Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam
lượt xem 2
download
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ", đánh giá đúng tình hình phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐỖ THỊ THANH GIANG TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. HOÀNG VĂN HÙNG HÀ NỘI -2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa có ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều đƣợc trích dẫn nguồn đầy đủ và chính xác. Trong quá trình thực hiện luận văn đƣợc sự quan tâm hƣớng dẫn cụ thể, sâu sắc của thầy Hoàng Văn Hùng luận văn đƣợc hoàn thành theo đúng quy trình, nội dung. Xin trân trọng cám ơn sự quan tâm hƣớng dẫn tận tình của thầy. Tác giả luận văn Đỗ Thị Thanh Giang
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ ............................................................................. 5 1.1. KHÁI NIỆM TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ .................... 5 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ .............. 9 1.2.1. Sự cần thiết ........................................................................................... 9 1.2.2. Ý nghĩa................................................................................................ 10 1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........... 13 1.3.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử trƣớc pháp điển hóa ............................................................. 13 1.3.2. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử khi pháp điển hóa ................................................................ 20 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 23
- Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ THEO QUI ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 .......................................................................................... 24 2.1. CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM ............................................................. 24 2.2. KHÁCH THỂ CỦA TỘI PHẠM ....................................................... 27 2.3. MẶT KHÁCH QUAN CỦA TỘI PHẠM .......................................... 28 2.4. MẶT CHỦ QUAN CỦA TỘI PHẠM................................................ 36 2.5. HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢM, ĐANG BỊ XÉT XỬ......................................................................................... 39 2.5.1. Phạm tội thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 1 Điều 311 Bộ luật hình sự.......................................................................................... 39 2.5.2. Phạm tội thuộc các trƣờng hợp quy định tại khoản 2 Điều 311 Bộ luật hình sự.......................................................................................... 40 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 44 Chƣơng 3: THỰC TIỄN XÉT XỬ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ ........................... 45 3.1. THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI "TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ " TRONG 5 NĂM GẦN ĐÂY (2009 - 2013)....................................... 45 3.1.1. Thực trạng và diễn biến tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang xét xử, đang dẫn giải .................................................................. 45 3.1.2. Cơ cấu và tính chất của tình hình tội trốn khỏi nơi giam, giữ ............ 47 3.1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ ............................ 52
- 3.2. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ" ................ 55 3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội trốn khỏi nơi giam, giữ ....................................................... 55 3.2.3. Các giải pháp cụ thể............................................................................ 70 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 81 KẾT LUẬN .................................................................................................... 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
- DANH MỤC CÁC BẢNG Stt Số hiệu bảng Tên bảng Trang 1 Bảng 3.1. Thống kê số liệu số bị cáo và số vụ án phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong 5 năm từ 2009 đến 2013 46 2 Bảng 3.2. Thống kê số vụ án phạm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp và số vụ án phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong 5 năm từ 2009 đến 2013 47 3 Bảng 3.3. Bảng thống kê số liệu các bị cáo đã bị xét xử về tội trốn khỏi nơi giam, giữ với số bị cáo phạm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp 48 4 Bảng 3.4. Thống kê về tình hình áp dụng hình phạt đối với bị cáo phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ ở Việt Nam giai đoạn 2009 - 2013 50 5 Bảng 3.5. Thống kê số liệu các vụ phạm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong thời gian từ 2009 đến 2013 51 6 Bảng 3.6. Phân tích đặc điểm nhân thân bị cáo đã xét xử sơ thẩm (1522/1123 Bị cáo thuộc các đối tƣợng cần nghiên cứu mang ý nghĩa lớn nhất về mặt nhân thân) 53
- DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Stt Số hiệu biểu đồ Tên biểu đồ Trang 1 Biểu đồ 3.1. Số vụ và số bị cáo phạm tội trốn khỏi nơi giam, giữ đã đƣợc xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2009 – 2013 46 2 Biểu đồ 3.2. Cơ cấu tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong các tội phạm nói chung giai đoạn 2009 - 2013 48 3 Biểu đồ 3.3. Cơ cấu tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp giai đoạn 2009 - 2013 49 4 Biểu đồ 3.4. Cơ cấu bị cáo trốn khỏi nơi giam, giữ trong nhóm các bị cáo phạm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp giai đoạn 2009 - 2013 49 5 Biểu đồ 3.5. Phân tích đặc điểm nhân thân bị cáo 54
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các cơ quan tƣ pháp có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền lực của nhân dân, nhiệm vụ của các cơ quan tƣ pháp là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác góp phần đảm bảo an ninh chính trị và an toàn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Ngay từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến các kỳ đại hội sau này Đảng ta đều đánh giá cao vai trò của các cơ quan tƣ pháp đã liên tục đƣa ra các chủ trƣơng để công tác tƣ pháp đáp ứng đƣợc trong tình hình mới nhƣ các biện pháp về tổ chức, quy định về chức năng, quyền hạn, tăng cƣờng về cơ sở vật chất, đào tạo, các biện pháp về pháp luật trong đó có biện pháp pháp luật hình sự là một biện pháp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ cho hoạt động tƣ pháp tránh khỏi sự xâm hại từ phía tội phạm. Tuy nhiên hoạt động tƣ pháp còn bộc lộ nhiều hạn chế nhƣ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tƣ pháp chƣa đƣợc hoàn thiện, đội ngũ còn thiếu và yếu, cơ sở vật chất làm việc của các cơ quan tƣ pháp còn thiếu thốn, lạc hậu. Những hạn chế trên ảnh hƣởng không nhỏ tới hoạt động của các cơ quan tƣ pháp. Với tầm quan trọng nhƣ vậy, việc đảm bảo cho sự hoạt động của các cơ quan tƣ pháp là một yêu cầu bức thiết. Từ trƣớc khi có Bộ luật hình sự 1985, các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã đƣợc quy định ở nhiều văn bản khác nhau, đến khi có Bộ luật hình sự thì loại tội phạm này đã đƣợc quy định thành một chƣơng vừa có tính chất của tội phạm là xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp mà còn thể hiện thái độ cƣơng quyết đấu tranh đối với loại tội phạm này. 1
- Trong các tội phạm hoạt động tƣ pháp thì tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử (sau đây còn gọi tắt là tội trốn khỏi nơi giam, giữ) chiếm tỷ lệ nhiều nhất và vì vậy gây tác hại lớn nhất đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp, trật tự an toàn xã hội, gây mất lòng tin của nhân dân vào pháp luật. Tuy nhiên, những năm qua chƣa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ toàn diện tội phạm này mặc dù cả lý luận và thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề đấu tranh phòng và chống tội phạm nói trên. Do đó, tôi đã chọn đề tài "Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu Các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong những năm qua ít đƣợc nghiên cứu sâu, đồng bộ và toàn diện. Cuối thập kỷ 90 các tác giả Phạm Thanh Bình và Nguyễn Vạn Nguyên đã viết cuốn Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp, 1990, Nxb Pháp lý theo hình thức bình luận Bộ luật hình sự, cũng giống nhƣ giáo trình của các trƣờng Đại học, nhằm đƣa ra những khái niệm, những cấu thành cơ bản nhất của loại tội phạm này và sau đó cũng có một số tác giả cũng đã viết về vấn đề này hoặc các thông tƣ hƣớng dẫn cũng nhằm giải thích một số khái niệm, hƣớng dẫn về định lƣợng nhằm đáp ứng công tác xét xử. Công trình khoa học tiếp theo là luận án phó tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Tất Viễn đề cập đến nhóm "Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp" trong Bộ luật hình sự không đi sâu vào nguyên nhân và điều kiện phạm tội dƣới góc độ tội phạm học. Gần đây, thì có công trình nghiên cứu của tác giả Trần Quân viết về "Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử ở Việt nam - Thực trạng và giải pháp". Tuy nhiên, các tác giả nghiên cứu chủ yếu về nguyên nhân và điều kiện 2
