Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường và vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay
lượt xem 4
download
Luận văn Nnghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường năm 1993 được sửa đổi bổ sung năm 2005, huy động sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường và vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------- NGUYỄN THỊ HẢI HẠNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CẤP PHƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2007
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ------------- NGUYỄN THỊ HẢI HẠNH THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CẤP PHƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước pháp luật Mã số : 603801 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS HOÀNG THỊ KIM QUẾ HÀ NỘI - 2007
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP 4 LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG 1.1 Cơ sở lý luận - Luật bảo vệ môi trƣờng của Việt Nam hiện nay 4 1.1.1 Khái niệm môi trường 13 1.1.2 Khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật BVMT 14 1.1.2.1 Khái niệm thực hiện pháp luật BVMT 14 1.1.2.2 Hình thức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường 15 1.1.2.3 Chủ thể của pháp luật bảo vệ môi trường 23 1.1.2.4 Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường và cấp độ bảo vệ môi trường 28 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG Ở PHƢỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG 2.1 Hiện trạng môi trƣờng tại một số phƣờng ở Hà Nội 31 2.1.1 Hiện trạng môi trường ở Hà Nội 31 2.1.2 Hiện trạng môi trường ở 4 phường - Địa bàn nghiên cứu của luận văn 38 a. Phường Thượng Đình 38 b. Phường Quỳnh Mai 39 c. Phường Văn Chương 40 d. Phường Ô Chợ Dừa 41 2.2 Thực trạng thực hiện pháp luật BVMT tại một số phƣờng ở Hà Nội 41 2.2.1 Thực trạng thực hiện pháp luật BVMT ở 4 phường địa bàn nghiên 44 cứu của luận văn a. Phường Thượng Đình 53 b. Phường Quỳnh Mai 55
- c. Phường Văn Chương 56 d. Phường Ô Chợ Dừa 57 2.3 Những ƣu điểm đạt đƣợc: Tình hình chung chú ý tới 4 phƣờng 58 nghiên cứu chính 2.3.1 Những tồn tại – phân tích hạn chế, nguyên nhân 60 a. Trong việc ban hành, phổ biến pháp luật BVMT 60 b. Trong việc thực hiện pháp luật BVMT 63 c. Những bất cập trong các quy định pháp luật về Thẩm quyền của 66 chính quyền cấp phường 2.4 Vai trò của cộng đồng trong việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi 72 trƣờng 2.4.1 Khái niệm cộng đồng 72 2.4.2 Hình thức và quy mô cộng đồng 73 2.4.3 Việc sử dụng khái niệm cộng đồng ở Việt Nam gần đầy 73 2.4.4 Cơ cấu của cộng đồng đô thị Việt Nam 74 2.4.5 Khái niệm sự tham gia của cộng đồng 77 2.4.6 Vai trò của cộng đồng trong việc thực hiện pháp luật BVMT nhằm 79 cải thiện chất lượng môi trường ở cộng đồng 2.4.7 Tại sao cần có sự tham gia của cộng đồng trong vấn đề thực hiện 81 pháp luật BVMT 2.4.8 Các loại hình tham gia của cộng đồng 84 2.4.8.1 Tham gia trực tiếp 84 2.4.8.2 Tham gia gián tiếp 84 2.4.9 Tính hiệu quả từ việc tham gia của cộng đồng 84 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG.
