intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tố tụng tranh tụng và việc tiếp thu nó trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

24
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tiếp thu một số nội dung của tố tụng tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phục vụ công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tố tụng tranh tụng và việc tiếp thu nó trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HIỀN TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU NÓ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2005
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THU HIỀN TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU NÓ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ MÃ SỐ: 5.05.14 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - NĂM 2005
  3. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………………. 3 MỤC LỤC………………………………………………………………………………. 4 MỞ ĐẦU…………………………………………………………………....................... 7 Chương 1 : TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI………………………………………………………………………. 12 1.1. Khái niệm, đặc điểm tố tụng tranh tụng…………………….. 12 1.1.1. Khái niệm của tố tụng tranh tụng hình sự ............................................... 12 1.1.2. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng .............................................................. 20 Sự tham gia tích cực và ngang quyền của bên buộc tội và bên 1.1.2.a. bào chữa trước Toà.................................................................................... 20 Quyền lực được san sẻ giữa Thẩm phán, Luật sư, Công tố viên 1.1.2.b. và Bồi thẩm đoàn ...................................................................................... 21 1.1.2.c. Chứng cứ do các bên thu thập và đề xuất .................................................... 24 1.1.2.d. Thủ tục tố tụng phức tạp và phiên toà kéo dài ............................................. 25 1.1.2.e. Tố tụng tranh tụng không mong đợi sự hợp tác của bị cáo ........................... 27 1.2. Hệ tố tụng tranh tụng trên thế giới…………………............... 28 Lịch sử hình thành và sự phát triển của hệ tranh tụng trong 1.2.1. quá trình giải quyết vụ án hình sự…………………................. 28 Một số mô hình tố tụng tranh tụng trên thế 1.2.2. 35 giới……………… 1.2.2.a. Mô hình tố tụng tranh tụng ở Vương Quốc Anh……………….. 35 1.2.2.b. Mô hình tố tụng tranh tụng ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ………... 36 3
  4. 1.2.3. Tố tụng tranh tụng dưới góc độ so sánh với tố tụng thẩm vấn 38 1.2.4. Lý do sự phát triển của hệ tranh tụng…………………............ 42 Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở một số nước trên thế 1.2.5. 45 giới……… Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở Cộng hoà 1.2.5.a. 45 Pháp…………………... 1.2.5.b. Tiếp thu tố tụng tranh tụng ở Cộng hoà Liên bang Nga ............................... 49 Nội dung những vấn đề cần tiếp thu từ mô hình tố tụng 1.3. tranh tụng................................................................................................ 56 Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa 1.3.1. trong tranh tụng ....................................................................................... 56 1.3.2. Phân định rõ các chức năng buộc tội, gỡ tội và tài phán........................... 58 Chương 2 : TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM …………………...........…………………........... …………………..... 60 2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988 ........................................... 60 2.1.1. Pháp luật về tranh tụng ............................................................................ 60 2.1.2. Đánh giá chung về việc thực hiện tranh tụng ........................................... 69 2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 ..................................................... 70 2.2.1 Pháp luật về tranh tụng ............................................................................................... 70 2.2.2. Đánh giá chung về thực hiện tranh tụng .................................................. 75 2.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay............................................................... 80 2.3.1. Những điểm mới về mở rộng tranh tụng trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ..................................................................................... 80 Đánh giá chung về thực hiện tranh tụng từ năm 2003 đến 2.3.2. 83 nay ........................................................................................................... 4
