intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

15
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC MẠNH TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM, (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ ĐỨC MẠNH TéI PH¹M CH¦A HOµN THµNH THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM, (Trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn tØnh §¾k L¾k) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS CAO THỊ OANH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Đức Mạnh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ....... 8 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành ................... 8 1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành ................................................. 8 1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tội phạm chưa hoàn thành................... 19 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành ........... 20 1.2.1. Giai đoạn sau cách mạng tháng 8 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực ....................................................................... 20 1.2.2. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực .............................. 22 1.2.3. Giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực .............................. 24 1.3. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước............................................................................................ 27 1.3.1. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự của nước Thụy Điển ............................................................................... 27 1.3.2. Tội phạm chưa hoàn thành quy định trong Bộ luật hình sự nước Cộng hòa liên bang Đức .................................................................. 30 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .................................. 34 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm và trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành .............. 34
  5. 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành ............................................................................... 34 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm chưa hoàn thành .................................................... 36 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................. 40 2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chuẩn bị phạm tội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 41 2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về phạm tội chưa đạt trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk .................................................................................... 42 Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK .......................................................... 80 3.1. Yêu cầu cấp thiết của việc hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành ............................................ 80 3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành .................................................................. 82 3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............. 92 3.3.1. Nâng cao công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới .......................................... 92 3.3.2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật ....................... 93 3.3.3. Nâng cao năng lực của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân................... 94 3.3.4. Nâng cao vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật .......................... 96 KẾT LUẬN ................................................................................................. 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 102
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: So sánh tỷ lệ bản án của tội phạm chưa hoàn thành so với tội phạm đã hoàn thành thông qua nghiên cứu 200 bản án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014 41 Bảng 2.2: So sánh tỷ lệ các tội phạm cụ thể trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 41 Bảng 2.3: Tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 42 Bảng 2.4: So sánh tỷ lệ giai đoạn chuẩn bị phạm tội so với giai đoạn phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa hoàn thành 43 Bảng 2.5: So sánh tỷ lệ các trường hợp phạm tội chưa đạt trong 20 bản án hình sự về tội phạm chưa đạt 43
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm, hiểu theo nghĩa khái quát nhất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Sự xuất hiện của tội phạm diễn ra cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để bảo vệ các quyền lợi của giai cấp cầm quyền, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó nên tội phạm lại mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. Là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã hội, lịch sử và pháp lý, tội phạm luôn chứa đựng trong mình đặc tính chống lại Nhà nước, chống lại xã hội, đi ngược với lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người. Tội phạm không phải lúc nào cũng được thực hiện đến cùng mà có thể được thực hiện ở những mức độ khác nhau do nhiều nguyên nhân. Tội phạm diễn ra ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ nguy hiểm cho xã hội cũng khác nhau, việc thực hiện tội phạm cố ý trong nhiều trường hợp nó là một quá trình thỏa mãn dần các dấu hiệu cơ bản của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong phần các tội phạm luật hình sự. Trong quá trình tiến hành dần từng bước đó, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan khác nhau không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người phạm tội mà hành vi của họ phải dừng lại khi mới chuẩn bị điều kiện để thực hiện hoặc khi chưa thực hiện hoàn thành tội phạm nào đó. Trong khi đó, pháp luật hình sự lại đặt ra nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm không chỉ bảo vệ các quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ đã bị tội phạm xâm hại, mà cần bảo vệ các quan hệ xã hội đó trong những trường hợp chưa bị tội phạm xâm hại đến. Nói một cách khác, 1