- 3.1 Đánh giá chung 90 3.1.1 Rút ra từ thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật BVMT ở cấp phường 90 tại đô thị hiện nay 3.1.2 Rút ra từ vai trò của sự tham gia của cộng đồng 94 3.2 Đề xuất một vài biện pháp 95 3.2.1 Công tác xây dựng, ban hành, thực hiện pháp luật BVMT 95 3.2.2 Tăng cường và nâng cao hiệu quả của sự tham gia của cộng đồng 112 trong việc thực hiện pháp luật BVMT nhằm cải thiện chất lượng môi trường và phát triển bền vững KẾT LUẬN 116 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 117
- MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Môi trường hiện nay đang là vấn đề nóng bỏng của mọi quốc gia, dù đó là quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển. Sự ô nhiễm, suy thoái và những biến cố môi trường diễn ra ngày càng ở mức độ cao đang đặt con người trước những sự trả thù ghê gớm của thiên nhiên. Việt Nam đứng trong hàng ngũ của các quốc gia đang phát triển và cũng đang phải đối mặt với vấn đề môi trường. Môi trường đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên như: rừng, đất, biển, khoáng sản ... vốn giàu có, đa dạng và phong phú của nước ta đang ngày một cạn kiệt và giảm nhanh. Khằng định quyết tâm bảo vệ môi trường của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, Điều 29, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường”. Pháp luật bảo vệ môi trường chỉ thực sự có ý nghĩa khi được tôn trọng, tuân thủ trong cuộc sống, các quy định của pháp luật phải phù hợp với cuộc sống. Đành rằng, nếu chỉ có người dân tin tưởng, tôn trọng và tuân thủ pháp luật không thôi thì cũng chưa đủ để có thể đưa pháp lụât vào cuộc sống một cách toàn diện được, mà nó còn đòi hỏi từ phía Nhà nước, nơi đề ra và tổ chức thực thi pháp luật và ngược lại nếu chỉ có Nhà nước tổ chức thực hiện, phổ biến pháp luật mà không được sự đồng tình, đóng góp của người dân, cộng đồng thì việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường không thực sự hiệu quả, đặc biệt trong khi Việt Nam đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì dân”, đảm bảo nguyên tắc của phát triển bền vững. Lựa chọn đề tài: Xuất phát từ việc học tập, nghiên cứu chuyên ngành lý luận, trên cơ sở lý luận môn học xã hội học công dân và điều tra xã hội học – Chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật. Công việc hiện tại đang nghiên cứu mô hình cải thiện điều kiện môi trường với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững.
- Nắm bắt hiện trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở 4 phường của Hà Nội, từ đó đánh giá mức độ, tính hiệu quả, tính khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp để công tác thực thi pháp luật bảo vệ môi trường càng ngày khả thi hơn – Có nghĩa là pháp luật đi vào cuộc sống và cuộc sống trong pháp luật. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vai trò của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường. Tuy nhiên luận văn này được nghiên cứu trong thời điểm hiện nay thực trạng môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm, Việt Nam đang phải đối mặt với những vấn đề xuống cấp nghiêm trọng của môi trường, từ đó đề xuất giải pháp thực thi pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu thực trạng thực thi pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường năm 1993 được sửa đổi bổ sung năm 2005, huy động sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Khu vực địa lý của nghiên cứu (4 phường ở Hà nội) Giới hạn: thời gian từ năm nào đến năm nào? (Từ khi có PLBVMT) 5. CƠ SỞ KHOA HỌC Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà nghiên cứu, gây ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách của quốc gia, phổ biến quy trình thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài luận văn này là phương pháp trình bày và phân tích. Trước hết bài trình bày những lý thuyết và sau đó là phân tích thực trạng và chứng minh bằng số liệu thực tế. Phương pháp so sánh cũng được sử dụng trong bài luận văn này. Cụ thể là bài luận văn này trình bày trước hết về thực trạng vấn đề thực hiện pháp luật Bảo vệ môi trường tại ở cấp Phường tại Hà Nội, khái niệm và cách tiếp cận có sự tham gia của cộng đồng trong việc quản lý môi trường ở Hà Nội. Từ đó những kết quả phân tích cũng được đưa ra.
