intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:120

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và các quy định của pháp luật liên quan đến tội hủy hoại rừng. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xuất phát từ thực trạng, số liệu thực tiễn xét xử về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng tỏ các vấn đề về định tội danh, quyết định hình phạt khi xét xử tội hủy hoại rừng để tìm ra những hạn chế,... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN VÂN TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN VÂN TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS TRẦN VĂN LUYỆN HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu thống kê, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính thực tiễn, chính xác, trung thực và tin cậy. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác, tôi đã hoàn thành tất cả các môn học theo chương trình và thực hiện tất cả các nghĩa vụ về tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại Học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Tác giả luận văn Hoàng Văn Vân
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt Danh mục các bảng thống kê, biểu đồ MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM................................................... 6 1.1. Nhận thức chung về tội phạm hủy hoại rừng ......................................... 6 1.1.1. Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng ............................................................. 6 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng trong luật hình sự ................ 13 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quy phạm pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng............................................................... 16 1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985 ...................................................................................... 16 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1985 đến trước khi ban hành BLHS năm 1999 ...................................................................................... 18 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành BLHS năm 1999 đến nay ................................ 20 1.3. Phân biệt tội hủy hoại rừng với một số tội phạm khác......................... 22 1.3.1. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng theo quy định tại Điều 175 BLHS ............................. 22 1.3.2. Phân biệt tội hủy hoại rừng với tội vi phạm các quy định về quản lý rừng theo quy định tại Điều 176 BLHS .................................................... 27 1.4. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật một số nước quy định về tội hủy hoại rừng .......................................... 28 1.4.1. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự Liên Bang Nga .................................................................................... 28 1.4.2. Nghiên cứu so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ................................................... 30 Kết luận Chương 1 .............................................................................................. 32 Chương 2: TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ......................................................... 34
  5. 2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng và đường lối xử lý hình sự đối với tội hủy hoại rừng theo Điều 189 Bộ luật hình sự năm 1999............................. 34 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội hủy hoại rừng quy định tại Điều 189 BLHS ....................................................................................... 34 2.1.2. Đường lối xử lý tội hủy hoại rừng ............................................................ 43 2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................................................ 52 2.2.1. Khái quát chung về tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 52 2.2.2. Kết quả hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk về tội hủy hoại rừng ........................................................................................... 55 2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân trong thực tiễn xét xử tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk........................................ 58 2.3.1. Hạn chế thiếu sót khi xét xử trong trường hợp có tình tiết định khung hình phạt .................................................................................................. 58 2.3.2. Hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạt........................................... 73 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................. 83 Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 86 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG .................................... 87 3.1. Nhu cầu và quan điểm hoàn thiện các quy định pháp luật về tội hủy hoại rừng và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ...................... 87 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật quy định về tội hủy hoại rừng .................. 96 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự......... 96 3.2.2. Kiến nghị sửa thông tư liên tịch số 19 hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo về rừng và quản lý lâm sản ....................................................... 97 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng ................................................................................................ 98 Kết luận Chương 3 ............................................................................................ 104 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 107 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 111
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự TTLT: Thông tư liên tịch
  7. DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ, BIỂU ĐỒ Số hiệu bảng, Tên bảng, biểu đồ Trang biểu đồ Bảng 2.1. Thống kê diện tích rừng của tỉnh Đắk Lắk bị phá giai đoạn 2009 - 2014 55 Bảng 2.2. Kết quả xét xử sơ thẩm tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014 56 Bảng 2.3. Kết quả xét xử phúc thẩm tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014 58 Biểu đồ 2.1. Thống kê vụ án phạm tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2009 - 2014 55
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với thành tựu chung đó là hệ thống pháp luật hình sự nước ta ngày càng tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các quy định cũng từng bước hoàn thiện và phát triển, trong đó có các quy định tội phạm về môi trường nói chung và tội hủy hoại rừng nói riêng. Từ xưa đến nay, rừng được xem là lá phổi của thế giới, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, giữ cân bằng sinh thái, môi trường, ổn định khí hậu toàn cầu, góp phần ngăn chặn, hạn chế hậu quả khốc liệt do thiên tai gây ra. Mặc dù rừng có vị trí vai trò quan trọng như vậy nhưng hiện nay tình trạng chặt, đốt phá, hủy hoại rừng đã, đang và diễn biến ngày càng phức tạp, gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, tiềm ẩn những nguy cơ làm suy vong hệ sinh thái trong hiện tại cũng như trong tương lai, làm mất cân bằng sinh thái, đa dạng sinh học, ảnh hưởng đến môi trường sống của con người, vấn đề phát triển kinh tế, xã hội trên toàn thế giới, từng khu vực nói chung và từng quốc gia trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, nếu như trước đây với 3/4 diện tích là rừng thì hiện nay đã suy giảm nhiều, riêng địa bàn tỉnh Đắk Lắk là tỉnh có diện tích rừng lớn nhất cả nước, nhưng hiện nay tình trạng chặt phá, đốt rừng, hủy hoại rừng vẫn diễn biến phức tạp, trong giai đoạn 2009 - 2014 trên địa bản tỉnh đã phát hiện 173 vụ vi phạm luật bảo vệ và phát triển rừng [37] trong đó số vụ án đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo thống kê của Văn phòng - Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk là 49 vụ, diện tích rừng bị lấn chiếm trái phép theo thống kê của Cục kiểm lâm tỉnh khoảng 12.000 ha [37]. Trên thực tế, những hành vi hủy hoại rừng vẫn diễn ra và ngày càng gia tăng, với những hậu quả ngày càng nghiêm trọng, tình hình hủy hoại rừng vẫn còn tiếp diễn ở nhiều nơi, trên địa bàn tỉnh vẫn còn tồn tại một số “điểm nóng” về hủy hoại rừng như: Vùng biên giới, các huyện Ea Súp, Ea H’Leo, 1
  9. Krông Bông, M’đrắk, Buôn Đôn. Việc điều tra, thống kê phân loại các đối tượng hủy hoại rừng đã được thực hiện nhưng chưa xử lý, giải quyết triệt để, tình trạng đốt, chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép diễn biến phức tạp mặc dù cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có sự kiểm tra, giám sát, thực hiện các biện pháp ngăn chặn, đấu tranh cũng như các quy định các biện pháp từ xử phạt vi phạm hành chính đến truy cứu trách nhiệm hình sự. Kết quả thực hiện Chỉ thị số 08/2006/CT-TTg ngày 08/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép; Chỉ thị số 12/2003/CT-TTg ngày 16/5/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển rừng; Chỉ thị 1685/2011/CT-TTg ngày 27/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng và chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã thu được nhiều kết quả, song vẫn tồn tại không ít những khó khăn, vướng mắc trong việc thi hành pháp luật hình sự cũng như các quy định của pháp luật chuyên ngành trong việc phát hiện, xử lý kịp thời, đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi tội phạm hủy hoại rừng, góp phần vào công cuộc bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá của đất nước. Trước tình trạng diễn biến phức tạp, mạnh mẽ của những hành vi hủy hoại rừng trong khi vấn đề áp dụng pháp luật, chế tài hình sự đối với loại tội phạm này còn hạn chế, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật, phương hướng hoàn thiện pháp luật liên quan góp phần đấu tranh phòng ngừa, xử lý tội phạm hủy hoại rừngtrên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)”làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam ở cấp độ luận văn và bài viết như: Luận văn Thạc sĩ luật học “Hoạt động phòng ngừa tội phạm hủy hoại rừng của lực lượng cảnh sát nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” của tác giả Nguyễn Mạnh Long, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2013; 2
  10. Luận văn Thạc sĩ luật học “Tội hủy hoại rừng” trong luật hình sự Việt Nam của tác giả Lê Thị Phương Minh, Hà Nội, năm 2013 v.v. Các công trình đã nghiên cứu, khái quát một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng, nhưng nghiên cứu ở góc độ phòng ngừa tội phạm hoặc tội phạm học, không nghiên cứu áp dụng ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chưa có công trình nghiên cứu về đề tài tội hủy hoại rừng. Do vậy, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ, rõ ràng, để có luận cứ khoa học cho việc đưa ra những kiến nghị, các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp góp phần đấu tranh, phòng chống, ngăn ngừa, xử lý có hiệu quả tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu:Những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Các quy định của BLHS năm 1999 và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng, trên cơ sở số liệu thực tiễn về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong giai đoạn 2009 - 2014. 4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích của đề tài: Tập trung làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý và các quy định của pháp luật liên quan đến tội hủy hoại rừng. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xuất phát từ thực trạng, số liệu thực tiễn xét xử về tội hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm sáng tỏ các vấn đề về định tội danh, quyết định hình phạt khi xét xử tội hủy hoại rừng để tìm ra những hạn chế, thiếu sót và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội hủy hoại rừng và pháp luật chuyên ngành liên quan, nâng cao hiệu quả, chất lượng xét xử của Tòa án cũng như góp phần trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3
  11. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận liên quan đến tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam như: Tìm hiểu lịch sử hình thành, phát triển của các quy phạm pháp luật về tội hủy hoại rừng; các dấu hiệu pháp lý đặc trưng; so sánh tội hủy hoại rừng với các tội phạm khác có liên quan. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; rút ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội hủy hoại rừng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng: Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hoàn thiện quy định của tội hủy hoại rừng tại Điều 189 BLHS năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Những kiến nghị, giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hủy hoại rừng, đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho lực lượng điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng. 6. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Trên cơ sở nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường nói chung và tội hủy hoại rừng nói riêng. Các văn bản liên quan trong công tác chỉ đạo, phối hợp, đấu tranh phòng, chống các hành vi phạm tội hủy hoại rừng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học luật hình sự và tội phạm học như: Phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp liệt kê, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp đối chiếu, phương pháp 4
  12. chứng minh v.v. Các phương pháp nghiên cứu nêu trên được sử dụng một cách đan xen, linh hoạt để tạo ra kết quả nghiên cứu của đề tài. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Tội hủy hoại rừng trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật hình sự Việt Nam về tội hủy hoại rừng. 5