  8. pháp luật hình sự của Nhà nước đặt ra yêu cầu phải xử lý đồng bộ tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi thực hiện hoàn thành một tội phạm và cả hành vi chưa hoàn thành. Bởi lẽ, việc phát hiện, trừng trị những hành vi phạm tội chưa hoàn thành là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra cho xã hội, cho Nhà nước và cho công dân. Nói một cách khác, không để cho tội phạm gây ra nguy hiểm cho xã hội thì tốt hơn để cho tội phạm xảy ra mới tìm cách khắc phục phòng, chống tội phạm, do đó đây chính là một yêu cầu có ý nghĩa tiên quyết thể hiện trong chính sách hình sự của Nhà nước ta [29, tr.125-126]. Qua thực tiễn xét xử cho thấy, so với giai đoạn tội phạm đã hoàn thành thì số vụ án mà Tòa án xét xử tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành chiếm tỷ lệ thấp hơn, nguyên nhân là do có nhiều khó khăn trong việc chứng minh hành vi phạm tội, người phạm tội không thừa nhận mục đích các hành vi phạm tội của mình, việc đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng còn chưa chính xác. Từ những nguyên nhân trên dẫn đến những khó khăn đối với cơ quan tố tụng trong quá trình xem xét, đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các tình tiết, bản chất của sự việc. Hiện nay, tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn ngày một gia tăng và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng. Tuy nhiên hiện chưa có công trình nào nghiên cứu đề tài: “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’. Do vậy đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, rõ ràng để có những luận cứ khoa học về tội phạm chưa hoàn thành, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại do hành vi phạm tội có thể gây ra, giúp chúng ta phát hiện, khởi tố, điều tra và đưa ra xét xử một cách kịp thời đối với tội phạm chưa hoàn thành, nhằm đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành và làm cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đạt được hiệu quả 2
  9. cao. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Tội phạm chưa hoàn thành theo Luật hình sự Việt Nam, (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)’’ làm đề tài luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong những năm gần đây, ở nước ta có nhiều công trình nghiên cứu; sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình; các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành; các luận văn, luận về tội phạm chưa hoàn thành như: Luật hình sự Việt Nam (Quyển I Những vấn đề chung), Đào Trí Úc, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội (2000); Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 – Phần chung, Đinh Văn Quế, Nxb. thành phố Hồ chí Minh (năm 2000); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Lê Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (Chủ biên năm 2003 và 2007); Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Lê Văn Cảm, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2005); Chế định về các giai đoạn thực hiện tội phạm và mô hình lý luận của nó trong pháp luật hình sự Việt Nam, Lê Văn Cảm, tạp chí Dân chủ và pháp luật; Cấu thành tội phạm và vấn đề xác định giai đoạn thực hiện tội phạm, PGS. TS Cao Thị Oanh, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; “Một số vấn đề về các giai đoạn thực hiện tội phạm”, trong sách: Luật hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Lê Thị Sơn, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội (1997); “Về trách nhiệm hình sự của hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt”, Lê Thị Sơn, tạp chí Luật học; Chương III, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Những vấn đề lý luận cơ bản về tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Lâm Minh Hạnh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội chưa đạt theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hoàng Đức Ngọc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự 3