- Các số liệu minh hoạt trong bài luận văn được lấy từ những nguồn khác nhau như trong các báo cáo, các bài báo, các ấn phẩm công cộng ... Các số liệu thứ cấp này có thể không thực sự chính xác, do đó có tác giả cũng có những điều tra cơ bản thông qua các bảng hỏi hoặc phỏng vấn để phân tích kỹ hơn cũng như đánh giá được tác động của các kết quả đầu ra. 7. ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN Việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng là vấn đề được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Thực tế đó đã tạo ra những thuận lợi nhất định cho việc nghiên cứu đề tài. Đồng thời cũng chính là khó khăn lớn đối với tác giả khi nghiên cứu đề tài vì sẽ không tránh khỏi sự trùng lặp về vấn đề lý luận cơ bản đã được thừa nhận rộng rãi trong giới khoa học pháp lý. Mặc dù vậy dựa trên những nghiên cứu về mặt lý luận tìm hiểu thực tiễn có thể thấy những điểm mới của luận văn là: - Góp phần khẳng định những giá trị chung về bản chất, các yếu tố cơ bản để pháp luật bảo vệ môi trường có tính khả thi. - Đưa ra mô hình thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường tại cấp phường với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. - Tìm ra những bất cập của việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường hiện nay. - Điểm mới quan trọng của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực tế của việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường. Luận văn đưa ra một vài giải pháp để việc thực thi pháp luật bảo vệ môi trường huy động sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam và toàn cầu. 8. BỐ CỤC LUẬN VĂN Luận văn này bao gồm phần mở đầu và 3 chương: Chương 1:Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ở cấp phường và vai trò của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nâng cao vai trò cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường Cuối cùng là phần kết luận Tác giả mong nhận được những nhận xét cũng như những đóng góp quý báu để việc nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
- Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG. Môi trường có tầm quan trọng to lớn đối với đời sống con người và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và nhân loại. Ngày nay vấn đề môi trường là một trong những vấn đề toàn cầu, là thách thức to lớn đối với mỗi quốc gia và đối với toàn nhân loại. Giải quyết vấn đề toàn cầu đòi hỏi tiến hành hàng loạt biện pháp, với các phương tiện, công cụ khác nhau, trong đó pháp luật là một phương tiện cần thiết nhất. Xuất phát từ nhận thức này, từ năm 1993 Nhà nước ta đã ban hành Luật Bảo vệ môi trường và đến năm 2005 Luật bảo vệ môi trường mới được ban hành và thay thế Luật năm 1993. 1.1. Cơ sở lý luận - Luật bảo vệ môi trƣờng của Việt Nam hiện nay Trong các thập kỷ trước, khi sự phát triển kinh tế là động lực phát triển của các quốc gia thì tài nguyên, môi trường không phải là vấn đề quan trọng. Các Quốc gia sẵn sàng khai thác hết tài nguyên thiên nhiên để công nghiệp hoá, để phát triển và vấn đề dân số chưa đạt tới sự báo động. Chỉ đến khi phải đối mặt với sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự mất cân bằng sinh thái và những thiệt hại mà thiên nhiên gây ra thì vấn đề bảo vệ môi trường mới nổi lên như một thách thức xã hội. Vấn đề tất yếu là cần phải có những chế tài nhằm hạn chế, duy trì và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường. Luật Môi trường ra đời như là biện pháp giải quyết thách thức đó. Tại Việt Nam, Luật Môi trường phát triển tương đối muộn được chia thành hai thời kỳ trước và sau thời kỳ đổi mới điều này xuất phát từ yếu tố lịch sử cũng như vấn đề phát triển kinh tế xã hộị của quốc gia. Trước thời kỳ đổi mới năm 1986, vấn đề quan tâm lớn của Đảng và Nhà nước là nhằm phục hồi nền kinh tế xã hội sau chiến tranh thúc đẩy mọi nguồn
- lực sản xuất thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế xã hội. Trong thời kỳ này các biến động xấu của thiên nhiên do huỷ hoại môi trường chưa thể hiện ở mức cao, sự ô nhiễm tại các khu vực thành thị là không nhiều vì các phương tiện giao thông còn ít…Chính vì vậy, các quy định của pháp luật chỉ liên quan đến một số khía cạnh của bảo vệ môi trường xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước chứ chưa nhằm vào việc bảo vệ các yếu tố môi trường và nằm rải rác trong các văn bản pháp luật đơn hành. Sắc lệnh số 142/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 21/12/1949 quy định việc kiểm soát lập biên bản các hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ rừng có thể được coi là văn bản pháp luật sớm nhất đề cập đến vấn đề môi trường. Một số văn bản khác do Chính phủ tuy không chính thức điều chỉnh các vấn đề môi trường song cũng có thể coi là có liên quan đến vấn đề môi trường. Đó là Nghị quyết 36/CP ngày 11/3/1961 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất; Chỉ thị số 127/CP ngày 24/5/1971 của Hội đồng Chính phủ về công tác điều tra cơ bản tài nguyên và điều kiện thiên nhiên; Chỉ thị số 07/TTg ngày 16/01/1964 về thu tiền bán khoán lâm sản và thu tiền nuôi rừng; Nghị quyết số 183/CP ngày 25/9/1966 về công tác trồng cây gây rừng và đặc biệt là Pháp lệnh về bảo vệ rừng ban hành ngày 11/9/1972. Điều đáng chú ý nhất trong giai đoạn này là việc coi bảo vệ môi trường là đòi hỏi hiến địn, cụ thể được quy định tại điều 36 Hiến pháp 1980 “Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ cải tạo môi trường sống” ”[5]. Giai đoạn 1986 đến nay, khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70 và đầu những năm 80 đã dẫn đến những cuộc cải cách kinh tế sâu sắc bằng việc xóa bỏ cơ chế tập trung bao cấp và chuyển sang cơ chế thị trường có sự định hướng, điều này đã làm thay đổi nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Nền kinh tế thị trường cũng là nguyên nhân của nhiều hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực, trong số đó có suy thoái môi trường, vì chạy theo lợi nhuận, làm giàu bằng
- mọi giá nên các nguồn tài nguyên bị khai thác bừa bãi, hậu quả là môi trường bị suy thoái nghiêm trọng. Quá trình đô thị hóa dưới tác động của kinh tế thị trường diễn ra khá nhanh chóng cũng đã làm tăng sức ép môi trường ở các khu vực đô thị. Số lượng máy móc thiết bị, ô tô, xe máy tăng lên gấp nhiều lần so với 10 năm trước đó. Lượng khí thải từ các máy móc thiết bị này đã làm cho môi trường, nhất là môi trường đô thị bị ô nhiễm. Với những nguyên nhân trên đã làm cho vấn đề bảo vệ môi trường trở thành một thách thức lớn của xã hội. Trên cơ sở Hiến pháp 1992, ngày 27/12/1993 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật bảo vệ môi trường, với 7 chương, 55 điều. Luật này đã được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI kỳ họp thứ 8 sửa đổi và thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 – Đây là nguồn cơ bản nhất của pháp luật môi trường Việt Nam hiện hành. Như vậy sự ra đời của Luật bảo vệ Môi trường đã cho thấy tính toàn diện và hệ thống hơn, trong các quy định của Luật đã đề cập đến hầu hết các yếu tố và vấn đề của môi trường và bảo vệ môi trường từ chức năng nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường đến quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong khai thác, sử dụng và bảo vệ các yếu tố khác nhau của môi trường. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường cũng đã được ban hành để làm cơ sở pháp lý cho việc xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật về môi trường. Các quy định đã chú trọng tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường, đảm bảo tính tương đồng giữa các quy phạm pháp luật với các quy định trong công ước quốc tế. Luật bảo vệ môi trường là cơ sở lý luận quan trọng, đảm bảo hiệu quả hoạt động bảo vệ môi trường của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, người dân trong việc thực hiện pháp luật môi trường, có nghĩa là làm tốt việc bảo vệ môi trường chung của quốc gia. Các quy định pháp luật về môi trường đã chú trọng
- tới khía cạnh toàn cầu của vấn đề môi trường. Tính tương đồng giữa các quy phạm pháp luật môi trường Việt Nam với các quy định trong công ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã ký trước các quy định của pháp luật nội địa trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể. Hiệu lực của các quy định của pháp luật môi trường được nâng cao do Nhà nước sử dụng nhiều các văn bản luật. Đây là những điều kiện tiền đề rất thuận lợi cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ lĩnh vực môi trường. Chính vì lý do này nên các quy định của pháp luật môi trường đã phát huy được tác dụng của chúng trong thực tế. Để cụ thể hóa Luật bảo vệ môi trường, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 hướng dẫn thực hiện Luật bảo vệ môi trường và Nghị định số 81 ngày 09/8/2006 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ngoài Luật bảo vệ môi trường còn có các luật đơn hành về lĩnh vực khác, pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, nghị quyết, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, song có chứa đựng một số quy định về bảo vệ môi trường bao gồm: Luật khoáng sản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 20/3/1996 là đạo luật đơn hành khác mà chúng ta cần phải kể đến nếu xét ở góc độ bảo vệ môi trường. Điều 16 Luật khoáng sản quy định rõ các tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động khai khoáng phải thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Khai khoáng là một trong những hoạt động của con người có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Vì vậy, tuy được ban hnàh để điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên khoáng sản song Luật này chứa đựng khá nhiều các quy định về bảo vệ môi trường.
- Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân ban hành ngày 30/6/1989 cũng là văn bản pháp luật đơn hành có chứa nhiều quy định về bảo vệ môi trường. Bộ luật dân sự (điều 268, điều 275 và điều 720 là các quy phạm pháp luật môi trường. Các quy định trong các điều kể trên gắn việc sử dụng, định đoạt, sở hữu với nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Luật bảo vệ phát triển rừng năm 1991. Luật dầu khí năm 1993; 2000. Luật đất đai 1993; một số điều sửa đổi, bổ sung Luật đất đai 1998; 2000; 2001; Luật đất đai 2003. Luật tài nguyên nước 1998 Bộ luật hình sự 1999 quy định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi xâm hại các yếu tố của môi trường như tội làm ô nhiễm không khí, tội làm ô nhiễm đất, tội làm ô nhiễm nguồn nước ... ( tại chương XVII – Các tội phạm về môi trường) Luật thủy sản 2003 thay thế Pháp lệnh bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản 1989. Các văn bản dƣới luật: Pháp lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ hanh hành ngày 25/6/1996. Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật ngày 08/8/2001 (thay thế Pháp lệnh bảo vệ và kiểm dịch thực vật 1993) Pháp luệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003 Nghị quyết 246/HĐBT ngày 20/9/1985 về việc đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản sử dụng hợp lý tài nguyên bảo vệ môi trường. Nghị định số 23/HĐBT ngày 24/01/1991 ban hành điều lệ vệ sinh. Nghị định số 175/CP ngày 18/01/1994 hướng dẫn thi hành Luật môi trường; Nghị định số 143/2004/NĐ-CP ngày 12/7/2004 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Điều 14 Nghị định 175CP.
- Nghị ssịnh số 48/2002/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung danh mục động thực vật rừng quý hiếm ban hành kèm theo nghị định số 18/HĐBT ngày 17/01/1992. Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng (thay thế Nghị định số 17/HĐBT ngày 17/01/1992 và Nghị định số 77/CP ngày 29/11/1996) Nghị định 121/2004/NĐ-CP ngày 12/5/2004 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường (thay thế nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996). Bên cạnh các văn bản của Chính phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh cũng ban hành nhiều văn bản về môi trường. Chẳng hạn, Quyết định số 1604/QĐ/MTg ngày 22/9/1994 của Bộ trưởng Bộ khoa học công nghệ và môi trường về việc tăng cường trang thiết bị cho các trạm quan trắc môi trường; Thông tư 490/1998/TT-BKHCNMT của Bộ khoa học, công nghệ và môi trường hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án đầu tư; Thông tư số 02/2001/TT-BKHCNMT ngày 15/2/2001 về ban hành tiêu tuẩn các dự án công nghiệp kỹ thuật cao, sản xuất thiết bị viễn thông, xử lý ô nhiễm môi trường hoặc xử lý chế biến các chất thả thuộc Dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư ... là những văn bản có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của pháp luật môi trường. Như vậy, pháp luật bảo vệ môi trường là toàn bộ các quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền và nghĩa vụ của Nhà nước, của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. Các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường như đã được nêu ở trên – Trong đó quan trọng nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Bảo vệ môi trường vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ và trách
- nhiệm của tất cả các tổ chức và cá nhân. Nhà nước ta đã coi vấn đề bảo vệ môi trường là một trong những quyết sách quan trọng nhằm bảo đảm quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức, công dân trong đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 1. 1.1. Khái niệm môi trường “Môi trường” của một vật thể, hoặc một sự kiện là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới vật thể và sự kiện đó. Bất cứ một vật thể, một sự kiện nào cũng tồn tại và diễn biến trong một môi trường. Nói đến môi trường tức là nói tới môi trường của một vật thể, một sự kiện nhất định. Khái niệm chung như vậy về môi trường được cụ thể hóa đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu. Trong nghiên cứu về các cơ thể sống người ta quan tâm tới “Môi trường sống”, đó là tổng hợp các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của các cơ thể này. Đối với con người thì môi trường quan trọng nhất là “Môi trường sống của con người”, đó là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học, sinh học, xã hội bao quanh và có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của các cá nhân và cộng đồng con người. Thuật ngữ “Môi trường” thường được dùng một cách phổ biến để nói “môi trường sống của con người”. Lúc nói vấn đề môi trường của thời đại, chiến lược “môi trường” của quốc gia, chất lượng “môi trường” của địa phương ... là nói về môi trường sống của con người. Tùy theo nội dung nghiên cứu môi trường sống của con người, gọi tắt là môi trường, còn được phân thành môi trường thiên nhiên, môi trường nhân tạo và môi trường xã hội. Sự phân chia này chỉ để phục vụ nghiên cứu, phân tích các hiện tượng phức tạp trong môi trường.
- Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm phong phú. Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định, công viên, sông đào, hồ ao,các công trình thủy lợi, hệ thống đường giao thông (đường sắt, đường bộ), nhà máy, khói bụi và chất thải từ nhà máy ... ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức đoàn thể,... Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác. Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, bao gồm tất cả các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo... Trong khoa học môi trường, còn phân biệt môi trường theo nghĩa rộng và môi trường theo nghĩa hẹp. Môi trường khi hiểu theo một nghĩa rộng là tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội...Tóm lại, môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, là không gian sống của con người và các loài sinh vật, Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống
- và hoạt động sản xuất của con người, Môi trường là nơi chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình, Môi trường là nơi giảm nhẹ các tác động có hại của thiên nhiên tới con người và sinh vật trên trái đất. Môi trường hiểu theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các nhân tố môi trường thiên nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng sống của con người, không xem xét tài nguyên thiên nhiên trong đó. Theo quy định tại điều 1 Luật Bảo vệ Môi trường được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 và được sửa đổi ngày 29/11/2005 định nghĩa môi trường như sau “Bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và của thiên nhiên” [7].. Như vậy, theo định nghĩa này thì con người đã trở thành trung tâm trong mối quan hệ với tự nhiên. Môi trường được tạo thành bởi vô số các yếu tố vật chất. Trong số đó những yếu tố vật chất tự nhiên như đất, nước, không khí, ánh sáng, âm thanh, các hệ thực vật có ý nghĩa đặc biệt và quan trọng hơn cả. Những yếu tố này được coi là những yếu tố cơ bản của môi trường. Chúng hình thành và phát triển theo những quy luật tự nhiên vốn có và nằm ngoài khả năng quyết định của con người. Con người chỉ có thể tác động tới chúng ở trong chừng mực nhất định. Bên cạnh những yếu tố vật chất tự nhiên, môi trường còn bao gồm cả những yếu tố nhân tạo. Những yếu tố này do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của bản thân mình như hệ thống đê điều, các công trình nghệ thuật, các công trình văn hóa kiến trúc mà con người từ thế hệ này sang thế hệ khác dựng nên. Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người và sinh vật, đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước và của toàn
- nhân loại. Môi trường trong sạch, lành mạnh là điều kiện vô cùng cần thiết cho sức khỏe, cho việc duy trì và phát triển giống nòi của con người và sinh vật. Môi trường được giữ gìn tạo ra những tiền đề vật chất cần thiết, an toàn cho sự phát triển các ngành sản xuất – kinh doanh, giúp cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Môi trường hiện tại đang có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là những yếu tố mang tính tự nhiên như: nước, đất, không khí, hệ thực vật, hệ động vật. Tình trạng môi trường thay đổi theo chiều hướng xấu đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng như trong phạm vi mỗi quốc gia. Việc môi trường bị hủy hoại diễn ra do nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi yếu tố của môi trường chịu sự tác động của một hoặc một vài yếu tố khác nhau đồng thời cũng chịu sự tác động trực tiếp lẫn nhau. Trong số các nhân tố ảnh hưởng đến môi trường sống của con người cần phải kể đến việc gây ô nhiễm, việc đô thị hóa, phát triển công nghiệp, phá rừng, khai thác tài nguyên bừa bãi. Trước những nguy cơ đe dọa đến môi trường, vấn đề thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường ngày càng được chú trọng, nhằm hạn chế các hành động, hoạt động của con người tác động xấu đến môi trường. 1.1.2. Khái niệm và hình thức thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường 1.1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật BVMT Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường là hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân nhằm đưa các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường vào cuộc sống. Nói cách khác, đó là quá trình vật chất hoá, hiện thực hoá các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường. Như vậy thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường luôn là hoạt động có ý thức và có mục đích rõ ràng.