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Nhận thức chung về tội phạm hủy hoại rừng 1.1.1. Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng Trong lịch sử phát triển của đất nước, ý thức về bảo vệ tài nguyên rừng được chú ý và quan tâm trong nửa cuối thế kỷ XX, khi hậu quả của việc tàn phá rừng ảnh hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội và con người, đặc biệt phải kể đến thiên tai hiện hữu như: Ô nhiễm đất, nước và không khí, lũ lụt, nạn sa mạc hóa, hiệu ứng nhà kính v.v. Nguyên nhân chủ yếu là do rừng bị suy giảm, để đấu tranh có hiệu quả với những hành vi hủy hoại rưng, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tích cực đem lại kết quả bước đầu, khả quan, việc bảo vệ rừng là yếu tố quan trọng đóng góp cho sự phát triển thịnh vượng, lâu dài, vững chắc của đất nước nhưng vẫn còn những tồn tại, vướng mắc, tình trạng hủy hoại rừng có chiều hướng diễn biến phức tạp, tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế bảo vệ rừng có hiệu quả hơn. Một trong những mắt xích chủ yếu, quan trọng của cơ chế này là chính sách hình sự áp dụng đối với những hành vihủy hoại rừng. Trong lịch sử lập pháp hình sự, BLHS năm 1985 chưa thể hiện rõ tính cấp bách và tầm quan trọng đặc biệt của việc đấu tranh với các hành vi xâm hại môi trường và hủy hoại rừng. Điều này không chỉ thể hiện qua việc BLHS 1985 chưa dành riêng một chương cho các tội phạm về môi trường, mà được quy định gộp lại với những tội phạm khác như: Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên trong lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam (Điều 179); tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (Điều 180); tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng (Điều 181), những tội phạm này trong BLHS 1985 được hiểu là những tội phạm kinh tế và xếp vào Chương VII “các tội phạm về kinh tế”. Tương tự như vậy, tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng danh lam, thắng cảnh (Điều 216) được hiểu là tội xâm phạm 6
  14. trật tự quản lý hành chính (mục C của Chương VIII). Cả BLHS 1985 chỉ có một điều duy nhất trực tiếp quy định trách nhiệm hình sự cho những hành vi xâm hại đến môi trường đó là tội vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 195) [12]. Nền tảng của chính sách hình sự về bảo vệ môi trường trong đó có tài nguyên rừng của Việt Nam đã được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp đã khẳng định việc bảo vệ môi trường là nhiệm vụ quan trọng của mọi người và toàn xã hội: Cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường (Điều 29). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi năm 2013 xác định: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường (Điều 43); Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường và rừng, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; tổ chức, các nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và làm suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại(Điều 63) [22], từ những quy định nêu trên có thể thấy, Nhà nước ta đã nhận thức một cách sâu sắc về tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng. Chính sách hình sự của Việt Nam hiện hành quy định tội hủy hoại rừng tại Điều 189 của Chương XVII, của chương các tội phạm về môi trường, đây là một bước đột phá quan trọng khi xây dựng một chương riêng trong BLHS năm 1999 cho các tội phạm về môi trường,thể hiện quyết tâm đấu tranh với loại tội phạm này thông qua việc quy định hình phạt hết sức nghiêm khắc với mức hình phạt cao nhất lên đến 15 năm tù. Hành vi cấu thành tội phạm quy định tại Điều 189 của Chương XVII của BLHS là những hành vi xâm hại tài nguyên rừng, có tính nguy hiểm cho xã hội 7
  15. cao,những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng trách nhiệm hành chính. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội và tình hình tội phạm hủy hoại rừng, những hành vi xâm hại tài nguyên rừng sẽ được nghiên cứu thường xuyên góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự. Từ những phân tích nhận định trên, thiết nghĩ cần phải có nhận thức chung nhất về hành vi hủy hoại rừng để đưa ra khái niệm về tội phạm hủy hoại rừng, chỉ ra tính chất, đặc trưng của tội phạm này đã được quy định tại Điều 189 của BLHS. Khái niệm tội phạm hủy hoại rừng: Tội phạm hủy hoại rừng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện có lỗi, xâm hại tài nguyên rừng làm cho rừng mất hoàn toàn giá trị hoặc làm suy giảm đáng kể giá trị của rừng. Qua khái niệm nêu trên có thể thấy những nội dung bao hàm trong khái niệm tội hủy hoại rừng gồm: Là tội phạm được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một trong các hành vi khách quan hủy hoại rừng (đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác), chủ thể thực hiện tội phạm có lỗi và gây thiệt hại về rừng đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, đi sâu phân tích sẽ giúp làm sáng tỏ nội dung khái niệm về tội hủy hoại rừng, cụ thể: Tội hủy hoại rừng là tội phạm được tách từ tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng quy định tại Điều 181 BLHS năm 1985, do tính chất của hành vi và thiệt hại do hành vi hủy hoại rừng gây ra nên nhà làm luật quy định hành vi hủy hoại rừng là tội phạm về môi trường. Quy định nêu trên với nội hàm chứa các dấu hiệu đặc trưng của loại tội phạm hủy hoại rừng, kết cấu quy định tại khoản 1 Điều 189 BLHS là liệt kê các hành vi có thể thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm này. Trong khoản này bao hàm các nội dung như chủ thể thực hiện tội phạm là “người nào”, ở đây xác định bất kỳ người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự 8
