intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

20
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999, trên cơ sở thực tiễn đấu tranh với tội phạm này đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong luật hình sự Việt Nam

  1. Đại học Quốc gia Hà nội Khoa luật LÊ VIỆT HÀ Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong luật hình sự việt nam Chuyên ngành : Luật Hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS nguyễn tất viễn Hà nội - 2009
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN LÊ VIỆT HÀ
  3. MỤC LỤC T rang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình vẽ, đồ thị MỞ ĐẦU Chương 1: SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1.1 Khái niệm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 1.2 Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam 1.3. Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới Chương 2: TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 2.1 Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 2.2 Đường lối xử lý đối với tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ
  4. EM 3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 3. 2 Các nguyên tắc hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 3.3 Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật Hình sự CHND Cộng hoà nhân dân DCCH Dân chủ cộng hoà LB Liên bang Nxb Nhà xuất bản TAND Toà án nhân dân TANDTC Toà án nhân dân tối cao tr. Trang TS. Tiến sĩ TNHS Trách nhiệm hình sự
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng số 1: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo số vụ và số bị cáo (Từ năm 2004 đến năm 2008) Bảng số 2: Tỷ lệ số vụ mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong tổng số vụ phạm tội nói chung Bảng số 3: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008) Bảng số 4: Đặc điểm nhân thân bị cáo phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008) Bảng số 5: Cơ cấu độ tuổi của bị cáo phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (2004 - 2008)
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang Biểu đồ 1: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo số vụ và số bị cáo Biểu đồ số 2: Cơ cấu độ tuổi của bị cáo phạm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi nghiên cứu về xã hội và quy luật phát triển của xã hội, Các Mác đã khẳng định rằng tương lai của cả loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công dân đang lớn lên. Chính vì vậy mà việc chăm lo và bảo vệ trẻ em từ lâu đã là mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế và từng quốc gia trên thế giới. Ngày 20 tháng 11 năm 1959, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nhất trí thông qua “Tuyên ngôn về quyền trẻ em”. Tinh thần cơ bản của tuyên ngôn là “loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có” [21]. Ở Việt Nam, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, Nhà nước ta luôn luôn đặt ưu tiên hàng đầu chính sách bảo vệ và chăm sóc trẻ em, là một trong những quốc gia sớm ký kết, tham gia vào các Công ước, Nghị định thư của Liên hợp quốc về chống buôn bán người. Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những công cụ hữu hiệu nhất góp phần đắc lực trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, trong những năm qua và hiện nay, trẻ em đang trở thành nạn nhân của tội phạm mua bán người - một trong những tội phạm nguy hiểm, gây nhức nhối cho toàn xã hội. Trên thế giới, buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em là ngành công nghiệp tội phạm lớn thứ hai, chỉ sau buôn bán ma tuý và ngày càng phát triển nhanh chóng. Nó không chỉ là hiểm họa an ninh xã hội của mỗi quốc gia mà từ lâu đã trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế. Trong thời gian qua, nạn buôn bán trẻ em đang ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp và mang tính toàn cầu. Những trẻ em vô tội trên khắp hành tinh trong đó có nhiều trẻ em Việt Nam đã và đang trở thành 1