- 1.2.2.2. Hình thứn thực hiện pháp luật BVMT Về lý luận và thực tiễn, do Nhà nước ban hành nhiều loại quy phạm pháp luật khác nhau để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cơ bản khác nhau nên việc thực hiện pháp luật được tiến hành dưới nhiều hình thức. Khoa học pháp lý nước ta đã đưa ra bốn hình thức thực hiện pháp luật là tuân thủ pháp luật (hay tuân theo pháp luật), chấp hành pháp luật ( hay thi hành pháp luật), sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Cả bốn hình thức thực hiện pháp luật này quan hệ gắn bó với nhau và hiệu quả của chúng đều phụ thuộc vào bốn điều kiện cơ bản: trình độ phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội; mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật; sự trong sạch và tinh thông của bộ máy nhà nước và trình độ ý thức pháp luật của cá nhân, của các nhóm xã hội và của cả xã hội. Thứ nhất, tuân thủ pháp luật là tự kiềm chế mình để không thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm. Các quy phạm pháp luật ngăn cấm quy định những điều không được làm. Khi các chủ thể pháp luật có ý thức tự kiềm chế mình để không làm điều pháp luật cấm. Sự tự kiềm chế này phụ thuộc rất lớn vào trình độ văn hoá nói chung và trình độ ý thức pháp luật nói riêng của mỗi cá nhân. Nếu trình độ ý thức pháp luật của mỗi cá nhân cao thì cá nhân đó luôn luôn có ý thức tự kiềm chế mình để không thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Ngược lại khi trình độ ý thức pháp luật của cá nhân thấp thì sự kiềm chế một cách tự giác của cá nhân không thể diễn ra thường xuyên, thậm chí có lúc cá nhân đó cũng không thể tự kiềm chế mình được dẫn đến vi phạm pháp luật Thứ hai, chấp hành pháp luật là các chủ thể pháp luật thực hiện các nghĩa vụ pháp lý mà pháp luật đã quy định bằng những hành vi tích cực. Nghĩa vụ pháp lý là sự cần thiết phải xử sự theo đúng quy định của pháp luật nhằm đáp ứng lợi ích của Nhà nước, xã hội và các cá nhân khác trong những hoàn cảnh, điều kiện, tình huống cụ thể mà pháp luật đã dự liệu từ trước. Nghĩa vụ pháp
- lý được quy định trong các quy phạm pháp luật bắt buộc và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Các quy phạm pháp luật bắt buộc chỉ được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất thông qua những hành vi tích cực có ý thức tự giác của các chủ thể pháp luật. Nhà nước yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân không những thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình mà còn thực hiện các nghĩa vụ đó một cách đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất. Điều đó chỉ có thể đạt được khi có trình độ ý thức pháp luật cao của cá nhân, các nhóm xã hội và của toàn xã hội. Bất cứ hành vi nào trốn tránh nghĩa vụ pháp lý hoặc thực hiện nghĩa vụ pháp lý không đầy đủ đều bị coi là vi phạm pháp luật và chủ thể của nó phải bị nghiêm trị theo pháp luật. Thứ ba, sử dụng pháp luật là thực hiện các quyền mà pháp luật đã quy định trong giới hạn cho phép của pháp luật. Quyền pháp lý là khả năng mà pháp luật trao cho mỗi cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân được tiến hành những hành vi nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật khi họ ở vào những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà pháp luật đã trù tính từ trước. Quyền pháp lý được quy định trong các quy phạm pháp luật trao quyền (hay quy phạm pháp luật cho phép) và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế nhà nước. Nhà nước cũng yêu cầu các chủ thể pháp luật phải thực hiện các quyền pháp lý một cách đúng đắn, có nghĩa là chỉ được tiến hành những hành vi nhất định trong phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật. Và điều này cũng chỉ có thể đạt được khi tồn tại một trình độ ý thức pháp luật cao của cá nhân, các nhóm xã hội và của toàn xã hội. Bất cứ hành vi nào được thực hiện có ý thức mà vượt quá phạm vi, giới hạn cho phép của pháp luật đều bị coi là vi phạm pháp luật và chủ thể của nó phải bị xử lý theo pháp luật.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn