intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

29
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn của thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa phúc thẩm theo tố tụng dân sự Việt Nam. Qua đó, làm rõ được tính chất của xét xử phúc thẩm, những quy định phù hợp, những cơ chế còn bất cập và đề xuất những nội dung, những vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT --------------------- ĐÀO DUY VƯƠNG THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM MÃ SỐ: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2007
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM 1.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự................................................. 1.2. Tính chất của thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự................................ 1.3. Ý nghĩa của phúc thẩm dân sự.................................................................... 1.4. Đối tượng của xét xử phúc thẩm dân sự........................................................ 1.5. Phạm vi xét xử phúc thẩm........................................................................ 1.6. Sự tham gia của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp phúc thẩm ...................... 1.7. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm................................................. 1.7.1. Giữ nguyên bản án, quyết định sơ thẩm....................................................... 1.7.2. Sửa bản án sơ thẩm................................................................................. 1.7.3. Hủy bản án bản án, quyết định sơ thẩm................................................ Chương 2:PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1. Căn cứ làm phát sinh thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.................................................................................................................... 2.1.1. Người có quyền kháng cáo.................................................................... 2.1.2. Kháng nghị của Viện kiểm sát các cấp.............................................. 2.2. Đối tượng của xét xử phúc thẩm..........................................................
  3. 2.3. Vấn đề cung cấp chứng cứ........................................................................ 2.4. Phạm vi xét xử phúc thẩm......................................................................... 2.5. Về sự tham gia của Viện kiểm sát tại Tòa án cấp phúc thẩm................... 2.6. Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm ..................................................... 2.6.1. Thẩm quyền của Toà án cấp phúc thẩm khi có các sự kiện phát sinh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.................................................................... 2.6.2. Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm khi có các tình tiết phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm............................................................................................. 2.6.3. Thẩm quyền của Tòa án phúc thẩm khi có căn cứ để giữ nguyên, sửa, hủy bản án, quyết định sơ thẩm.................................................................................. Chương 3 : NHU CẦU, NỘI DUNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TOÀ ÁN CẤP PHÚC THẨM 3.1. Nhu cầu hoàn thiện về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm............................................................................................................ 3.2. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế 3.2.1. Các nguyên nhân khách quan.................................................................... 3.2.2. Các nguyên nhân chủ quan....................................................................... 3.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả xét xử phúc thẩm................................. 3.3.1. Phương hướng chung............................................................................... 3.3.2. Nội dung hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm........................................................................................