  16. theo quy định của BLHS khi vi phạm một trong các tội phạm được quy định trong BLHS, cụ thể ở đây là tội hủy hoại rừng. Trách nhiệm hình sự, là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do BLHS quy định đối với người phạm tội. Việc áp dụng trách nhiệm hình sự chính xác đối với người phạm tội có mục đích rất quan trọng, mang tính chất nhằm từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới thủ tiêu tình trạng phạm tội và những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm. Trách nhiệm hình sự là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác, phản ánh thái độ của Nhà nước đối với người thực hiện tội phạm bằng việc quy định các biện pháp cưỡng chế về hình sự để áp dụng đối với người thực hiện tội phạm, là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm, trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh (xuất hiện) khi có sự việc phạm tội, không có việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị BLHS quy định là tội phạm thì không thể có trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định, một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội [34], người thực hiện tội phạm hủy hoại rừng chính là người thực hiện những hành vi hủy hoại rừng, xâm phạm tài nguyên rừng làm mất hoàn toàn hoặc làm giảm đáng kể giá trị rừng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Một khi đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự cũng cần cân nhắc và đảm bảo hai khía cạnh là điều kiện cần và đủ để buộc một người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự khi người đó phạm vào một tội được quy định trong luật hình sự, đó là về năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể thực hiện tội phạm và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Dưới góc độ lập pháp, tuổi chịu trách nhiệm hình sự không được ghi nhận chính thức như là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8 BLHS, nhưng dấu hiệu này lại rất quan trọng, không thể thiếu trong yếu tố chủ thể của tội phạm bên cạnh dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự [34]. 9
  17. Trên cơ sở cân nhắc sự phát triển về thể chất, khả năng nhận thức và các yếu tố tâm, sinh lý, độ tuổi, cũng như xuất phát từ yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và qua tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật của nước ta, BLHS hiện hành đã thể hiện quan điểm phân hóa trách nhiệm hình sự một cách cụ thể, đã phân loại tội phạm thành bốn loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với các tiêu chí để phân loại bốn loại tội phạm bao gồm: Tính chất nguy hiểm cho xã hội, mức độ nguy hiểm cho xã hội và mức cao nhất của khung hình phạt (chế tài). Bên cạnh đó, cùng với việc phân loại tội phạm là quy định cụ thể về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12 BLHS, như sau: 1. Người đủ từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Từ các phân tích trên, người thực hiện tội phạm hủy hoại rừng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, khi có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Trong BLHS hiện hành, không trực tiếp quy định vấn đề tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự, mà quy định tình trạng đối lập là tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, đây là quy định đúng đắn, hợp lý, có tính thực tiễn cao. Bởi vì tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự là thuộc tính mang tính phổ biến và bao quát ở tất cả mỗi con người, đồng thời tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự lại mang tính đơn lẻ và không phổ biến, dưới góc độ được thừa nhận chung thì tình trạng có năng lực chịu trách nhiệm hình sự được hiểu là khả năng của một người tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoàn toàn nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và điều khiển được hành vi do mình thực hiện [34]. Xuất phát từ nhận thức này thì người thực hiện hành vi hủy hoại rừng, được xác định là phạm tội với lỗi cố ý, hoàn toàn ý thức được hành vi đốt, phá rừng trái phép hoặc có các hành vi khác hủy hoại rừng sẽ xâm phạm đến tài nguyên rừng, làm mất đi hoặc giảm đáng kể giá trị rừng và hoàn toàn có thể ý thức mức độ 10
