2: Tình hình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự. Chương 3: Những kiến nghị, giải pháp tăng cường quyền hạn cho Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự. 9
- Chương 1 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA TRONG CẢI CÁCH TƢ PHÁP 1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1.1. Vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự Trong khoa học pháp lý nói chung, vị trí, vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân…) được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức, hoạt động cũng như thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể đó; làm căn cứ để phân biệt, tạo nên sự độc lập của chủ thể đó so với các chủ thể khác. Về nguyên tắc cũng như theo lôgích của vấn đề thì vị trí, vai trò của Kiểm sát viên phải thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân nói chung. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự cũng vậy, quá trình hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân không thể triển khai tác nghiệp tập thể mà phải thông qua những cá nhân đại diện thường xuyên. Những mà cá nhân này chính là những Kiểm sát viên được phân công thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn, từng công việc cụ thể thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung và theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất theo ngành dọc, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân có vị trí độc lập về tổ chức và hoạt động trong của bộ máy nhà nước để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp nói chung. 10
- Trong tố tụng hình sự ở nước ta, vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân nói chung và của Kiểm sát viên nói riêng được ghi nhận, thể hiện trong các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành. Trước hết, theo quy định của Điều 33 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Viện kiểm sát là một trong những cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và Kiểm sát viên là một trong những người tiến hành tố tụng. Đồng thời theo quy định tại Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự thì: Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [30]. Như vậy, để Viện kiểm sát thực hiện được chức năng nhiệm vụ nêu trên, Kiểm sát viên chính là người đại diện cho Viện kiểm sát để thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự cụ thể mà Kiểm sát viên được phân công. Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình. Để hiểu rõ hơn vị trí, vai trò của Kiểm sát viên cần thiết phải thống nhất quan điểm về quyền công tố, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong khoa học luật tố tụng hình sự, việc xác định phạm vi quyền công tố và thực hành quyền công tố có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan 11
- trọng. Giải quyết được rõ ràng, rành mạch vấn đề trên giúp cho việc nhận thức đầy đủ, chính xác vị trí, vai trò của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự. Các tài liệu pháp lý ở nước ta hiện nay chỉ đề cập đến vấn đề quyền công tố và cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Khái niệm thực hành quyền công tố cũng như nội dung, phạm vi, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp còn ít được đề cập. Một số chuyên đề gần đây ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao và một số Viện kiểm sát nhân dân địa phương khi đề cập đến hoạt động thực hành quyền công tố cũng mới chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát thi hành án. Những vấn đề liên quan đến quyền công tố, thực hành quyền công tố, chúng tôi đồng ý với những quan điểm đưa ra của TS. Lê Hữu Thể và TS. Trần Văn Độ. Theo tác giả Lê Hữu Thể: Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là cơ quan Viện kiểm sát). Để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa [32]. Và theo TS. Trần Văn Độ khi đưa ra quan điểm về thực hành quyền công tố của hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thì cho rằng: "Thực hành quyền công tố là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội đó" [12]. 12
- Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi thì kiểm sát các hoạt động tư pháp là một chức năng của Viện kiểm sát. Chức năng này là một dạng giám sát nhà nước về tư pháp. Đây là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Khác với hoạt động giám sát khác của Nhà nước, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp và đương nhiên, giám sát các hoạt động tư pháp hình sự là một phần công việc thực hiện chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát. Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, mục đích của kiểm sát là nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất ở các quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Trong các giai đoạn tố tụng đã nêu, Viện kiểm sát áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc cán bộ tư pháp nào. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp ở các giai đoạn tố tụng từ điều tra đến xét xử là hành vi xử sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, của cơ quan Tòa án cùng cấp với Hội đồng xét xử tương ứng với nó, của những cá nhân tiến hành tố tụng như Điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân nhân, Thư ký Tòa án, của những cá nhân và tổ chức khác khi tham gia tố tụng hình sự. Cụ thể hơn, đối tượng kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự của Viện kiểm sát chủ yếu tập trung vào hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thẩm quyền thực hiện một số hoạt động tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự. Theo các quy chế hiện hành do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành về công tác kiểm sát điều tra, xét xử đang được áp dụng cho toàn ngành kiểm sát, cũng như theo kết quả các công trình nghiên cứu về khoa học công tác kiểm sát thì phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp hình sự bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố (một số trường hợp có thể được tiến hành trước khi khởi tố như việc áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ v.v…) và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. 13