  10. Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Th.S. Hồ Thanh Vinh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014; Chương XII, Các giai đoạn phạm tội, trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) (do TSKH. Lê Cảm chủ biên), Nguyễn Ngọc Chí, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2007); Một số vấn đề về giai đoạn phạm tội chưa đạt, Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Khoa học (chuyên san Kinh tế Luật), số 4/2002; Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Trịnh Tiến Việt, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013; “Về phạm tội chưa đạt và một số hình thức phạm tội khác trong quá trình thực hiện tội phạm”, Khoa học, Chuyên san Luật học, Trịnh Tiến Việt, năm 2009; Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự trước yêu cầu mới của đất nước, Trịnh Tiến Việt, tạp chí Tòa án nhân dân số 14(7)/2008, năm 2008; Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Trịnh Tiến Việt, Luật học 25, năm 2009; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội (năm 2010). v.v… Từ các công trình trên cho thấy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành ở những mức độ khác nhau, đề cập đến khái niệm, các đặc điểm cơ bản, trách nhiệm hình sự và việc quyết định hình phạt đối với tội phạm chưa hoàn thành, cụ thể là giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu vào thực tiễn xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật và hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn: + Mục đích nghiên cứu: mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành. Từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4
  11. + Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về tội phạm chưa hoàn thành. - Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp luật Việt Nam qua các thời kì. - Nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành quy định trong luật hình sự một số nước. - Nghiên cứu quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa hoàn thành. - Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành và đưa ra những các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn + Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ quy định của pháp luật Hình sự về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn pháp luật về tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014. + Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành, dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2007 đến năm 2014. 5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước 5
  12. và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, về công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác tư pháp trong thời gian tới”, và nhất là trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020”, Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lượng cải cách tư pháp đến năm 2020”, cũng như các công trình khoa học của các tác giả nghiên cứu về tội phạm chưa hoàn thành. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cụ thể được sử dụng nghiên cứu đề tài bao gồm: quy nạp, diễn dịch, thống kê tội phạm, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra, khảo sát, tổng kết kinh nghiệm. Từ đó rút ra những đánh giá, kết luận và đề xuất các kiến nghị liên quan đến tội phạm chưa hoàn thành. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện về tội phạm chưa hoàn thành được quy định trong Luật hình sự từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Dựa trên sự phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn để đưa ra những luận giải, những căn cứ khoa học, để từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. - Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu đề tài có thể tham khảo để nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đề tài có thể 6
  13. được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội phạm chưa hoàn thành trong pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm chưa hoàn thành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lí đối với tội phạm chưa hoàn thành trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 7
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI PHẠM CHƯA HOÀN THÀNH TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của tội phạm chưa hoàn thành 1.1.1. Khái niệm tội phạm chưa hoàn thành Nhìn chung pháp luật hình sự trên thế giới và tại Việt Nam đa phần đều phân biệt các giai đoạn thực hiện tội phạm, nhằm đánh giá mức độ thực hiện tội phạm ở các giai đoạn khác nhau và qua đó có cơ sở xác định phạm vi trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Cụ thể, các giai đoạn phạm tội là những mức độ trong quá trình thực hiện tội phạm do cố ý và bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Các giai đoạn phạm tội này ngắn hay kéo dài tùy thuộc vào quá trình của hành vi phạm tội và người phạm tội thực hiện trên thực tế. Việc phân chia các giai đoạn phạm tội trong luật hình sự thể hiện ý chí chủ quan của các nhà làm luật đối với diễn biến khách quan của hành vi phạm tội xảy ra trong thực tế [4, tr.151-152]. Tuy nhiên, có ba điểm khác nhau cơ bản giữa các giai đoạn phạm tội chính là ở những yếu tố khách quan của hành vi phạm tội bao gồm: 1) Tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội; 2) Mức độ thực hiện ý định phạm tội của chủ thể thực hiện hành vi; 3) Thời điểm chấm dứt của những hành vi đó [9, tr.61]. Trong thực tế, quá trình thực hiện việc phạm tội của tội phạm trong nhiều trường hợp người phạm tội phải tiến hành từng bước, từng bước một để hoàn thành tội phạm (như: hình thành ý định và biểu lộ ý định phạm tội, chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội, chuẩn bị thực hiện hành vi liền kề và dần thực hiện hành vi phạm tội). Tuy vậy, về phương diện chủ quan có sự đối lập thể hiện ở chỗ: mặc dù hành vi phạm tội bị dừng lại nhưng người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đó và vẫn muốn thực hiện tiếp hành vi 8