  18. nguy hiểm của hành vi hủy hoại rừng nhưng vẫn thực hiện, do đó trong thực tiễn những vụ án hủy hoại rừng đều có nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bản thân người phạm tội. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu ngược lại là một người ở thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở trong trạng thái hoàn toàn không nhận thức hoặc không điều khiển được hành vi của mình do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần của họ, trên cơ sở này Điều 13 BLHS hiện hành quy định: 1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. 2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự; nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Nội dung điều luật phản ánh việc một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh và nguyên nhân trực tiếp của tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là do mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần của họ, trên thực tiễn loại tội phạm hủy hoại rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk chưa có hành vi phạm tội nào mà người phạm tội rơi vào trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự khi phạm tội. Người phạm tội có thể thực hiện các hành vi hủy hoại rừng gồm: đốt, phá rừng trái phép hoặc có các hành vi khác hủy hoại rừng; việc liệt kê cụ thể các hành vi khách quan như vậy giúp dễ dàng nhận thấy hành vi nào là phạm vào tội hủy hoại rừng, hành vi nào không là tội phạm theo quy định của điều luật này, phân biệt với 11
  19. các nhóm hành vi khác cũng xâm phạm tài nguyên rừng và phải chịu trách nhiệm hình sự, mỗi hành vi đều chứa đựng những bản chất, đặc điểm, yếu tố xác định riêng, cụ thể: Đốt rừng trái phép: Là hành vi cố ý làm cháy rừng với bất kỳ mục đích gì mà không được người hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Phá rừng trái phép: Là những hành vi chặt phá rừng, ken cây và các hành vi khác trái pháp luật làm cho cây rừng bị chết với bất kỳ mục đích gì, trừ trường hợp được quy định cụ thể tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 phần IV của TTLT số 19/2007/TTLT-BNN-BTP-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 08/3/2007, giữa Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản [2]. Trường hợp được liệt kê tại tiểu mục 1.1 và 1.2 mục 1 phần IV của TTLT số 19, đây là các trường hợp loại trừ không cấu thành tội hủy hoại rừng nhưng là các hành vi phạm tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy định tại Điều 175 BLHS và cũng là sự phân loại một cách cụ thể để làm căn cứ xác định hành vi được cho là phạm vào tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Ngoài ra, trong quy định tại khoản 1 Điều 189 BLHS có quy định về các dấu hiệu là điều kiện cần thiết để quyết định việc hành vi hủy hoại rừng của một chủ thể có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không đó là tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm”. Về tình tiết này tuy không là dấu hiệu bắt buộc nhưng là dấu hiệu cần và đủ để làm cơ sở phân hóa vai trò, mức độ, hậu quả do hành vi hủy hoại rừng gây ra, hành vi có thể không gây hậu quả nghiêm trọng nhưng chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Tình tiết này được hướng dẫn tại mục 6 Nghị quyết 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. 12
  20. Mục 6 Nghị quyết 01 quy định: “Đối với các tội mà điều luật có quy định tình tiết “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm” đã được hướng dẫn tại các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền thì thực hiện theo đúng hướng dẫn của các văn bản đó” [30]. Như vậy, trong trường hợp bị xử phạt hành chính quy định tại khoản 1 Điều 189 BLHS, đã được hướng dẫn cụ thể tại mục 1 phần I của TTLT số 19, xác định một người bị coi là đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm tức là trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê tại khoản 1 Điều 189 BLHS là những hành vi đốt, phá rừng trái pháp luật hoặc có hành vi khác gây hậu quả là thiệt hại thực tế đối với tài nguyên rừng, đã bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đó. 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội hủy hoại rừng trong luật hình sự Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống của loài người, rừng có vai trò cân bằng hệ sinh thái, ổn định và điều hòa khí hậu, điều tiết nước giúp sự sống trên trái đất được duy trì bền vững. Không những thế, rừng có giá trị cao về kinh tế như là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm và cho ngành công nghiệp, ngành du lịch sinh thái; rừng còn là nguồn cung cấp nguyên liệu, vật liệu, dược liệu quí hiếm phục vụ cho các ngành khoa học như: Y học, sinh học, hóa chất v.v. Hơn thế nữa, rừng còn có tầm quan trọng chiến lược trong việc tạo phòng tuyến vững chắc trong lĩnh vực an ninh quốc phòng của đất nước. Hủy hoại rừng được hiểu là việc một người đã có hành vi đốt, phá rừng trái pháp luật hoặc có các hành vi khác gây thiệt hại cho rừng và thiệt hại về môi trường đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các quy định đó có thể là các quy định cụ thể của các cơ quan pháp luật Nhà nước hay của các cơ quan tổ chức được Nhà nước trao quyền và thông qua công tác tuyên truyền phổ biến đến mọi người dân và buộc phải tuân thủ và thực hiện các quy định đó. Trên thực tế có thể 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2