  5. 2.4. Những vấn đề tồn tại về tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay .............................................................. 84 Chương 3 : SỰ CẦN THIẾT VÀ NỘI DUNG TIẾP THU CỦA TỐ TỤNG TRANH TỤNG TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM Ở VIỆT NAM 88 TRƢỚC YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ PHÁP ................................................................... 3.1. Sự cần thiết phải tiếp thu một số nội dung từ mô hình tố tụng tranh tụng vào xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Việt 86 Nam ......................................................................................................... 3.2. Những nội dung cần tiếp thu ................................................................... 93 3.2.1. Trong việc thực hiện chức năng buộc tội ............................................................. 93 3.2.2. Trong việc thực hiện chức năng gỡ tội ..................................................... 97 3.2.3. Trong việc thực hiện chức năng tài phán ................................................. 101 3.2.4. Trong trình tự tại phiên toà ...................................................................... 102 3.2.5. Trong nâng cao văn hoá pháp lý............................................................... 103 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 108 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 111 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trước yêu cầu đổi mới đất nước, cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Được Đảng và Nhà nước ta quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ngày 02.01.2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 08/NQ-TW về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới". Nghị quyết đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo và một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, trong đó nhấn mạnh việc mở rộng tranh tụng tại phiên toà "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...", "Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định" và "các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: Tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà". Bộ luật tố tụng hình sự được thông qua ngày 18.11.2003 tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá XI (có hiệu lực thi hành từ ngày 01.7.2004) là một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Bộ luật này đã được sửa đổi tương đối đồng bộ và toàn diện, phù hợp với những đổi mới về kinh tế và pháp luật ở nước ta hiện nay nên về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về trình tự, thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên toà hình sự. Đây là những cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà ở 6
  7. nước ta, góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đạt được nhiều kết quả trong sự nghiệp bảo vệ thành quả của cách mạng, giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc tổ chức phiên toà xét xử theo tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị, và theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003 bước đầu đã đạt được kết quả ở nhiều nơi. Công tác giải quyết án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt kết quả tốt. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử hiện nay, vẫn còn tồn tại những vấn đề sau: - Mặc dù vấn đề tranh tụng không còn quá mới mẻ, nhưng những nội dung liên quan đến tranh tụng và việc tiếp thu nó như thế nào trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam vẫn là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau và chưa có nhận thức thống nhất. - Chúng ta phải thừa nhận rằng cải cách tư pháp tiến hành còn chậm so với yêu cầu và đòi hỏi thực tế đặt ra. Mặc dù, Nghị quyết 08/NQTW đề ra nhiều giải pháp cải cách tư pháp và trong 3 năm tổ chức thực hiện chúng ta đã đạt được một số kết quả, nhưng Nghị quyết đó cũng chưa đề cập đầy đủ, toàn diện những vấn đề cơ bản về cải cách tư pháp. Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24.5.2005 của Bộ chính trị đã đưa ra Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020: và trong Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị đã khẳng định “Nâng cao chất lượng…tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp …”. So với yêu cầu và trước tình hình mới, "Tranh tụng" vẫn là một trong những vấn đề đang đặt ra trong cải cách tư pháp cần được hoàn thiện hơn. Vì vậy mà việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến tranh tụng tại phiên toà ở một số nước trên thế giới, đánh giá thực hiện tranh tụng tại phiên toà ở Việt Nam từ đó đưa ra những nội dung của tố tụng tranh 7