  15. phạm tội của mình, vì trong tư tưởng, suy nghĩ của họ bao giờ cũng mong muốn thực hiện toàn bộ quá trình đó để đạt được kết quả như dự định đã đặt ra ban đầu. Qua thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy có không ít trường hợp người phạm tội không thực hiện được đầy đủ những dự định đó hoặc họ không tiến hành thực hiện được hành vi phạm tội đến cùng vì những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của mình. Quan điểm về các giai đoạn thực hiện tội phạm còn được GS.TSKH. Lê Văn Cảm tổng kết trong sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2005 về khái niệm các giai đoạn thực hiện tội phạm, cụ thể như sau: 1) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất (nội dung) của hành vi đã được thực hiện và thời điểm chấm dứt xử sự có tính chất tội phạm (B.V.Zđravômưxlôv); 2) Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các giai đoạn nhất định của việc chuẩn bị và thực hiện tội phạm cố ý, được phân biệt với nhau theo tính chất của những hành vi được thực hiện và thời điểm chấm dứt hành vi ấy (X.G.Kelina); 3) Các giai đoạn của việc chuẩn bị và trực tiếp thực hiện tội phạm được quy định trong luật và được phân biệt với nhau theo tính chất và nội dung của hành vi người phạm tội thực hiện, cũng như mức độ kết thúc hành vi phạm tội (Ê.F.Pobegailô)… [2, tr.440-441]. Tuy nhiên cho đến nay khái niệm tội phạm chưa hoàn thành vẫn chưa được pháp luật hình sự Việt Nam ghi nhận cụ thể. Tại Điều 29, Chương 6 trong Bộ luật hình sự của Liên Bang Nga quy định: “1. Tội phạm chưa hoàn thành là chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt...” [21, Điều 29]. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra quan điểm về khái niệm tội phạm chưa hoàn thành như sau: tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt [2, tr.440-441]. Theo tác giả, quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm là phù 9
  16. hợp với những quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các giai đoạn thực hiện tội phạm của tội phạm chưa hoàn thành, từ đó phân biệt giữa khái niệm tội phạm chưa hoàn thành và khái niệm tội phạm đã hoàn thành, đồng thời làm rõ cơ sở để phân chia các giai đoạn phạm tội để xác định đúng và đầy đủ trách nhiệm hình sự đối với từng giai đoạn thực hiện tội phạm cụ thể. Như vậy, chúng ta có thể hiểu khái niệm tội phạm chưa hoàn thành là hành vi chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt, nội dung cụ thể của hai giai đoạn thực hiện tội phạm này như sau: + Giai đoạn chuẩn bị phạm tội: Chuẩn bị phạm tội là một giai đoạn phạm tội trong tội phạm chưa hoàn thành và là một phần của quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, người phạm tội đã có hành vi nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết, tạo tiền đề cho việc thực tiện tội phạm, tuy nhiên người phạm tội chưa bắt đầu thực hiện tội phạm đó, tức là chưa có hành vi xâm phạm đến đối tượng tác động. Ví dụ như: A chuẩn bị các công cụ sử dụng để phá khóa với mục đích đến nhà B phá khóa trộm cắp tài sản của gia đình B, nhưng khi chuẩn bị thực hiện hành vi thì bị lực lượng dân quân tự vệ phát hiện nên A không thực hiện hành vi trộm cắp tại nhà B. Giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự, theo đó chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm. Người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng phải chịu trách nhiệm hình sự [16, Điều 17]. Pháp luật hình sự quy định thời điểm sớm nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội là khi tội phạm đã bắt đầu thực hiện những hành vi với mục đích tạo ra những điều kiện vật chất, tinh thần để cho quá trình phạm tội diễn ra thuận lợi, dễ dàng và ngay trước khi người phạm tội bắt đầu thực hiện hành vi 10
  17. khách quan được phản ánh trong cấu thành tội phạm là thời điểm muộn nhất của giai đoạn chuẩn bị phạm tội, một khi người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm thì mặc nhiên đã không còn ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Đặc điểm của hành vi chuẩn bị phạm tội là chưa trực tiếp làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động của tội phạm để gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể của loại tội phạm định thực hiện nhưng có ảnh hưởng tới khả năng gây thiệt hại của tội phạm. Kết quả của việc thực hiện tội phạm phần nào phụ thuộc vào hành vi chuẩn bị phạm tội, nếu quá trình chuẩn bị phạm tội càng chi tiết, kĩ lưỡng thì quá trình thực hiện tội phạm có khả năng gây ra hậu quả cao hơn, nghiêm trọng hơn. Theo luật hình sự Việt Nam, không phải hành vi chuẩn bị phạm tội nào cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được đánh giá và phân biệt thành hai loại: loại hành vi chuẩn bị phạm tội phải truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tội định phạm là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng) và loại không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mặc dù cả hai loại đều chưa gây ra hậu quả, nhưng tính chất nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội có khác nhau và sự khác nhau đó lại không phụ thuộc vào tính chất và mức độ của hành vi chuẩn bị phạm tội mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà người đó định thực hiện. Hành vi chuẩn bị phạm tội thường được thể hiện dưới các dạng sau: - Chuẩn bị kế hoạch phạm tội như: bàn bạc, phân công trách nhiệm cho từng người, kế hoạch tiêu thụ tài sản hay kế hoạch che giấu tội phạm... Dạng chuẩn bị phạm tội này thường xảy ra đối với những tội phạm được thực hiện có đồng phạm hoặc có tổ chức. Tuy nhiên cũng có trường hợp tội phạm chỉ do một người thực hiện vẫn có sự chuẩn bị kế hoạch phạm tội. Ví dụ: A có ý định đầu độc B, tự A đã vạch ra một kế hoạch như mua thuốc độc ở đâu, bỏ 11