  9. nạn nhân của các tổ chức, đường dây buôn bán người hoạt động xuyên quốc gia, có sự cấu kết giữa các đối tượng trong nước với nước ngoài, giữa châu lục này với châu lục khác. Bên cạnh đó, tình trạng đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em, trẻ sơ sinh ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Ở một số địa phương như Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu..., bọn tội phạm còn lợi dụng đêm tối, sơ hở của gia đình nạn nhân và lực lượng chức năng, tổ chức tấn công, cướp, chiếm đoạt trẻ em bán ra nước ngoài. Pháp luật Hình sự Việt Nam từ khi được pháp điển hoá lần thứ nhất năm 1985 đã quy định Tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em tại Điều 149, Chương Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Đến lần pháp điển hoá thứ hai, trong Bộ luật Hình sự năm 1999 đã đưa tội này về Chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người với tên tội danh là Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em tại Điều 120. Việc quy định Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Bộ luật Hình sự đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp phần tích cực và có hiệu quả trong việc phòng, chống nạn buôn bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Tuy nhiên, về mặt lập pháp, điều 120 của Bộ luật Hình sự 1999 còn nhiều điểm bất cập, gây khó khăn cho quá trình áp dụng. Điều luật không đưa ra định nghĩa về các hành vi mua bán trẻ em, một số tình tiết quy định tại Điều 120 BLHS năm 1999 chưa được hướng dẫn để áp dụng thống nhất trong thực tiễn...Chính vì vậy, việc xem xét sửa đổi Điều 120 là một trong những nội dung quan trọng của việc sửa đổi BLHS năm 1999 của Quốc hội Khóa XII. Cho đến nay thực sự chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về tội danh này một cách thấu đáo trên mọi bình diện của nó, hầu hết mới chỉ 2
  10. dừng lại ở việc trình bày đặc điểm các yếu tố cấu thành tội phạm, các hình phạt, nội dung các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc mới chỉ nghiên cứu riêng lẻ hành vi mua bán trẻ em (cùng với hành vi mua bán phụ nữ) mà chưa có sự đi sâu nghiên cứu để phân tích, tìm hiểu và đưa ra những kiến giải pháp lý đối với các tội đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em... Vì vậy, việc nghiên cứu Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em một cách độc lập và toàn diện để làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật, góp phần hoàn thiện Bộ luật Hình sự đồng thời đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em nói riêng là hết sức quan trọng. Đây cũng là luận chứng cho việc học viên lựa chọn đề tài: “Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong luật hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm qua, trước diễn biến phức tạp của tình hình mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em, đặc biệt là tình hình mua bán trẻ em, đã có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên ngành nghiên cứu về loại tội phạm này (chủ yếu là tội mua bán trẻ em) như: Đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp (Luận văn Thạc sĩ luật học, (2006) của Nguyễn Quyết Thắng, nghiên cứu về tình hình mua bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam trong những năm 2000 - 2006, tìm ra nguyên nhân và đưa ra các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Một số vấn đề lý luận về tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em (Tạp chí Thông tin khoa học xét xử, số 3/2008) của Kim Long; Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em và công tác xét xử của ngành toà án nhân dân (Tạp chí Thông tin khoa 3
  11. học xét xử, số 3/2008) của Chí Hiếu; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội và của Trường Đại học Luật Hà Nội. Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu khoa học như: "Điều tra tội phạm mua bán trẻ em qua biên giới của lực lượng cảnh sát nhân dân" của Phạm Đăng Quyền, đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, năm 1999; Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về các tội mua bán phụ nữ, trẻ em và các kiến nghị về Luật Phòng, chống buôn bán người của Đặng Thị Thanh và Thực tiễn điều tra các vụ án về buôn bán phụ nữ, trẻ em - Một số kiến nghị về mặt lập pháp của Phạm Văn Hùng tại Hội thảo đề xuất xây dựng Luật phòng chống buôn bán người, năm 2007... Các công trình nghiên cứu này hoặc chỉ mới phân tích rất khái quát những vấn đề lý luận và thực tiễn của tội mua bán trẻ em mà chưa đề cập đến tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (nếu có thì cũng chỉ mới dừng lại ở việc trình bày một cách chung chung về đặc điểm các yếu tố cấu thành tội phạm; các hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS...). Bên cạnh đó, đối với tội mua bán trẻ em chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học và thường theo hướng nghiên cứu chung với tội mua bán phụ nữ, phân tích một số đặc điểm về tình hình tội phạm, nguyên nhân và nêu ra các biện pháp đấu tranh phòng ngừa. Chưa có một công trình nào nghiên cứu tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em một cách độc lập, toàn diện và có hệ thống dưới góc độ luật hình sự. Luận văn được thực hiện trong bối cảnh Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự (được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010) đang trong quá trình soạn thảo. Để tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống buôn bán người ở nước 4
  12. ta và thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này, Luật đã quy định tội buôn bán người trên cơ sở tội mua bán phụ nữ (Điều 119 - BLHS năm 1999) và tội mua bán trẻ em (tách từ Điều 120 - BLHS năm 1999). Như vậy, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 thì Điều 120 được sửa thành Tội đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em do tội mua bán trẻ em đã được tách ra để quy định tại Điều 119 - Tội buôn bán người. Mặc dù đã có những sửa đổi theo hướng tiến bộ và tiếp cận gần hơn với pháp luật quốc tế nhưng Điều 119 và Điều 120 trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để giải quyết thấu đáo hơn nữa. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999, trên cơ sở thực tiễn đấu tranh với tội phạm này đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau: - Làm rõ về mặt khoa học các dấu hiệu pháp lý của Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; 5
  13. - Nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự Việt Nam và một số nước có điều kiện giống Việt Nam về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em.... - Đánh giá thực trạng về tình hình Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong những năm gần đây và thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội danh này; - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự trong đấu tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; 3.3. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3.4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, do được thực hiện trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 nên Luận văn đã tham khảo và cập nhật những thông tin trong quá trình dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự (đã được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009). 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về nhà nước và pháp luật, luật hình sự, luật tố tụng hình sự, tội phạm học..., những luận điểm 6
  14. khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên các tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự. Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là: hệ thống, lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê... 5. Điểm mới của luận văn Đề tài là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học nghiên cứu một cách có hệ thống về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em dưới góc độ pháp lý hình sự. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em như: quá trình hình thành và phát triển các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm này; khái niệm, các dấu hiệu pháp lý đặc trưng; trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội... - Bằng các chỉ số tội phạm học, nêu và đánh giá dược tình hình tội phạm và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó chỉ ra những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. - Đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Trong phạm vi nghiên cứu của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với 7
  15. cuộc đấu tranh phòng, chống Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em nhất là trong giai đoạn hiện nay. - Về mặt lý luận, đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999 đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. - Về mặt thực tiễn, những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em nói riêng. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sự cần thiết quy định tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em trong Bộ luật Hình sự Chương 2: Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và thực tiễn áp dụng Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 8