  8. tụng cần được chúng ta tiếp thu để phục vụ công cuộc cải cách tư pháp có ý nghĩa cả trên phương diện lý luận và phương diện thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu: Trong thời gian qua, tình hình nghiên cứu về tranh tụng đã được đề cập song đa số chỉ thể hiện trong các bài viết trên tạp chí pháp lý chuyên ngành. Những bài viết này chỉ dừng lại ở một số khía cạnh, góc độ nhỏ lẻ, cá biệt. Luận văn thạc sỹ luật học "Vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự" năm 1996 của Nguyễn Đức Mai, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật; luận văn thạc sỹ luật học "Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên toà hình sự sơ thẩm" năm 2003 của Nguyễn Hải Ninh, Trường đại học luật Hà Nội; đề tài nghiên cứu khoa học - Tranh tụng tại phiên toà - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn năm 2003 của Trường Đào tạo các chức danh tư pháp đều là những nghiên cứu có ý nghĩa nhưng được đề cập trong điều kiện nhận thức chung của chúng ta trước năm 2003, khi đó Bộ luật tố tụng hình sự chưa được sửa đổi. Nhìn chung, tình hình nghiên cứu về tranh tụng chưa nhiều và chưa có sự phân tích từ lý luận đến thực tiễn để rút ra những nội dung cơ bản mà chúng ta cần tiếp thu từ tố tụng tranh tụng trong công cuộc cải cách tư pháp. Vì vậy, khi nghiên cứu luận văn, chúng tôi không tham vọng là nghiên cứu tất cả những vấn đề của tố tụng tranh tụng mà chỉ đặt ra và giải quyết trên phương diện lý luận và những cơ sở thực tiễn để nhận thấy một số nội dung của tố tụng tranh tụng có thể được tiếp thu một cách hợp lý vào tố tụng thẩm vấn của nước ta trước yêu cầu cải cách tư pháp. 3. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu, phạm vi của luận văn: 8
  9. Cơ sở lý luận của luận văn này là: Chủ nghĩa Mác Lê nin - tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật tố tụng của một số nước trên thế giới và Việt Nam. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, tư duy logic để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Đề tài tập trung nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển cũng như đặc điểm của tố tụng tranh tụng nói chung và một số quốc gia nói riêng, xu hướng hoà nhập, giao thoa trong lĩnh vực tố tụng hình sự trên thế giới để tìm ra những ưu điểm nổi trội của hệ tố tụng này, đối chiếu với điều kiện ở Việt Nam để từ đó có được kết luận về định hướng và một số nội dung cần tiếp thu từ tố tụng tranh tụng vào giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. Tố tụng tranh tụng có nhiều vấn đề cần nghiên cứu, song trong giới hạn một luận văn cao học, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tố tụng tranh tụng với mục đích phục vụ công cuộc cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 4. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc tiếp thu một số nội dung của tố tụng tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự phục vụ công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam. Để đạt được mục đích đặt ra, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ sau: - Làm rõ những vấn đề về khái niệm của tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự, phân tích đặc điểm, lịch sử hình thành, lý do phát triển của nó. 9
  10. - Nghiên cứu một số mô hình tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới để thấy được những ưu điểm nổi trội của hệ tố tụng tranh tụng này. - Đánh giá thực trạng pháp luật về tranh tụng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam để thấy được những tồn tại trong việc thực hiện tranh tụng, tìm ra sự cần thiết và từ đó xác định cụ thể những nội dung nào cần tiếp thu từ tố tụng tranh tụng để thực hiện thành công cải cách tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình sự ở nước ta. 5. Cơ cấu của luận văn: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trong luận văn cao học với cơ cấu gồm phần mở đầu, 3 chương và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. 6. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn của luận văn: Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về " Tố tụng tranh tụng và việc tiếp thu nó trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam". Thông qua đó làm sáng tỏ những cơ sở lý luận trong quan điểm đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong việc mở rộng tranh tụng ở Việt Nam. Dựa trên sự đánh giá thích hợp, phân tích một cách khoa học, luận văn đã chỉ ra những tồn tại trong quy định về tranh tụng của pháp luật cũng như việc áp dụng nó trong thực tế để từ đó đưa ra những nội dung phù hợp cần tiếp thu từ mô hình tố tụng tranh tụng vào giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam để có những bước đi tiếp theo trên lĩnh vực tố tụng hình sự trong công cuộc Cải cách tư pháp. 10
  11. Chương 1 TỐ TỤNG TRANH TỤNG VÀ VIỆC TIẾP THU Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM TỐ TỤNG TRANH TỤNG. 1.1.1. Khái niệm tố tụng tranh tụng hình sự: Tố tụng hình sự và các giai đoạn của nó được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự của mỗi nước. Ở Việt Nam, các giai đoạn của tố tụng hình sự được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự, theo đó quá trình giải quyết vụ án hình sự gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố , xét xử và thi hành án. Khác với quan điểm của một số nước thuộc hệ thống pháp luật Anh - Mỹ cho rằng tố tụng hình sự chỉ bao gồm có giai đoạn xét xử vụ án hình sự tại phiên toà, quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng như Liên xô trước đây cho rằng quá trình giải quyết vụ án hình sự có nhiều giai đoạn được bắt đầu từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo và tố giác về tội phạm đến khi có bản án hoặc quyết định của Toà án có hiệu lực và được thi hành trong thực tế. Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội là nhằm giải quyết nhiệm vụ của các giai đoạn tố tụng khác nhau, nhưng đều hướng tới mục đích là giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện. Có thể nói, “Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật” [38, tr.13]. Dựa vào các đặc điểm của tố tụng hình sự, trên thế giới hiện đang tồn tại hai hệ tố tụng cơ bản: Tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn (xét hỏi). 11
  12. Hai loại tố tụng hình sự này khác nhau ở đặc trưng nổi bật là: Tố tụng tranh tụng – mang đặc điểm tố tụng đối kháng, còn tố tụng thẩm vấn là tố tụng không đối kháng hay không tranh tụng [9, tr.19]. Trong khoa học pháp lý, khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự được hiểu theo hai nghĩa khác nhau: Quá trình tranh tụng (cuộc tranh tụng) và nguyên tắc tranh tụng. Quan điểm cho rằng, quá trình tranh tụng hay cuộc tranh tụng được bắt đầu muộn hơn thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự và kết thúc sớm hơn thời điểm kết thúc của nó, quan điểm khác lại cho rằng qúa trình tranh tụng bắt đầu cùng với thời điểm bắt đầu của quá trình tranh tụng. Với quan điểm cho rằng quá trình tranh tụng được bắt đầu cùng với thời điểm bắt đầu của quá trình tố tụng hình sự, nghĩa là từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, quan điểm này chưa đủ sức thuyết phục vì vào thời điểm đó chưa có sự buộc tội nào của cá nhân hoặc Nhà nước do chưa có đối tượng bị buộc tội vì chưa phát hiện ra ai là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Sự buộc tội trong tố tụng hình sự chỉ xuất hiện khi thoả mãn điều kiện là nhằm vào một đối tượng cụ thể, không thể tồn tại sự buộc tội mà không xác định đối tượng. Chỉ khi xuất hiện sự buộc tội của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với một đối tượng là cá nhân cụ thể (ở một số nước có thể là pháp nhân) hoặc khi có biện pháp áp dụng từ phía Nhà nước làm hạn chế quyền của chủ thể bị áp dụng (ví dụ: bị tạm giữ), thì kể từ thời điểm này ở phía người bị buộc tội (bên bị buộc tội) hoặc người bị áp dụng biện pháp hạn chế quyền mới xuất hiện sự bào chữa để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chống lại sự buộc tội hoặc hạn chế quyền đó. Như vậy, cuộc tranh tụng chỉ có thể bắt đầu khi xuất hiện hai bên có quan điểm đối lập nhau trong tố tụng hình sự. Đó là 12
  13. bên buộc tội và bên bào chữa với hai chức năng tương ứng là chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội. Theo nghĩa đầy đủ thì tranh tụng chính là sự kiện cáo nhau. Đó là “Tranh luận giữa hai bên có lập trường tương phản với nhau, yêu cầu Toà án làm trọng tài phân xử” [24, tr.1238]. Như vậy, trong tố tụng hình sự, quá trình tranh tụng được thể hiện tập trung, rõ nhất trong phiên xét xử vụ án và gắn liền với chức năng tài phán. Tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, dưới sự điều khiển của Chủ toạ phiên toà, với sự tham gia đầy đủ của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa, hoạt động buộc tội, bào chữa và xét xử được thực hiện. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án là văn bản pháp lý có giá trị bắt buộc kết thúc quá trình tranh tụng giữa các bên. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào phần quyết định của cấp có thẩm quyền về nội dung huỷ án mà quá trình tranh tụng có thể được tiến hành lại ở các mức độ khác nhau. Tranh luận được hiểu là “Bàn cãi để tìm ra lẽ phải” [25, tr.1024]. Tranh luận là một hoạt động có thể diễn ra trong một khoảng thời gian không xác định, việc kết thúc tranh luận phụ thuộc vào các chủ thể tham gia tranh luận, khi lẽ phải được xác định [50, tr.9]. Cuộc tranh luận về vụ án hình sự có thể được tiến hành theo các quy định về trình tự, thủ tục của pháp luật tố tụng hình sự khi Toà án là người đứng giữa hai bên trong tố tụng hình sự làm trọng tài phân xử và ra phán quyết cuối cùng có giá trị pháp lý bắt buộc kết thúc quá trình tranh luận vụ án. Sự tranh luận trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng có thể được tiến hành dưới các hình thức khác không phụ thuộc vào các giai đoạn tố tụng và không bị bắt buộc phải tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Nó có thể được tiến hành và được thể hiện dưới hình thức họp rút kinh nghiệm, trao đổi ý kiến giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, trong hội 13
  14. thảo khoa học, giữa các cá nhân… chúng được diễn ra với không gian và thời gian tuỳ nghi theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể nào quan tâm đến vụ án. Thậm chí nó có thể được diễn ra sau khi bản án đã được chấp hành xong. Hình thức, mức độ, phạm vi của những cuộc tranh luận nêu trên là khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích của các chủ thể tham gia tranh cãi. Đây không phải là quá trình tranh tụng trong tố tụng hình sự mà là sự tranh luận ở nghĩa chung nhất. Tóm lại, quá trình tranh tụng bắt đầu muộn hơn và kết thúc sớm hơn thời điểm của quá trình tố tụng hình sự, nó chỉ bao gồm các hoạt động và các hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm thực hiện các chức năng tố tụng cơ bản: Buộc tội, bào chữa và tài phán. Trong tố tụng hình sự còn có những hoạt động và hành vi tố tụng của các chủ thể nhằm thực hiện các chức năng nhiệm vụ khác của tố tụng hình sự như phòng ngừa tội phạm, tuyên truyền pháp luật, giáo dục cải tạo phạm nhân, nhưng những hành vi này không nằm trong giới hạn của quá trình tranh tụng [46, tr.15]. Nguyên tắc tranh tụng: Theo từ điển tiếng Việt “ nguyên tắc” là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm [25, tr.694]. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là “tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó [38, tr.45]”. Trong khoa học pháp lý, theo nghĩa chung nhất thì nguyên tắc của pháp luật là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung và hiệu lực của pháp luật [8, tr.245]. Nguyên tắc của tố tụng hình sự là những phương châm, những định hướng chi phối và quyết định toàn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự hoặc một số giai đoạn tố tụng hình sự và mang tính chất định hướng cho mọi hoạt động và hành vi tố tụng [32, tr.375]. 14
  15. Theo các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ thì nguyên tắc tranh tụng được coi là cơ sở của tố tụng hình sự; còn theo quan điểm Ba Lan thì nó là nguyên tắc tổ chức và là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; và được xác định là nguyên tắc của tố tụng theo quan điểm của các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Đức trước đây [46, tr.46]. Mặc dù được thừa nhận ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tranh tụng chính là phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của tố tụng hình sự là nhằm giải quyết vụ án hình sự khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác, đúng pháp luật. Nó bảo đảm cho các chủ thể có thể thực hiện có hiệu quả chức năng của mình trong tố tụng hình sự, đặc biệt là ở giai đoạn xét xử vụ án. Ta có thể thấy rõ, không những tranh tụng thể hiện bản chất dân chủ và nhân đạo của tố tụng hình sự mà còn là cơ sở để xác định địa vị tố tụng, vị trí, vai trò và chức năng của các chủ thể tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng. Như vậy nếu chỉ coi tranh tụng là một phương pháp nhằm thực hiện mục đích xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự mà không coi tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự là một thiếu sót. Việc khẳng định tranh tụng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự. Chính vì vậy, nguyên tắc tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu. Tại Điều 10 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10.12.1948 ghi nhận: "Mọi người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công khai trước một Toà án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Toà". Mặc dù với những mức độ khác nhau, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ thể nhưng nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi quá trình giải quyết vụ án hình sự phải được tiến hành dưới hình thức tranh luận, phản bác công khai 15
  16. các quan điểm giữa các bên về vụ án hình sự. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi sự phân định rõ ràng ba chức năng: Buộc tội, bào chữa và tài phán thuộc các bên tương ứng – Bên buộc tội, bên bào chữa và Toà án. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng hình sự không chỉ được ghi nhận ở một điều luật cụ thể mà nó được thể hiện và cụ thể hoá trong nhiều quy phạm pháp luật tố tụng hình sự có liên quan, thống nhất với nhau để tạo thành một chế định pháp lý hoàn chỉnh xuyên suốt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự. Cần khẳng định: Nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, định hướng cho các chủ thể trong hoạt động tố tụng nhằm thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Từ nội dung của khái niệm tố tụng hình sự và nguyên tắc tranh tụng ta có thể rút ra định nghĩa tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là một loại hình tố tụng hình sự mà ở đó khi yêu cầu Toà án làm trọng tài phân xử, các bên phải tự mình đưa ra chứng cứ, lý lẽ và được tranh cãi với nhau về những chứng cứ, lý lẽ đó. Nói cách khác tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự là loại hình tố tụng hình sự mà trong đó các bên tham gia vào quá trình xác định sự thật vụ án có lợi ích đối lập nhau, địa vị tố tụng ngang bằng nhau và phán quyết của Toà án dựa trên cơ sở tranh tụng giữa các bên tại phiên toà. Trong giai đoạn điều tra, đã có một số yếu tố của tranh tụng cùng với sự xuất hiện của bên buộc tội và bên bào chữa, tuy nhiên những đặc điểm của tranh tụng chỉ có đủ khi xuất hiện chức năng tài phán của phía trọng tài. Như vậy, đặc điểm, tính chất của tranh tụng chỉ có đủ trong phiên toà xét xử. Về hình thức, tranh tụng tại phiên toà là hình thức tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định pháp luật của bên buộc tội và bên bào chữa trước Toà án. Về nội dung tranh tụng là quá trình chứng minh hoặc phủ nhận tính hợp pháp của nội dung quyết định buộc tội. Tất cả mọi hoạt động của các chủ thể ở 16
  17. phiên toà đều tập trung kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của từng nội dung trong cáo trạng truy tố. Trong tố tụng hình sự giai đoạn xét xử được coi là giai đoạn trung tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm lại có vai trò quan trọng nhất bởi vì toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem xét và quyết định tại giai đoạn này. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Trong đó, “Toà án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử bằng phiên toà nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định” [38, tr.310]. Việc xét xử vụ án hình sự có thể trải qua nhiều giai đoạn khác nhau (xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm…). Tuy nhiên đây không phải là các giai đoạn mà mỗi vụ án hình sự đều phải trải qua một cách đầy đủ và đúng trình tự. Duy nhất chỉ có giai đoạn xét xử sơ thẩm là giai đoạn bắt buộc đối với quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Tại các phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia đầy đủ nhất của tất cả các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa cũng như các chủ thể khác tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên xét xử này các chức năng tố tụng cơ bản được phân định rạch ròi: Buộc tội, gỡ tội, và tài phán. Cũng chỉ tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền ngang nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình khi tranh tụ ng trước Toà án công bằng. Vì phiên toà thường ghi âm, ghi hình, nên trong hệ tranh tụng, với mục đích xem xét lại việc tuân thủ các quy tắc tố tụng, các Thẩm phán phúc thẩm sẽ xem lại (nghe lại) toàn bộ diễn biến phiên toà và có thể huỷ án nếu có sự vi 17
  18. phạm tố tụng. Trong trường hợp có kháng cáo, kháng nghị với lý do không phải từ thủ tục tố tụng, thì chủ thể kháng cáo, kháng nghị có trách nhiệm chỉ ra rằng trong phiên toà xét xử sơ thẩm có sự sai lầm trong việc thực thi công lý, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật hoặc chứng minh được rằng chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên toà sơ thẩm không có quan hệ nhân quả với phán quyết của Bồi thẩm đoàn. Quan điểm là căn cứ cho kháng cáo, kháng nghị thường do một bên đưa ra với yêu cầu được Toà án xem xét lại. Đó là những đề nghị liên quan đến chức năng tài phán của Toà án chứ không phải là quan điểm đưa ra để tranh luận với bên có lập trường tương phản. Ngay khi phiên toà phúc thẩm có được thiết lập thì nội dung của phiên toà cũng chỉ xoay quanh những vấn đề bị kháng cáo, kháng nghị và chủ yếu do các chủ thể có kháng cáo, kháng nghị trình bày với toà. Trong phiên toà chỉ có sự có mặt của chủ thể có kháng cáo, kháng nghị và có thể có một số chủ thể khác có liên quan (nhưng không bị bắt buộc). Như vậy, trong phiên toà phúc thẩm, sự tranh luận (nếu có) chỉ tồn tại một cách phiến diện, được xác định ở một góc độ hoặc một khía cạnh nào đó chứ không phải toàn bộ vụ án hình sự và tính tranh tụng không được thể hiện với đầy đủ những đặc điểm của nó. Mặc dù, nguyên tắc tranh tụng được coi là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, định hướng cho các chủ thể trong hoạt động nhằm thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nhưng rõ ràng nguyên tắc tranh tụng được thể hiện một cách đầy đủ nhất ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nó xác định rõ vai trò và vị trí đặc biệt của Toà án với tố tụng tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Toà án phải tạo mọi điều kiện mà pháp luật cho phép để các bên có thể phát huy hết tính chủ động và tích cực khi tham gia giải quyết vụ án hình sự. Là chủ thể chính trong việc đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên các chứng cứ của các chủ thể khác xuất trình tại phiên toà, ở một mức độ cần thiết Toà án phải tham gia vào quá 18
  19. trình tranh tụng để góp phần làm rõ các chứng cứ và tình tiết về vụ án. Tuy nhiên, Toà án không được để chủ thể nào bị động khi tham gia tranh tụng bằng cách làm thay chức năng của họ và ngược lại không được để quá trình tranh tụng diễn ra theo hướng một chiều theo ý chí chủ quan của bất kỳ chủ thể tham gia phiên toà nào khác. Tất cả những phân tích trên đây cho thấy: Chỉ có ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nguyên tắc tranh tụng mới được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện nhất. 1.1.2. Đặc điểm của tố tụng tranh tụng trong giải quyết vụ án hình sự: Về bản chất, Tranh tụng trong tố tụng hình sự là một quá trình thể hiện sự cọ sát các quan điểm lập luận của các bên có lợi ích đối lập nhau khi tham gia vào quá trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án [46, tr.20]. Tố tụng tranh tụng có những đặc điểm sau: 1.1.2.a. Sự tham gia tích cực và ngang quyền của bên buộc tội và bên bào chữa trước Toà. Tranh tụng bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và đối lập với nó là chức năng gỡ tội. Bên buộc tội gồm: Công tố viên, người bị hại, nguyên đơn dân sự và những người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Bên bào chữa gồm: Người bị buộc tội, người bào chữa, bị đơn dân sự và người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người này. Trong suốt quá trình tranh tụng, bên buộc tội và bên bào chữa liên tục trao đổi với nhau những lập luận, chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. “Tố tụng tranh tụng dành một vị trí đặc biệt cho lợi ích các bên. Lợi ích của xã hội được đặt xuống hàng thứ yếu” [18, tr.3]. Có thể coi tố tụng tranh tụng là một dạng tố tụng đặc biệt diễn ra tại Toà án để xử lý các tranh chấp giữa ít nhất là hai bên. Tranh chấp do các bên “kiểm soát”, nghĩa là các bên xác định tranh chấp, xác định các vấn đề phải được 19
  20. quyết định và mỗi bên đều có cơ hội trình bày phần tranh luận của mình tại toà [18, tr.40]. Như vậy, tố tụng tranh tụng thực sự tạo ra cơ hội cho các bên, bên buộc tội và bên bào chữa có một vị thế ngang nhau trong việc điều tra để xác định sự thật khách quan của vụ án và bảo vệ quan điểm của mình trước Toà án. Sự ngang bằng này được thể hiện ở địa vị tố tụng là các bên tham gia vào quá trình giải quyết vụ án và có được những phương tiện tương ứng mà pháp luật dành cho họ như sự bảo đảm về khả năng trong việc thực hiện quyền của mình. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền điều tra, thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng để phản bác lại quan điểm của phía đối phương và khẳng định cho lý lẽ của mình trước toà. Những chứng cứ và lý lẽ hợp pháp được Toà án chấp nhận và là căn cứ cho phán quyết cuối cùng. Như vậy, “Tố tụng tranh tụng để cho bên buộc tội vận dụng hết khả năng của mình để buộc tội một kẻ trước Toà cũng như dành cho bên bào chữa những khả năng cao nhất để thực hiện chức năng gỡ tội hoặc giảm nhẹ tội” [36, tr.240]. Đây là đặc điểm quan trọng của hệ tố tụng tranh tụng. 1.1.2.b Quyền lực được san sẻ giữa Thẩm phán, Luật sư, Công tố viên và Bồi thẩm đoàn. Với mục đích của hệ thống tranh tụng là hạn chế đến mức thấp nhất sự can thiệp của những người có quyền quyết định đối với vụ án để đảm bảo cho các thủ tục tố tụng được tiến hành một cách công bằng theo cách các bên tranh chấp có quyền trình bày về vụ án mà không bị sự lấn át của bên kia [18, tr.28] nên trong tố tụng tranh tụng không có ai chiếm vai trò tuyệt đối về quyền lực, mà có sự chia sẻ quyền lực giữa công tố viên - đại diện cho bên buộc tội, Luật sư - đại diện cho bên bào chữa, Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà và Bồi thẩm đoàn. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2