- Như vậy, để quyền công tố và thực hành quyền công tố có hiệu quả cũng như kiểm sát hoạt động tư pháp một cách hữu hiệu, ngăn chặn và khắc phục kịp thời những sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất. Những kết quả đã đạt được trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, giải quyết vụ án hình sự nói riêng (như thực hiện quyền kiểm sát việc khởi tố vụ án, phê chuẩn việc khởi tố bị can, đảm bảo tính căn cứ và hợp pháp của các quyết định khởi tố, truy tố; từ chối không phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can, hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án và quyết định không khởi tố vụ án không có căn cứ, từ chối phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra; đưa ra các kháng nghị phúc thẩm đối với bản án sơ thẩm v.v… đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong hoạt động tố tụng hình sự, xóa được mặc cảm của xã hội cho rằng, việc làm của Viện kiểm sát là hợp thức hóa các hoạt động điều tra, xét xử v.v…), cũng như những sai lầm mắc phải của Viện kiểm sát (như một số Kiểm sát viên chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án liên quan đến khởi tố vụ án và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can nên không phát hiện được hồ sơ còn thiếu những chứng cứ quan trọng hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng; năng lực chuyên môn của không ít Kiểm sát viên còn yếu, rất lúng túng khi áp dụng pháp luật vào từng vụ án cụ thể; chất lượng các văn bản pháp lý chưa cao, như việc buộc tội bị can trong Bản cáo trạng còn chưa chặt chẽ, thiếu tính thuyết phục, có trường hợp viện dẫn điều khoản áp dụng chưa chính xác v.v…) đều bắt nguồn từ những việc làm của Kiểm sát viên. Từ điều này cho thấy, Kiểm sát viên giữ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong tố tụng hình sự. 1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự Theo quy định của Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn: kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập 14
- hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra; đề ra yêu cầu điều tra; triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; tham gia phiên tòa; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên tòa; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án; kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của tòa án; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát. Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình. Nghiên cứu toàn bộ Bộ luật tố tụng hình sự cho thấy, đây là điều luật duy nhất quy định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên. Tuy nhiên, trong Bộ luật tố tụng hình sự (các điều 112, 113) cũng như trong Luật tổ chức Viện kiểm sát (các điều 17, 18, 19), mặc dù không nêu rõ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên, nhưng những quy định về Viện kiểm sát cũng có nghĩa nêu về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Kiểm sát viên vì đại diện cho Viện kiểm sát chính là Kiểm sát viên. Ví dụ, Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có 15
- dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Hoặc Điều 113 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra: khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Như vậy, các Điều 112, 113 Bộ luật tố tụng hình sự chỉ quy định nhiệm vụ, quyền hạn chung của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là một cơ quan tiến hành tố tụng. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát phải thông qua các Kiểm sát viên với tư cách là người tiến hành tố tụng trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Đến lượt mình, các Kiểm sát viên lại được trang bị các quyền hạn và giao nhiệm vụ cụ thể theo quy định tại Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự. Như vậy, mối quan hệ giữa vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan Viện kiểm sát và vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm sát viên là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng đồng thời có sự liên quan chi phối chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình vận hành tố tụng. 16
- Theo như cách hiểu thông thường về các khái niệm "nhiệm vụ", "quyền hạn" thì nhiệm vụ là một hay nhiều công việc mà người thực hiện nó phải tiến hành do có sự giao phó của tổ chức hoặc cá nhân khác và tùy theo mức độ hoàn thành nó để lấy căn cứ xác định hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm vụ. Còn "quyền hạn" là khả năng và phạm vi của một chủ thể được thực hiện hay không thực hiện một hay nhiều hành vi hoặc công việc cụ thể nào đó trong khi thực hiện nhiệm vụ. Như vậy, giữa hai phạm trù nêu trên có sự khác biệt rõ ràng. Tuy nhiên, trong hệ thống văn bản pháp luật nói chung và trong Bộ luật tố tụng hình sự nói riêng, sự phân biệt giữa nhiệm vụ và quyền hạn của các chủ thể nói chung và của Kiểm sát viên nói riêng chỉ có ý nghĩa tương đối. Trong Bộ luật tố tụng hình sự, quyền hạn đi đôi với nhiệm vụ và gắn liền với trách nhiệm chỉ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, Kiểm sát viên mới được sử dụng quyền hạn do luật định và ngược lại chỉ được sử dụng quyền hạn mà luật cho phép đối với những nhiệm vụ được giao hoặc nhiệm vụ được luật quy định. Chính vì vậy, khoản 1 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự không quy định tách bạch vấn đề nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên mà quy định chung các hoạt động tác nghiệp thuộc về các lĩnh vực trên. Trong quá trình này Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm theo quy định tại khoản 2 Điều 37 Bộ luật tố tụng hình sự như đã nêu ở trên. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể của Kiểm sát viên tập trung vào: Thứ nhất, kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra. Kiểm sát việc khởi tố bao gồm kiểm sát việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự và kiểm sát khởi tố bị can. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự là hoạt động kiểm tra, xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp của quyết định khởi tố. Khi được phân công kiểm sát việc khởi tố, Kiểm sát viên phải kiểm tra quyết định khởi tố vụ án hình sự và toàn bộ những chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để cơ quan điều tra hoặc các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Việc khởi tố vụ án hình 17
- sự chỉ được coi là có căn cứ khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm phải dựa trên những cơ sở được quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự. Việc khởi tố vụ án ngoài tính có căn cứ như đã nêu còn phải đảm bảo tính hợp pháp, cụ thể là, quyết định khởi tố vụ án phải do cơ quan điều tra và thủ trưởng các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ban hành hoặc do Viện kiểm sát hay hội đồng xét xử ban hành trong những trường hợp cụ thể theo quy định của Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với những vụ án về các tội được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131, 171 Bộ luật hình sự, chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Ngoài ra, quyết định khởi tố vụ án hình sự được coi là đảm bảo tính hợp pháp khi tuân thủ về mặt hình thức theo quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự. Đồng thời qua kiểm tra xem xét các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, Kiểm sát viên xác định không xuất hiện một trong bảy căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự của Kiểm sát viên còn bao hàm cả việc kiểm sát quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự của những người có thẩm quyền khởi tố chỉ được coi là hợp pháp, có căn cứ khi có một trong bảy căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự. Khi được phân công, trong và sau khi kiểm tra quyết định khởi tố cũng như những chứng cứ, tài liệu làm căn cứ cho việc khởi tố, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ để làm rõ căn cứ của việc khởi tố vụ án hình sự, báo cáo và đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án nếu các quyết định đó không có căn cứ, trái pháp 18
- luật. Kiểm sát viên có quyền báo cáo, đề xuất Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu quyết định đó không đúng với hành vi phạm tội hoặc còn có tội phạm khác. Sau khi đã yêu cầu mà cơ quan điều tra không thực hiện thì báo cáo để Viện trưởng, Phó Viện trưởng trực tiếp ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và gửi các quyết định đó cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố đó để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát để hoặc là chấp thuận và chuyển cho cơ quan điều tra tiến hành điều tra, hoặc là không chấp thuận và kháng nghị lên Tòa án cấp trên. Đối với hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can theo quy định của Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự. Khởi tố bị can là một sự kiện tố tụng rất quan trọng và có ý nghĩa bước ngoặt trong việc giải quyết vụ án hình sự. Khởi tố bị can trực tiếp ảnh hưởng ở các mức độ nhất định tới quyền tự do, sinh mạng chính trị, uy tín và danh dự của một con người cụ thể. Khởi tố bị can thường đi liền hoặc ngay trước khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự đối với người bị khởi tố. Khởi tố bị can đúng, chính xác là tiền đề cho việc giải quyết vụ án, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Ngược lại khởi tố bị can không đúng, không chính xác sẽ dẫn đến tình trạng oan hoặc bỏ lọt tội phạm, đồng thời kéo theo một loạt các hậu quả xấu khác. Với ý nghĩa quan trọng như vậy nên lần đầu tiên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát phê chuẩn mới có hiệu lực và giá trị pháp lý (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 không có quy định này). Điều 126 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định như trên cho thấy, việc khởi tố bị can đúng đắn, chính xác hay khởi tố oan người vô tội không còn là trách nhiệm riêng của cơ quan điều tra. Trọng 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn