intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:82

11
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" được hoàn thành với mục tiêu nhằm nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của sự hạn chế. Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

  1. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI DƯƠNG TUẤN ANH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA LUẬT VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2022
  2. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI DƯƠNG TUẤN ANH THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 838.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN HUY PHƯỢNG Hà Nội - 2022
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là độc lập của riêng tôi. Tôi xin cam đoan kết quả được viết trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này. TÁC GIẢ Dương Tuấn Anh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1 ....................................................................................................................8 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC .......................................8 1.1. Khái quát chung về tội phạm đánh bạc. ..........................................................8 1.1.1. Khái niệm tội phạm đánh bạc. .........................................................................8 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm đánh bạc .......................................................9 1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa, vai trò của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét sử sơ thẩm vụ án đánh bạc. ..............................................11 1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. ...................................................................................................................11 1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. ...................................................................................................................16 1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. ...............................................................................................18 1.2.4. Vai trò của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc ....................................................................................................................19 1.3. Nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. ............................................................................................................................20 1.3.1. Thực hành quyền công tố trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc .............................................................................................................................20 1.3.2. Thực hành quyền công tố tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Đánh bạc ...22 1.3.3. Thực hành quyền công tố sau phiên toà sơ thẩm vụ án Đánh bạc ...................26 1.4. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố với kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. .............................................................................................................27 Chương 2 ..................................................................................................................30 THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ..........................................30 TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC .....................30
  5. TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA .................................................................30 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa........................................30 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thanh Hóa. ............................30 2.1.2. Tình hình tội phạm đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa .......................31 2.1.3. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát hai cấp của tỉnh Thanh Hóa................32 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. ...................................34 2.2.1. Những kết quả đạt được ................................................................................34 2.2.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của tồn tại hạn chế.......................40 Chương 3 ..................................................................................................................53 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THANH HÓA .......................................................53 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc.....................................................................................53 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. .............................................................................56 3.2.1. Nhóm giải pháp chung ...................................................................................56 3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể ...................................................................................63 KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX Hội đồng xét xử KSXX Kiểm sát xét xử KSV Kiểm sát viên QCT Quyền Công tố THQCT Thực hành quyền công tố TNHS Trách nhiệm hình sự TTHS Tố tụng hình sự VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSTC Viện kiểm sát tối cao XXST Xét xử sơ thẩm
  7. DANH MỤC BẢNG BIỂU Số vụ án/số bị can khởi tố mới và số vụ án/số bị can Viện kiểm sát Bảng 2.1. truy tố trong giai đoạn 2017 - 2021 Bảng 2.2. Đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa Trình độ đội ngũ Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Bảng 2.3. Hóa Số vụ án/ bị cáo phạm tội về Đánh Bạc bị truy tố được đưa ra xét xử Bảng 2.4. sơ thẩm giai đoạn 2017 - 2021
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luận văn Thực hành quyền công tố (THQCT) là chức năng của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự VKSND có nhiệm vụ THQCT: Công bố cáo trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa; xét hỏi, xem xét vật chứng xem xét tại chỗ; Luận tội, tranh tụng, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát (VKS) về việc giải quyết vụ án tại tòa; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm (XXST) theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). - Về cơ sở lý luận THQCT trong giai đoạn XXST vụ án hình sự nói chung, vụ án đánh bạc nói riêng được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự, Luật hình sự và các văn bản dưới luật hướng dẫn ..., bước đầu đã tháo gỡ được một số khó khăn, vướng mắc, bất cập khi THQCT trong giai đoạn xét xử. Tuy nhiên, khi THQCT tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự nói chung và vụ án đánh bạc nói riêng tại tỉnh Thanh Hóa; theo các quy định của BLTTHS năm 2015 cũng bộc lộ một số vấn đề bất cập, hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa sẽ được tác giả dự kiến tập trung nghiên cứu giải quyết như: Tòa án (Hội đồng xét xử) vừa thực hiện chức năng xét xử vừa thực hiện chức năng buộc tội (khởi tố vụ án và yêu cầu VKS khởi tố); Hội đồng xét xử (HĐXX) có thẩm quyền xét xử ngoài cả phạm vi mà cáo trạng VKS truy tố; trình sự xét hỏi tại phiên tòa làm giảm đi vai trò tranh tụng của bên buộc tội và bên bào chữa; việc không quy định giữa những người tham gia tố tụng tại phiên tòa được hỏi lẫn nhau dẫn đến chưa phát huy được tinh thần tranh tụng; có hoạt động buộc tôi nhưng thiếu hoạt động bào chữa...
  9. 2 - Về thực tiễn: Vẫn còn xảy ra một số vụ án VKS truy tố chưa đầy đủ chứng cứ buộc tội, gỡ tội, chất lượng xây dựng hồ sơ vụ án đánh bạc chưa đảm bảo yêu cầu, chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên còn hạn chế, công tác chỉ đạo điều hành, kiểm tra, giám sát chưa được chặt chẽ; bản án sơ thẩm còn bị cấp phúc thẩm xử sửa án; ý thức, trách nhiệm, năng lực trình độ, bản lĩnh của một số KSV, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở vị trí phía Bắc Trung bộ của Việt Nam, có diện tích rộng, người đông, hàng năm kinh tế tăng trưởng đạt cao, đồng thời cũng là môi trường để các loại tội phạm tập trung hoạt động trong đó có tội phạm đánh bạc gia tăng cả về số vụ, số tiền và số người tham gia với quy mô, tính chất, thủ đoạn tinh vi và phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Đòi hỏi các cơ quan tư pháp nói chung trong đó VKSND hai cấp ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng ngày càng áp lực trong việc đấu tranh phòng, chống làm giảm loại tội phạm này. Công tác THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trong 5 năm gần đây (2017 - 2021) trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế oan, sai, bỏ lọt tội phạm góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên công tác THQCT trong giai đoạn XXST vụ án đánh bạc vẫn để xảy ra một số vi phạm về tố tụng, về áp dụng tội danh, điều luật, khung, khoản, bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa án... Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại có cả từ cơ sở lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. Hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra, truy tố, XXST vụ án hình sự nói chung đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh, các thầy, cô giáo nhất là những người đang công tác trong ngành kiểm sát, các công trình khoa học liên quan đến đề tài này có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau đây: * Thứ nhất, Nhóm các Luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ
  10. 3 - Trần Thị Liên, Luận án Tiến sĩ Luật học (2019) “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”. Đề tài Luận án đã chỉ rõ và đề cập cụ thể đến hoạt động THQCT trong giai đoạn XXST vụ án hình sự nói chung nhưng chưa đi sâu, làm rõ vấn đề THQCT trong giai đoạn XXST vụ án đánh bạc ở một đơn vị địa phương, do vậy đây là vấn đề tác giải tiếp tục nghiên cứu vấn đề THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc tại một địa phương cụ thể; - Nguyễn Hoài Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học (2018), “Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao ở Việt Nam hiện nay”. Đây là luận án tập trung phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về THQCT và KSXX ở cấp phúc thẩm của VKS cấp cao; - Đặng Khắc Thắng, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2017), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các tội phạm cờ bạc từ thực tiễn thành phố Hải Phòng”. Đây là đề tài có tính thực tiễn về THQCT trong giai đoạn điều tra các tội phạm đánh bạc giúp cho tác giả nhận diện đầy đủ hơn về các hình thức của tội phạm đánh bạc; - Trương Khắc Dương, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2018), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Đây là đề tài luận văn cho tác giả thấy được cách tiếp cận về THQCT trong giai đoạn XXST một vụ án cụ thể ở địa phương cụ thể, tuy nhiên luận văn không đề cập đến THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc; - Đoàn Đình Thắng, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2020), “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”; * Thứ hai, Nhóm các đề tài khoa học, sách chuyên khảo - Giáo trình đào tạo “Nghiệp vụ kiểm sát”, Giáo trình “Thực hành quyền công tố trong TTHS” của Trường đại học kiểm sát Hà Nội; - Nguyễn Ngọc Hòa (2018), “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 - sửa đổi bổ sung năm 2017 phần các tội phạm”, Nxb Tư pháp; - Đề tài khoa học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDTC năm 2008;
  11. 4 Đây là những công trình khoa học giúp cho tác giả tiếp cận để nghiên cứu về cơ sở lý luận công tác THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. * Thứ ba, Nhóm các bài viết đăng trên tạp chí khoa học - Vũ Đức Hạnh (2018), “Một số vấn đề về thực hành quyền công tố trong Tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát số 5/2018; - Phạm Minh Tuyên (2020) “Tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc theo BLHS 2015 - những vướng mắc và kiến nghị”, Tạp chí Tòa Án năm 2020; - “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án đánh bạc trên địa bàn huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi” năm 2018 trên trang thông tin điện tử của VKSND tỉnh Quảng Ngãi; Các công trình khoa học trên giúp cho tác giả tiếp cận ở nhiều góc độ thực tiễn để hoàn thiện đến đề tài của mình. Như vậy có thể thấy, mỗi công trình nghiên cứu đã công bố thể hiện quan điểm của các tác giả về quyền công tố, THQCT, thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự và trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Một số công trình nghiên cứu đã tập trung vào nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn XXST vụ án hình sự tại địa phương cụ thể, và đề xuất các giải pháp gắn liền với điều kiện của địa phương đó. Các kết quả trên sẽ được tác giải tiếp tục kế thừa có chọn lọc, vận dụng hợp lý vào các nội dung cụ thể của luận văn. Tuy nhiên, hiện nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về THQCT trong giai đoạn XXST vụ án Đánh bạc trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Thanh Hóa cho nên đề tài, luận văn không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào khác. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của sự hạn chế. Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Để đạt được mục đích trên đây, tác giả sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau:
  12. 5 1. Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 2. Phân tích quy định BLHS năm 2015 về tội đánh bạc trong đó tập trung làm rõ các dấu hiệu định tội, định khung hình phạt đối với tội phạm đánh bạc. 3. Đánh giá thực trạng về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, từ năm 2017 - 2021 như: Kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân của hạn chế. 4. Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. - Đề tài Luận văn nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong giai đoạn XXST vụ án đánh bạc. Thực trạng áp dụng pháp luật THQCT trong giai đoạn XXST vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2017 – 2021, làm rõ nguyên nhân hạn chế; đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng THQCT trong giai đoạn XXST vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. - Phạm vi nội dung: Đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu chức năng thực hành quyền công tố của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trong phạm vi chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự (Đề tài luận văn không nghiên cứu hoạt động kiểm sát xét xử vụ án đánh bạc tại phiên tòa; Không nghiên cứu THQCT trước giai đoạn xét xử, Không nghiên cứu THQCT trong giai đoạn xét xử của VKS quân sự (nếu có). - Phạm vi thời gian, không gian: Đề tài Luận văn khảo sát và đánh giá thực tiễn về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc ở VKS hai cấp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong thời gian 05 năm từ 2017 - 2021. - Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
  13. 6 - Cơ sở lý luận của đề tài Luận văn là dựa trên học thuyết Mác - Lê Nin với phương pháp luận là biện pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. - Phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng như: Phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê, phương pháp so sánh luật học, phương pháp đối chiếu, quy nạp, diễn dịch và kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống, hiện đại khác để làm rõ hơn các vấn đề mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. 6. Ý nghĩa khoa học lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu + Ý nghĩa lý luận: - Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần bổ sung lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở VKS cấp huyện và VKS cấp tỉnh nói chung và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc nói riêng. - Đề tài là một công trình nghiên cứu khoa học góp phần bổ sung lý luận và thực tiễn cho chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. + Ý nghĩa thực tiễn: Là tài liệu phục vụ cho VKSND và kiểm sát viên hai cấp của tỉnh Thanh Hóa, cơ quan điều tra, Tòa án hai cấp ở tỉnh Thanh Hóa, các cơ quan chức năng, tổ chức xã hội, học sinh, sinh viên làm tài liệu tham khảo vận dụng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc, góp phần đấu tranh phòng ngừa làm giảm tội phạm đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. 7. Kết cấu của đề tài luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 03 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội đánh bạc, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
  14. 7 vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
  15. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN ĐÁNH BẠC 1.1. Khái niệm tội đánh bạc và các dấu hiệu pháp lý. 1.1.1. Khái niệm tội đánh bạc. Theo từ điển tiếng việt của “Hoàng phê” thì đánh bạc được hiểu là chơi các trò chơi được thua bằng tiền [23, tr. 286]. Đánh bạc là Hành vi tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm theo việc được (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác). Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, tại Khoản 1 Điều 8 định nghĩa về tội phạm như sau: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” Tội đánh bạc, tại Điều 321 BLHS năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định như sau: “1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.00 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
  16. 9 a) Có tính chất chuyên nghiệp; b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên; c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; d) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.” Như vậy, theo quy định tại Điều 321 BLHS, tội đánh bạc được hiểu là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm đánh bạc Tội đánh bạc có các dấu hiệu pháp lý như sau: Khách thể của tội phạm Tội đánh bạc xâm phạm đến khách thể, đó là trật tự công cộng, nếp sống văn minh của xã hội [46, tr.485]. Mọi hành vi đánh bạc trái phép đều là hành vi vi phạm và những hành vi vi phạm pháp luật đều là tội phạm. Pháp luật nước ta nghiêm cấm hoạt động đánh bạc, tổ chức đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào và coi đây là hành vi xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, đây là nguyên nhân dẫn đến nhiều hành vi vi phạm và tội phạm khác trong xã hội gây mất trật tự trị an trong xã hội, ảnh hưởng rất nhiều tới đời sống của nhân dân. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội đánh bạc là người có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi do luật định [46, tr. 486], không phải là chủ thể đặc biệt. Như vậy người từ
  17. 10 đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo Điều 321 BLHS 2015. Tóm lại, nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội phạm đánh bạc. Nhận thức sâu sắc về cấu thành cơ bản, các dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc giúp cho công tác thực hành quyền công tố, xử lý tội phạm đánh bạc được chính xác, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội đánh bạc là những biểu hiện của nó ra bên ngoài thế giới khách quan, song do đặc điểm cấu thành tội phạm của loại tội này nên nhà làm luật quy định hai dấu hiệu trong mặt khách quan của nó là: Hành vi khách quan và điều kiện (yếu tố cấu thành tội danh) để xử lý hình sự đối với người thực hiện hành vi đánh bạc. Đánh bạc là nhiều người (ít nhất là từ hai người trở lên) cùng tham gia thực hiện hành vi đánh bạc, dưới các hình thức như: xóc đĩa, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, ba cây, bốn súc sắc, đỏ đen, cờ thế, chọi gà, đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử, bóng tay, bi a hoặc các hình thức khác; tham gia cá cược trong các môn thể thao giải trí như đua ngựa, bóng đá và mọi hình thức cá cược ăn tiền khác, mua bảng đề, ô số đề [46, tr.484] với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Người thực hiện hành vi đánh bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc khi có một trong các điều kiện sau: - Không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp (trái phép); - Được thua bằng tiền hoặc hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng trở lên; - Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại
  18. 11 Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Mặt chủ quan của tội phạm Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, có mối liên hệ biện chứng với mặt bên ngoài, tức mặt khách quan của nó. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan của tội đánh bạc, đó là dấu hiệu lỗi. Lỗi là trạng thái tâm lý của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả của nó dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi đánh bạc được thực hiện do lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi đánh bạc của mình là hành vi trái pháp luật, bị pháp luật cấm nhưng vẫn thực hiện nhằm động cơ, mục đích cá nhân. Như vậy có thể khẳng định: Tội đánh bạc là hành vi đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa, vai trò của thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét sử sơ thẩm vụ án đánh bạc. 1.2.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án đánh bạc. 1.2.1.1. Khái niệm quyền công tố, thực hành quyền công tố Trước khi tìm hiểu về khái niệm thực hành quyền công tố, chúng ta cần xác định được khái niệm “công tố”. Quyền công tố là khái niệm pháp lý gắn liền với chức năng của VKS. Khái niệm QCT đã được đề cập tại các bài báo, tạp chí chuyên ngành và các công trình nghiên cứu, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Công tố, theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp trước Tòa án” [36, tr.204]. Trong khi đó, Từ điển Luật học định nghĩa: “Quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người phạm tội” [5, tr.188].