  4. KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. Đề tài: "Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam" MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, Tòa án nhân danh Nhà nước ra các phán quyết bảo đảm cho quyền, lợi ích của các cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước. Trong phạm vi chức năng của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội , ý thức đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác [12, tr 8]. Cũng như phần lớn các nước trên thế giới, nhất là các nước theo truyền thống luật dân sự, tố tụng Tòa án tại nước ta được chia thành nhiều thủ tục khác nhau như: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc hoặc tái thẩm. mỗi thủ tục có mục đích, ý nghĩa khác nhau và do vậy, có tính chất khác nhau. Thủ tục phúc thẩm, theo cách hiểu chung nhất “là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị". Thủ tục phúc thẩm có ý nghĩa, vai trò quan trọng, tạo điều kiện để Tòa án cấp trên xem xét, kiểm tra lại bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, nhằm kịp thời phát hiện và khắc phục những sai lầm, thiếu sót của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo vệ sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền lợi ích của Nhà nước, của công dân. Thủ tục phúc thẩm còn quan trọng ở chỗ, theo nguyên tắc cơ bản của 1
  6. pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam là thực hiện chế độ 2 cấp xét xử, bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm thì có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử phúc thẩm, còn bản án, quyết định án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên án. Chỉ khi bản án quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm có vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc có tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ án thì mới được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách hệ thống tư pháp trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam tại kỳ họp thứ 5 từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 năm 2004 đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự và có hiệu lực từ ngày 01/01/2005. Đây là hành lang pháp lý cơ bản, quan trọng bảo đảm cho Tòa án giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu về dân sự, là cơ sở cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. So với các văn bản pháp luật tố tụng dân sự trước kia thì Bộ luật tố tụng dân sự là những quy định hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất của pháp luật tố tụng dân sự nước ta về thủ tục phúc thẩm dân sự, bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự trong một vài năm qua cho thấy còn nhiều điều bất cập, nhiều vấn đề lý luận của thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm chưa được làm rõ, tính chất của việc xét xử phúc thẩm chưa được nhận thức một cách đầy đủ, các quy định của Bộ luật về căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm, đối tượng của xét xử phúc thẩm, vấn đề cung cấp chứng cứ, phạm vi của xét xử phúc thẩm hay quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm... chưa được cụ thể còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng vi phạm về thời hạn xét xử, tỷ lệ các bản án, quyết định phúc thẩm bị hủy theo thủ tục giám đốc, tái thẩm còn nhiều làm giảm sút lòng tin của quần 2
  7. chúng nhân dân đối với hệ thống Tòa án nói riêng và các cơ quan tư pháp nói chung. Chính vì vậy, tại Nghị quyết số 08 - NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết số 48 - NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đều nhấn mạnh việc hoàn thiện pháp luật tố tụng, bảo đảm các phiên tòa diễn ra thực sự dân chủ, nghiêm minh, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân. Trong phạm vi chương trình đào tạo cao học Luật, Tôi chọn đề tài "Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm theo pháp luật Việt Nam" để làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án phúc thẩm là giai đoạn tố tụng được quy định trong các văn bản về tố tụng dân sự có ở các thời kỳ trước đây và đã có một số công trình nghiên cứu giải quyết một số vấn đề về xét xử phúc thẩm như trong đề tài khoa học cấp bộ về "Vấn đề tổ chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa của Tòa án nhân dân", mã số 47 - 98/043/ĐT của TANDTC do TS Nguyễn Văn Hiện (nguyên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao) làm chủ nhiệm đề tài. Báo cáo phúc trình của đề tài đã đề cập đến vấn đề tổ chức phiên tòa phúc thẩm, nhưng đề tài chỉ đi sâu về nghiên cứu những vấn đề liên quan đến cơ sở lý luận thực tiễn và yêu cầu sửa đổi bổ sung hình thức tổ chức phiên tòa nói chung (bao gồm cả phiên tòa hình sự, dân sự, kinh tế, lao động hành chính) và vấn đề thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa như thế nào là đúng và đạt hiệu quả cao nhất [36, tr 9]. Ngoài ra, còn có luận văn tốt 3
  8. nghiệp cử nhân luật của Lưu Xuân Thủy với đề tài "Thủ tục phúc thẩm dân sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam". Tuy nhiên, luận văn này chỉ nghiên cứu các quy định của thủ tục phúc thẩm dân sự theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Từ khi ban hành Bộ luật tố tụng dân sự đến nay, chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về thủ tục xét xử phúc thẩm theo Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành. Do có nhiều khó khăn trong thu thập tài liệu, trong việc tiếp cận, phân tích, đánh giá pháp luật nước ngoài nên trong luận văn, tùy từng vấn đề chúng tôi chỉ sử dụng pháp luật nước ngoài mà cụ thể là Bộ luật tố tụng dân sự của một số nước như: BLTTDS của nước Cộng hoà Pháp, BLTTDS của Liên bang Nga, Luật tố tụng dân sự của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Luật tố tụng dân sự của Nhật Bản, Thái Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển hay Đài Loan, chỉ mang tính chất so sánh, thông tin khoa học, để từ đó đưa ra quan điểm nghiên cứu trong từng lĩnh vực. 3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề về lý luận và thực tiễn của thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa phúc thẩm theo tố tụng dân sự Việt Nam. Qua đó, làm rõ được tính chất của xét xử phúc thẩm, những quy định phù hợp, những cơ chế còn bất cập và đề xuất những nội dung, những vấn đề nhằm hoàn thiện các quy định này. Do giới hạn của một luận văn thạc sĩ luật học, luận văn này không đi sâu tìm hiểu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục thụ lý, chuẩn bị xét xử, thủ tục xét xử tại phiên tòa hay quyền hạn của Tòa án, Hội đồng xét xử phúc thẩm như quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự mà chỉ đi sâu tìm hiểu, làm rõ một số vấn đề có tính chất cơ bản, cốt lõi và còn có những hạn chế, bất cập cả trên phương diện điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật của thủ tục phúc thẩm dân sự như: khái niệm, tính chất của thủ tục giải quyết 4
  9. vụ án dân sự tại Tòa phúc thẩm, các căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm, quyền kháng cáo, kháng nghị, đối tượng của kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm, vấn đề cung cấp chứng cứ, vấn đề phạm vi của việc xét xử phúc thẩm, thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm… Về thời gian tham khảo số liệu thực tiễn, luận văn chủ yếu sử dụng số liệu và tư liệu của ba năm, từ năm 2004 (năm Bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực thi hành) đến năm 2006. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học Khi nghiên cứu luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa và vấn đề cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Phương pháp nghiên cứu của luận văn là đi từ lý luận đến thực tiễn, dùng thực tiễn kiểm chứng lý luận. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp thống kê cũng được sử dụng để hoàn thành luận văn. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu của riêng bản thân về thủ tục xét xử phúc thẩm để hoàn thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp lớp cao học luật dân sự khóa X, của Khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Qua việc làm sáng tỏ những dấu hiệu đặc trưng của thủ tục xét xử phúc thẩm dân sự, phạm vi, thẩm quyền của Tòa án sơ thẩm, các cơ chế về cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, thủ tục áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời tại giai đoạn phúc thẩm. Thông qua việc nghiên cứu, so sánh 5
  10. pháp luật về xét xử phúc thẩm dân sự một số nước trên thế giới để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận về thủ tục phúc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể được sử dụng như là một tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học luật và giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật. Luận văn còn đi sâu phân tích những hạn chế, bất cập của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục phúc thẩm và đề xuất hướng hoàn thiện. Những kết quả này có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự. Kết quả nghiên cứu luận văn còn có thể được sử dung như là một tài liệu tham khảo cho các thẩm phán, thư ký Tòa án… làm công tác xét xử phúc thẩm dân sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu thành 3 chương : Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm Chương 2: Pháp luật Việt Nam về thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm và thực tiễn áp dụng Chương 3: Nhu cầu và nội dung hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm 6
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN CẤP PHÚC THẨM 1.1. Khái niệm thủ tục phúc thẩm vụ án dân sự Trong xã hội có giai cấp, để duy trì trật tự xã hội, Nhà nước thông qua việc sử dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hệ thống các cơ quan Nhà nước được thành lập ra để thi hành các nhiệm vụ cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Tòa án là một cơ quan đặc biệt, thể hiện quyền lực của Nhà nước trong họat động tư pháp, là cơ quan nhân danh Nhà nước. Qua hoạt động xét xử, ra các phán quyết để phân định quyền, nghĩa vụ cho các bên tham gia trong vụ kiện. Trong lĩnh vực dân sự, lợi ích như là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự [56, tr 70], không có một cơ quan phán xử công minh chắc chắn không thể giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn về lợi ích trong xã hội. Việc giải quyết của Tòa án qua hai giai đoạn từ sơ thẩm và phúc thẩm. Trong đó thủ tục phúc thẩm là thủ tục ảnh hưởng đến quyền, cũng như nghĩa vụ của các bên tham gia trong vụ kiện nhiều nhất. Bởi quyết định phúc thẩm đồng nghĩa với việc quyền, nghĩa vụ của các đương sự đã được phân định rạch ròi, có ý nghĩa thực hiện trên thực tế. Bản án có hiệu lực là pháp luật và có ý nghĩa bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng là các chủ thể có liên quan. Việc xét xử là một trong những phương thức thực hiện quyền lực Nhà nước đã tồn tại từ xa xưa, từ thời kỳ Nhà nước Ai Cập Babilon cổ đại đến thời kỳ La Mã Hy Lạp cổ đại rồi qua thời kỳ trung cổ Phục hưng. Dưới chế độ chiến hữu nô nệ và phong kiến, họat động xét xử cũng như họat động lập pháp và hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại 7
  12. diện là nhà Vua, người có quyền lực cao nhất ở giai đoạn này, Tòa án chưa tổ chức thành một hệ thống và chưa trở thành lĩnh vực hoạt động độc lập trong bộ máy Nhà nước [30, tr 80]. Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người dân được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung về Nhà nước pháp quyền [50, tr 216 - 217], quyền tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực Nhà nước là quyền nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết nhằm khôi phục trật tự pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và công dân khi có sự vi phạm. Chủ thể của hoạt động xét xử chỉ có thể là Tòa án. Xét xử là việc Tòa án nhân danh Nhà nước xem xét đánh giá tính chất mức độ của hành vi vi phạm pháp luật, xác định bản chất quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên và ra các quyết định xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên. Xét xử theo nghĩa khái quát là việc xem xét, và xử các vụ án, xét xử các tội phạm, việc xét xử của Tòa án [26, tr 1148]. Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động của các cơ quan và các cá nhân được căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định pháp lý có tính bắt buộc [58, tr 144]. Việc xét xử của Tòa án, tùy theo tính chất của thủ tục xét xử vụ án, mà có các thủ tục diễn ra tại các cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm được diễn ra tại Tòa án cấp sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được diễn ra tại Toà án cấp phúc thẩm... Mỗi thủ tục xét xử có một đặc thù mang tính chất pháp lý khác nhau. Phúc thẩm về mặt ngôn ngữ học là việc Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án do cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống án [28, tr 790]. Theo Từ điển thuật ngữ luật học về dân sự, hôn nhân và gia đình và tố tụng dân sự của trường Đại học Luật Hà Nội thì phúc thẩm là việc Tòa án cấp 8
  13. trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc bị kháng nghị nhằm kiểm tra lại tính hợp pháp tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm, sửa những sai lầm và vi phạm của Tòa án sơ thẩm bảo đảm việc áp dụng thống nhất pháp luật [27, tr 378]. Theo Điều 242 Bộ luật tố tụng dân sự, phúc thẩm : ‘‘là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị". Như vậy, hiểu theo cách hiểu của ngôn ngữ hay quy định của luật thực định thì khái niệm phúc thẩm cũng bao gồm ba yếu tố hợp thành: - Là việc của Tòa án cấp trên trực tiếp; - Xét lại bản án (hoặc xét xử lại vụ án); - Bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Từ khái niệm phúc thẩm trên có thể đưa ra khái niệm thủ tục phúc thẩm, theo đó, thủ tục phúc thẩm là thủ tục xem xét lại tính hợp pháp tính, có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị. Thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm là một giai đoạn tố tụng độc lập, có những tính chất, đối tượng xét xử, có vai trò, ý nghĩa, mục đích riêng, không giống với bất cứ thủ tục xét xử ở giai đoạn nào (sơ thẩm hay giai đoạn xét lại bản án giám đốc thẩm, tái thẩm). Khái niệm phúc thẩm dân sự là một khái niệm phức tạp bao gồm nhiều nội dung. Để tìm hiểu được đầy đủ, toàn diện khái niệm phúc thẩm cần thiết phải làm rõ các nội dung tiếp sau: 1.2. Tính chất của thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự 9
  14. Tính chất là những nội dung quyết định đến các nội dung của các vấn đề khác theo từ điển Tiếng Việt: tính chất là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng làm phân biệt nó với những sự vật, hiện tượng khác [28, tr 999]. Tính chất của xét xử phúc thẩm là việc cần phải làm rõ đầu tiên bởi nó quyết định đến các vấn đề khác của việc xét xử phúc thẩm như phạm vi xét xử phúc thẩm, vai trò, ý nghĩa của việc xét xử phúc thẩm. Làm rõ được tính chất của việc xét xử từ đó sẽ làm cơ sở để xây dựng lên các cơ chế như xác định cụ thể căn cứ phát sinh thủ tục phúc thẩm, đối tượng của xét xử phúc thẩm, phạm vi xét xử phúc thẩm và quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm. Thủ tục phúc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc xét xử hai cấp. Ở giai đoạn này, các đương sự người đại diện của đương sự tổ chức xã hội khởi kiện Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng cáo, kháng nghị bản án, quyết định dân sự để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Quyền kháng cáo của đương sự là biểu hiện cụ thể quyền dân chủ công dân được pháp luật bảo vệ. Do đó, dù bản án quyết định dân sự sơ thẩm được Tòa án coi là xét xử đúng, nhưng nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên vẫn phải tiến hành thủ tục phúc thẩm dân sự để kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm. Từ trước đến nay hai cấp xét xử đã được pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam coi là nguyên tắc cơ bản. Trong các nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Từ ngay trong những văn bản đầu tiên của Nhà nước ta về tố tụng dân sự. Trong Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định về sự phân công giữa các nhân viên trong Toà án đã quy định Toà án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm. Toà án Thượng thẩm có quyền chung thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án Đệ nhị cấp. Tại Thông tư số 1459/HCTP của Bộ Tư pháp ngày 19/8/1955 nhấn 10
  15. mạnh: ‘‘Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng của nhân dân cần phải được bảo đảm". Điều 9 Luật Tòa án nhân dân năm 1960 quy định "Tòa án nhân dân thực hành chế độ 2 cấp xét xử". Tại Công văn số 614/DS ngày 24/4/1963 của Tòa án nhân dân tối cao về việc vi phạm thủ tục tố tụng có hướng dẫn "Một trong những nguyên tắc cơ bản của Tòa án là 2 cấp xét xử, đương sự có quyền chống bản án của Tòa án nhân dân xử sơ thẩm lên Tòa án nhân dân trên một cấp, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân’’ (Mục III). Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 quy định rõ về chức năng của Tòa án cấp phúc thẩm là: "xét xử lại những vụ án đã được xét xử theo trình tự sơ thẩm khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị’’. Điều 17 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định: "1. Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật". 2- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật này’’. Xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử nên tính chất của phúc thẩm dân sự không có gì khác, đó chính là việc xét xử lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định dân sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Tính chất của phúc thẩm dân sự được thể hiện rõ qua những nét đặc trưng cơ bản của thủ tục phúc thẩm dân sự, qua đó cho thấy sự khác biệt về tính chất của thủ tục phúc thẩm dân sự với các thủ tục tố tụng tại cấp sơ thẩm 11
  16. hay các thủ tục tố tụng khác được Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự đó là các đặc trưng thể hiện qua: + Quyền kháng cáo của đương sự, kháng nghị của Viện kiểm sát: Kháng cáo là hoạt động tố tụng của đương sự và các chủ thể khác theo quy định của pháp luật trong việc chống lại bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án dân sự. Kháng nghị là hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật nhằm phản đối bản án, quyết định sơ thẩm, đề nghị Toà án có thẩm quyền xem xét lại vụ án [25, tr 297]. Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: "Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm". Điều 250 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: ‘‘Viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm’’. Về mặt nguyên tắc, sau khi ra bản án, quyết định thì bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà còn trong một thời hạn nhất định. Đối với bản án là 15 ngày, đối với quyết định là 7 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc ngày nhận được quyết định. Các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng cáo, kháng nghị. Hoặc là 30 ngày đối với bản án, 10 ngày đối với quyết định thì Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có quyền kháng nghị bản án, quyết định. Thông qua kháng cáo, kháng nghị họ thể hiện sự bất đồng quan điểm của họ đối với bản án, quyết định của Toà án đồng thời đưa ra những ý kiến, quan điểm, nguyện vọng của mình về việc giải quyết vụ án. Khi có kháng cáo, kháng nghị việc xem xét, giải quyết phúc thẩm là bắt buộc. Tòa án cấp phúc thẩm phải tiến hành kiểm tra tính hợp pháp và tính có 12
  17. căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị đồng thời xem xét lại các phần khác có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. + Tính hợp pháp, tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm: Tính hợp pháp của bản án, quyết định dân sự sơ thẩm thể hiện ở chỗ không những bản án và quyết định dân sự sơ thẩm đó phải phù hợp với những quy định của pháp luật về nội dung mà còn phải tuân thủ đúng những quy định của pháp luật về tố tụng. Tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm thể hiện ở chỗ không những bản án, quyết định dân sự sơ thẩm đó phải phù hợp với các sự kiện thực tế, thể hiện đúng bản chất của sự việc mà nó còn thể hiện là: tất cả các tình tiết, các chứng cứ của vụ án phải được kiểm chứng hợp pháp tại phiên tòa, tình tiết vụ án phải khách quan, phải được thu thập, xác định theo đúng các thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy định. Xem xét lại nội dung vụ án ở cấp phúc thẩm là đi sâu xác định tính chất của vụ án trên cơ sở các chứng cứ đã được Tòa án cấp sơ thẩm thu thập và các chứng cứ mới xuất hiện tại Tòa án cấp phúc thẩm. Pháp lệnh thủ tục giải quyết của vụ án Dân sự 1993 và các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Kinh tế, Lao động đều quy định cụ thể phạm vi, trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm là: "Khi xét xử, Tòa án cấp phúc thẩm có thể sử dụng chứng cứ do các đương sự cung cấp hoặc do Tòa án, viện kiểm sát thu thập thêm. Chứng cứ cũ và chứng cứ mới đều phải được xem xét tại phiên tòa " (khoản 2 Điều 63 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự). Điều 65 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động đều quy định: "Trước khi xét xử hoặc tại phiên tòa phúc thẩm người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền bổ sung thêm chứng cứ mới. Tòa án cấp phúc thẩm có thể 13
  18. tự mình hoặc theo yêu cầu của đương sự tiến hành hoặc ủy thác cho Tòa án khác tiến hành xác minh chứng cứ mới được bổ sung ’’. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không quy định cụ thể về trách nhiệm của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc xác minh thu thập chứng cứ như trong các Pháp lệnh tố tụng cũ bởi theo nguyên tắc của Bộ luật tố tụng dân sự, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đương sự. Nhưng để có cơ sở ra một phán quyết đúng đắn, khách quan, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm vẫn phải xem xét toàn bộ các chứng cứ cũ và các chứng cứ mới được bổ sung tại Tòa án cấp phúc thẩm. Bộ luật tố tụng dân sự không quy định cụ thể trách nhiệm của Tòa án trong việc điều tra thu thập chứng cứ nhưng khoản 3 Điều 244 và khoản 3 Điều 251 Bộ luật tố tụng dân sự đều có quy định: ‘‘kèm theo đơn kháng cáo hay quyết định kháng nghị là tài liệu, chứng cứ bổ sung nếu có để chứng minh cho kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ và hợp pháp’’. Như vậy, quyền cung cấp chứng cứ của đương sự, người kháng cáo, kháng nghị không bị hạn chế ở bất cứ giai đoạn nào. Do đó, họ có thể tự tìm để bổ sung các chứng cứ mới và nếu không tự bổ sung, tự thu thập được thì họ có thể đề nghị Tòa án điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ mới cho họ và để bảo đảm xét xử được khách quan phù hợp với các quy định của pháp luật, làm rõ sự thật của các tình tiết trong vụ án thì Tòa án cấp phúc thẩm cũng sẽ không có quyền từ chối các yêu cầu, đề nghị này bởi nếu từ chối hoặc điều tra xác minh không đầy đủ, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án thì lại là căn cứ để Tòa án cấp trên (cấp giám đốc thẩm) hủy bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm. Tính hợp pháp và tính có căn cứ là hai yêu cầu bắt buộc đối với các bản án và quyết định của Tòa án khi giải quyết các vụ việc dân sự. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ có thể coi là đúng luật khi các quyết định đó dựa trên các căn cứ rõ ràng, khách quan và phù hợp với các quy định của pháp luật. Tính hợp pháp và có căn cứ là hai yêu cầu tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ với 14
  19. nhau không thể coi nhẹ yếu tố nào. Khác với việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật là cấp giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ thường xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ chứ ít có những chứng cứ mới phát sinh bởi khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm thì thường không triệu tập đương sự, phiên tòa không mở công khai. Còn khi xét xử phúc thẩm thì phiên tòa mở công khai, tất cả các đương sự, những người tham gia tố tụng có liên quan đều được triệu tập. Tất cả các chứng cứ đều được xem xét, tranh luận tại phiên toà, tất cả các nội dung có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị đều đưa ra xem xét tranh luận cụ thể và nếu có căn cứ đều được xem xét cải sửa cho phù hợp. Như vậy, qua phân tích những quy định của pháp luật thì thấy tính chất của phúc thẩm dân sự chính là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo hoặc kháng nghị. 1.3. Ý nghĩa của phúc thẩm dân sự Khi có sự tranh chấp về quyền, lợi ích nói chung mà các bên tranh chấp không tự giải quyết được với nhau hay khi có một sự kiện pháp lý nào đó xảy ra có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong các quan hệ dân sự thì cá nhân tổ chức có liên quan ấy có quyền làm đơn đề nghị Tòa án xem xét giải quyết các yêu cầu của họ, khi các đương sự đã thực hiện đầy đủ các điều kiện về mặt hình thức, thủ tục theo đúng quy định của pháp luật thì Tòa án có trách nhiệm thụ lý xem xét, giải quyết các tranh chấp hay các yêu cầu về công nhận một sự kiện pháp lý nào đó. Khi các đương sự khởi kiện hoặc có yêu cầu đến Toà án là họ đã có mong muốn, gửi gắm vào cơ quan quyền lực, cơ quan công quyền nhân danh Nhà nước ra các phán quyết thực sự công bằng đối với họ, trả lại cho họ quyền, lợi ích chính đáng mà họ đáng được hưởng theo quy định của pháp luật. 15
  20. Thực chất của quá trình tố tụng dân sự tại Tòa án là quá trình giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật về nội dung mà các chủ thể có đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật tham gia. Mục đích của quá trình tiến hành tố tụng tại Tòa án là nhằm lập lại trật tự của quan hệ pháp luật có tranh chấp. Trên cơ sở của các quy tắc tố tụng dân sự để giải quyết thấu đáo, đúng pháp luật của các quan hệ pháp luật về nội dung đang có tranh chấp. Quá trình áp dụng các quy định của tố tụng dân sự tại Tòa án được thực hiện trong các giai đoạn khác nhau từ giai đoạn xem xét các yêu cầu khởi kiện, thụ lý yêu cầu khởi kiện, các thủ tục trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đến các giai đoạn xét xử như : xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hay tái thẩm. ở mỗi giai đọan giải quyết, xét xử của Tòa án đều có những ý nghĩa về mặt chính trị, xã hội hay ý nghĩa pháp lý riêng. ở giai đoạn sơ thẩm thì ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm cũng khá quan trọng là phiên xử đầu [31, tr 42], là nơi quyền lợi và nghĩa vụ của các đương sự được Toà án ghi nhận chính thức trong các bản án, các quyết định của Tòa án. Thông qua phiên tòa sơ thẩm việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật phổ biến pháp luật đến những người dân tham dự phiên tòa. Nhưng việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, ý nghĩa của việc giáo dục phổ biến pháp luật được thể hiện rõ nét hơn cả trong quá trình xét xử tại Tòa án cấp phúc thẩm. Với quy định "bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án" [6, tr 81], thì việc áp dụng các quy định của tố tụng dân sự trong giai đoạn phúc thẩm vụ án dân sự có một ý nghĩa đặc biệt. + Ý nghĩa về mặt chính trị : Qua xét xử vụ án dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm, hội đồng xét xử phúc thẩm, khắc phục những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án bảo đảm cho quyền và lợi ích hợp pháp 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2