  18. thuốc độc vào nước cho B uống như thế nào, sau khi B trúng độc thì làm thế nào để che giấu được tội phạm... - Thăm dò hoặc tìm địa điểm phạm tội, dạng chuẩn bị này chủ yếu đối với các tội xâm phạm sở hữu hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân. Ví dụ: A muốn trộm cắp nhà B, nên A đã nhiều lần đến nhà B thăm dò xem gia đình B thường vắng mặt nhà vào giờ nào, quy luật sinh hoạt của gia đình ra sao để tiến hành trộm cắp. - Chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội: chuẩn bị xe máy để đi cướp tài sản, chuẩn bị dao để giết người, chuẩn bị thuốc độc để đầu độc, chuẩn bị xăng để đốt nhà, chuẩn bị thuốc mê để gây mê cho người có tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản của họ, chuẩn bị con dấu giả để lừa đảo... - Loại trừ trước những trở ngại khách quan để thực hiện tội phạm được thuận lợi, dễ dàng như: tắt hệ thống camera để đêm đột nhập vào công ty trộm tài sản, cho bảo vệ uống rượu say để đột nhập vào cơ quan được dễ dàng... Khi người phạm tội thực hiện tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, trong trường hợp hành vi phạm tội đã cấu thành tội phạm độc lập khác thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội độc lập đó. Ví dụ như: A có ý định giết B nên đã tìm mua một khẩu súng quân dụng, sau đó A đi tìm B để giết, nhưng trên đường đi đã bị công an xã bắt. Vậy hành vi của A đã cấu thành một tội độc lập là tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng (Điều 230 Bộ luật hình sự), ngoài ra A còn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. + Giai đoạn phạm tội chưa đạt: Điều 18 của Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội” [16, Điều 18]. Chỉ có các tội được thực hiện do cố ý thì mới có phạm tội chưa đạt. 12
  19. Điều luật không quy định hình thức cố ý trực tiếp hay cố ý gián tiếp, nhưng căn cứ vào nội dung của điều luật quy định “không thực hiện được đến cùng”, tức là người phạm tội có mục đích thực hiện tội phạm đến cùng, nên họ mong muốn cho hậu quả xảy ra chứ không phải để mặc cho hậu quả xảy ra. Do đó phạm tội chưa đạt chỉ có thể xảy ra đối với trường hợp cố ý trực tiếp. Theo luật hình sự Việt Nam, có ba dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt [23, tr.156-158]: Dấu hiệu thứ nhất: người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm. Đây là dấu hiệu phân biệt phạm tội chưa đạt với chuẩn bị phạm tội. Sự bắt đầu này thể hiện ở chỗ: người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng người khác (như đã đâm, đã bắn, đã chém) là hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm tội giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự). Cũng được coi là đã bắt đầu thực hiện tội phạm nếu người phạm tội đã thực hiện được hành vi đi liền trước hành vi khách quan. Đó là những hành vi (xét về khách quan và chủ quan) thể hiện là sự bắt đầu của hành vi khách quan và kế tiếp ngay sau nó hành vi khách quan sẽ xảy ra. Ví dụ: hành vi nhặt dao để đâm, lắp đạn để bắn trong trường hợp phạm tội giết người được coi là hành vi đi liền trước. Những hành vi này chưa phải là hành vi khách quan, chưa phải là hành vi tước đoạt tính mạng người khác (hành vi đâm, hành vi bắn) nhưng nó là sự bắt đầu của hành vi khách quan và ngay sau nó hành vi khách quan (hành vi đâm, hành vi bắn) sẽ xảy ra. Những hành vi “đi liền trước” như vậy tuy thể hiện là sự chuẩn bị nhưng vì rất gần với hành vi khách quan, không tách ra được nên cũng được coi là hành vi thực hiện tội phạm. Dấu hiệu thứ hai: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng (về mặt pháp lí), nghĩa là hành vi của họ chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm. Những trường hợp hành vi 13
  20. phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu (thuộc mặt khách quan) của cấu thành tội phạm có thể xảy ra ở một trong những dạng dưới đây: - Chủ thể chưa thực hiện được hành vi khách quan mà mới chỉ thực hiện được “hành vi đi liền trước”. Ví dụ: kẻ giết người mới nhặt dao để đâm thì bị bắt giữ. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ: kẻ giết người đã đâm được nạn nhân nhưng nạn nhân không chết. - Chủ thể đã thực hiện được hành vi khách quan nhưng chưa thực hiện hết. Ví dụ: kẻ hiếp dâm mới vật ngã được nạn nhân nhưng chưa thực hiện được việc giao cấu thì bị bắt giữ. - Hậu quả thiệt hại tuy đã xảy ra nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện. Ví dụ: A cầm dao đột nhập vào nhà để giết B, A thấy B chùm chăn nằm trên giường liền lao tới và đâm nhiều nhát vào người B, nghĩ rằng B đã chết nên A bỏ đi. Tuy nhiên trên thực tế, trước khi A đột nhập vào nhà B thì B đã chết, như vậy hậu quả chết người tuy đã xảy ra với B nhưng không có quan hệ nhân quả với hành vi khách quan của A. Trong bốn dạng có thể xảy ra nêu trên, hai dạng (2 và 4) chỉ có thể có ở những tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất. Dấu hiệu thứ ba: người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của họ. Bản thân người phạm tội vẫn muốn tội phạm hoàn thành nhưng tội phạm không hoàn thành là do: - Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống cự lại được hoặc đã tránh được; - Người khác đã ngăn chặn được; - Có những trở ngại khác như bắn nhưng đạn không nổ; thuốc độc để đầu độc không đủ liều lượng. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2