  19. 12 Một số nhà nghiên cứu tiếp cận khái niệm QCT dưới góc độ rất rộng, có tác giả cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đều là THQCT, coi công tố không phải là chức năng độc lập của VKSND, mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật [33, tr.85-87] . Đây là quan điểm khá phổ biến trước khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của những quan điểm này là các điều luật quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, 1992 và một số điều luật trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Trong giai đoạn này, các văn bản pháp luật nói trên quy định chưa rõ ràng, chưa phân định được chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tôi cho rằng, nhận thức về QCT như trên là chưa thật sự chính xác, bởi đã đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật (nay là kiểm sát hoạt động tư pháp). Dù có mối liên hệ mật thiết với nhau, đan xen nhau, nhưng đây là hai chức năng riêng biệt của VKS, có nội hàm khác nhau, “Trong quá trình thực hiện, dù giữa hai chức năng này có một số nội dung đan xen, liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận được tính độc lập của chúng cả về nội dung lẫn phạm vi áp dụng” [38, tr.10]. Một số tác giả khác lại cho rằng, QCT là quyền của VKS khi xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật và nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân. QCT không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà là sự cáo buộc của Nhà nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế và luật hình sự [38, tr.82-88]. Chúng tôi cho rằng, việc tiếp cận QCT dưới góc độ như trên là quá rộng, xóa nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác, đồng nhất QCT với các quyền năng, nhiệm vụ khác của VKS. Hoạt động của VKS trong các lĩnh vực tố tụng dân sự, hành chính… là chức năng, nhiệm vụ của VKS nhưng không thuộc nội dung QCT, không phải mọi chức năng, nhiệm vụ của VKS đều là QCT. Ngược lại, một số tác giả lại có xu hướng thu hẹp khái niệm QCT. Có quan điểm cho rằng, QCT là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà [38, tr.11]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của VKS trong việc thực hiện QCT trong tố tụng hình sự và chỉ được thực thi ở giai đoạn xét xử.
  20. 13 Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn cho thấy, hoạt động truy tố, buộc tội tại phiên tòa chỉ là một trong số các quyền hạn của VKS khi thực hành QCT. Bên cạnh việc truy tố và buộc tội tại phiên toà, QCT còn được thực hiện trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, ngay từ khi Cơ quan điều tra (CQĐT) tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm. Việc nhận thức QCT như trên đã thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi và không phản ánh được đầy đủ bản chất của QCT. Ở Việt Nam, QCT luôn thể hiện là quyền lực công, quyền lực nhà nước. QCT gắn liền với bản chất giai cấp sâu sắc và là một bộ phận không thể tách rời với quyền lực nhà nước, được nhà nước sử dụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. QCT chính là sự buộc tội của nhà nước, phát sinh khi có tội phạm - tức hành vi nguy hiểm xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ xảy ra. Đó là quan hệ giữa một bên là nhà nước (bên có quyền lực, đứng ra buộc tội) và người phạm tội (là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự). QCT chỉ xuất hiện trong tố tụng hình sự, bởi nó gắn liền với chức năng buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. QCT xuất hiện từ khi có hành vi phạm tội xảy ra, được thể hiện dưới hình thức cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các hoạt động tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự, chứng minh hành vi phạm tội và tiến hành buộc tội trước Tòa án. Do đó, QCT chỉ chấm dứt khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp Quyền công tố đều kéo dài cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS), QCT có thể chấm dứt ở các giai đoạn tố tụng sớm hơn, ví dụ như các trường hợp cơ quan có thẩm quyền đình chỉ vụ án. Như vậy, quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước, do cơ quan có thẩm quyền (ở Việt Nam là Viện kiểm sát) thực hiện, nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà. Xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố. Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2