  16. CHƢƠNG 1 SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI MUA BÁN, ĐÁNH TRÁO HOẶC CHIẾM ĐOẠT TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em 1.1.1. Trẻ em - đối tượng đặc biệt cần được sự bảo vệ của pháp luật Có thể khẳng định rằng, trẻ em luôn là đối tượng được quan tâm của gia đình và xã hội. Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm trẻ em như búp trên cành và đó cũng là quan niệm của cả dân tộc ta về thiếu niên nhi đồng - thế hệ măng non của đất nước. Chăm sóc, bảo vệ trẻ em là chăm lo cho hạnh phúc của chính chúng ta hôm nay, của tương lai chúng ta mai sau. Đó là truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta. Việc quan tâm, chăm sóc, bồi dưỡng thế hệ trẻ ở Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta chú ý từ rất sớm. Đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đề cập tới vấn đề này, trong đó đều thống nhất khẳng định đây là trách nhiệm to lớn của Đảng, toàn dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt của xã hội ta. Ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Đảng và Nhà nước ta với sự quan tâm đặc biệt đối với trẻ em đã có nhiều chủ trương, chính sách hướng tới mục tiêu vì lợi ích tốt nhất cho sự phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức của trẻ em; đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chính sách tầm chiến lược, nhiều chương trình đào tạo, bồi dưỡng để đảm bảo mọi trẻ em đều có quyền được sống, phát triển, tham gia và được bảo vệ không bị xâm hại trong môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện, không bị phân biệt đối xử. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, cùng với nhiều chính sách kinh tế, xã hội được ban hành, Nhà nước ta đã phê chuẩn Công 9
  17. ước quốc tế về Quyền trẻ em (ngày 20 tháng 2 năm 1990). Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Với quan điểm cơ bản coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và trẻ em là tương lai của đất nước, Nhà nước ta đã luôn đặt lợi ích tốt nhất của trẻ em lên hàng đầu trong các quyết định liên quan đến phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, cộng đồng và gia đình. Đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư cho an toàn xã hội, phát triển con người, là bảo hiểm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Có thể khẳng định, bảo vệ trẻ em là bảo vệ quyền con người. Việc đầu tư cho công tác bảo vệ trẻ em là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trong giai đoạn đất nước đổi mới, Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều ngành luật, có đối tượng điều chỉnh là các nhóm quan hệ xã hội thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trẻ em với tính cách là một chủ thể pháp luật, các quan hệ xã hội về trẻ em cũng là một trong những đối tượng điều chỉnh của các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật nước ta. Pháp luật về trẻ em có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, đến nhiều ngành luật khác nhau. Các ngành luật thuộc hệ thống pháp luật Việt Nam như Luật Hiến pháp, Luật Quốc tịch, Luật Hành chính, Luật Dân sự, Luật Tố tụng dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự... đều bảo vệ quyền trẻ em theo một đặc thù riêng của ngành luật mình. Ví dụ: trong lĩnh vực Luật Hiến pháp, trẻ em được xem như một công dân đặc biệt. Vấn đề bảo vệ quyền trẻ em được điều chỉnh dưới góc độ phạm trù quyền con người. Do vậy, Luật Hiến pháp bảo vệ quyền trẻ em bằng việc quy định các quyền cơ bản nhất của trẻ em, bao gồm quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục. Đồng thời, Luật Hiến pháp cũng quy định trách nhiệm 10
  18. của gia đình, Nhà nước và xã hội trong việc bảo vệ các quyền cơ bản này. Luật Quốc tịch là ngành luật thuộc hệ thống luật công, điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước với dân cư sống trên lãnh thổ Việt Nam. Luật Quốc tịch bảo vệ trẻ em bằng các quy định về sự có, mất, thay đổi quốc tịch, quốc tịch của người chưa thành niên, thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề quốc tịch. Quốc tịch là một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất của trẻ em; là căn cứ để trẻ em được hưởng sự bảo hộ pháp lý của Nhà nước, là một trong những điều kiện cơ bản để xác định tình trạng nhân thân của một con người từ khi sinh ra cho đến khi chết. Rõ ràng, Luật Quốc tịch có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Luật Hành chính là một ngành luật về quản lý Nhà nước, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý Nhà nước. Trẻ em với tư cách là một chủ thể xã hội, cũng là đối tượng điều chỉnh của Luật Hành chính. Mọi lĩnh vực mà khi trẻ em tham gia như hoạt động học tập, vui chơi, giải trí hay các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, y tế, giáo dục đều chịu sự quản lý của Nhà nước. Cũng như các ngành luật khác, Luật Hành chính coi trẻ em là một đối tượng đặc biệt nên khi quy định trách nhiệm hành chính đối với trẻ em, Luật Hành chính đều có quy định riêng áp dụng đối với trẻ em vi phạm hành chính. Luật Hành chính còn tạo ra một cơ chế quản lý đối với trẻ em vi phạm hành chính bao gồm các biện pháp xử lý hành chính như giáo dục tại xã phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng và các tổ chức, cơ sở nhằm giáo dục trẻ em, đưa trẻ em trở lại cuộc sống bình thường. Như vậy, có thể nói Luật Hành chính cũng góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền trẻ em dưới góc độ quản lý Nhà nước, một đặc thù riêng của Luật Hành chính. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 là văn bản chuyên biệt có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định cụ thể về quyền và bổn phận của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và của toàn xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Luật này đã xác 11
  19. định: "trẻ em, không phân biệt gái, trai, con trong giá thú, con ngoài giá thú, con đẻ, con nuôi, con riêng, con chung; không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, chính kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ, đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền theo quy định của pháp luật" [30]. Tuy nhiên, hiện nay trong xã hội vẫn còn xảy ra nhiều hành vi phạm pháp như nạn bạo hành trẻ em diễn ra ở không ít gia đình, ở một số nơi thuê mướn việc làm, thậm chí ngay cả trong lớp học và cơ sở nuôi dạy trẻ, nghiêm trọng hơn, trẻ em đang trở thành một món hàng để trao đổi, mua bán. Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở nước ta đang đứng trước những vấn đề bức xúc đòi hỏi cần phải giải quyết. Các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam như Luật Hành chính, Luật Quốc tịch... không có đủ chế tài để bảo vệ trẻ em trong khi đó, Luật Hình sự với hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, xác định những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đồng thời quy định hình phạt đối với những tội phạm ấy "là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm" [4, tr. 4]. Luật Hình sự là một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Trẻ em là một chủ thể đặc biệt của pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự có chính sách hình sự riêng đối với trẻ em nhằm bảo vệ trẻ em khi họ là đối tượng bị tội phạm xâm hại, đồng thời cũng quy định TNHS nhưng theo hướng giảm nhẹ đối với người chưa thành niên khi họ chính là người thực hiện tội phạm. Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội thể hiện thống nhất trong những quy định cụ thể của pháp luật hình sự về TNHS, về nguyên tắc xử lý, về hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Đặc biệt, luật hình sự quy định những hình phạt nghiêm khắc đối với các tội phạm xâm hại đến quyền của trẻ em. 12
  20. Ở nước ta, hiện tượng buôn bán người đã xuất hiện từ lâu và bị lên án một cách mạnh mẽ. Buôn bán trẻ em thực sự là tội ác, gây nhức nhối cho toàn xã hội, từ lâu đã trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng. Trẻ em bị buôn bán đã phải rơi vào những hoàn cảnh sống rất thương tâm. Các em bị bóc lột và bị lạm dụng về tình dục một cách thậm tệ, đôi khi còn ở ngay cả những nơi làm việc thông thường như lao động trong nhà máy, giúp việc trong gia đình... Buôn bán trẻ em không chỉ tác động trực tiếp đến cuộc sống, sức khỏe, nhân phẩm, tinh thần của trẻ mà còn tác động tiêu cực đến xã hội trên nhiều phương diện khác nhau như: ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần, chính trị, quan hệ gia đình và các dịch vụ xã hội khác. Bên cạnh đó, hiện nay đã xuất hiện những tổ chức, đường dây buôn bán người hoạt động xuyên quốc gia, đe dọa nghiêm trọng đến quyền được bảo vệ, được sống hạnh phúc của con người nói chung và của trẻ em nói riêng. Trước thực trạng đó, việc tiếp tục áp dụng chế tài pháp lý của các ngành luật tương ứng khác ít nghiêm khắc hơn luật hình sự đối với hành vi mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em sẽ không còn đủ sức ngăn chặn nữa. Do đó, việc bảo vệ trẻ em bằng Luật Hình sự với các chế tài nghiêm khắc là hết sức cần thiết. BLHS năm 1985 đã tội phạm hóa những hành vi này thành tội bắt trộm, mua bán hoặc đánh tráo trẻ em quy định tại Chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên. Đến lần pháp điển hóa thứ hai, BLHS năm 1999 đã đưa tội này về Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người với tội danh mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em cho phù hợp với khách thể loại bị xâm phạm. Việc quy định tội phạm này trong BLHS là hết sức quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho công tác phòng, chống, bảo vệ trẻ em khỏi nạn buôn bán người. BLHS năm 1999 coi tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em là tội phạm hết sức nghiêm trọng xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2