- phạm tội chứ không đi sâu vào các quy định của Bộ luật hình sự do đó tôi chọn đề tài "Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo pháp luật hình sự Việt Nam" để làm luận văn tốt nghiệp, nhằm khái quát sự hình thành và phát triển các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng đối với tội trốn khỏi nơi giam, đồng thời nghiên cứu các quy định của luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội phạm này. Phân tích và làm rõ thực trạng tội trốn khỏi nơi giam ở Việt Nam hiện nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn khỏi nơi giam. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt nam về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ", đánh giá đúng tình hình phạm tội, đƣa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ sau: - Khái quát về mặt lịch sử lập pháp của Việt nam từ trƣớc đến nay về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ". - Phân tích cơ sở trách nhiệm hình sự của tội phạm. - Thực tiễn xét xử tội phạm trong 5 năm trở lại của tội trốn khỏi nơi giam, giữ. - Phƣơng hƣớng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xét xử đối với tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử". 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội trốn khỏi nơi giam, giữ theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong 5 năm gần đây (2009 - 2013). 3
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài thực hiện trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể khác nhƣ lịch sử, thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Lần đầu tiên với phạm vi của một luận văn cao học nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về tội "Trốn khỏi nơi giam, giữ" trên hai phƣơng diện luật hình sự. - Khái quát đánh giá đƣợc các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam trong đấu tranh phòng, chống tội trốn khỏi nơi giam, giữ. - Nắm đƣợc kết quả thực tiễn xét xử tội phạm này và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xét xử. - Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo, các cơ quan bảo vệ pháp luật có thể dùng để rút kinh nghiệm trong công tác điều tra, truy tố, xét xử. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mở đầu và kết luận. Luận văn gồm 3 chƣơng. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc Trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử. Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử theo qui định của Bộ luật hình sự năm 1999. Chương 3: Thực tiễn xét xử và phƣơng hƣớng hoàn thiện tội Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc Trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử. 4
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ 1.1. KHÁI NIỆM TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử đƣợc qui định trong chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp của BLHS 1999 với mục đích bảo đảm sự đúng đắn trong hoạt động tƣ pháp. Trong BLHS 1999 có hai nhóm tội phạm: Các tội phạm về chức vụ và các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp qui định khái niệm về Tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp và khái niệm về các tội phạm chức vụ. Đã có ý kiến cho rằng không nên qui định khái niệm về các tội này cho phù hợp và tƣơng thích với các nhóm tội phạm trong phần riêng BLHS. Tuy nhiên, do nội hàm của khái niệm “công vụ” và khái niệm “tƣ pháp” có những cách hiểu khác nhau nên cần phải qui định rõ để khẳng định nội dung của khái niệm tránh sự hiểu lầm và giải thích quá rộng hoặc quá hẹp theo ý chủ quan của ngƣời áp dụng pháp luật. Mặt khác, nếu không qui định công dân sẽ khó hiểu để áp dụng khi có liên quan. So với khái niệm về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp trong Bộ luật hình sự 1985, thì BLHS 199 có một số điểm đã đƣợc sửa đổi, bổ sung, cụ thể ở Bộ luật hình sự 1985 nêu “... bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, của các tổ chức xã hội và của công dân” thì BLHS 1999 đƣợc thay bằng cụm từ “... bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Ở BLHS 1999 khái niệm này rộng hơn, nếu nói tổ chức xã hội thì chƣa bao hàm hết các tổ chức khác nhƣ tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị... Và khi nói quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân sẽ đầy đủ và chính xác hơn là “quyền lợi” nhƣ đã nêu trong Bộ luật hình sự năm 1985. 5
- Khái niệm về các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc quy định ở Điều 292 Bộ luật hình sự 1999 cho thấy hành vi phạm tội này là các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những ngƣời có nhiệm vụ tiến hành tố tụng, những ngƣời tham gia tố tụng hoặc những ngƣời khác thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp (trong một số trƣờng hợp còn xâm hại đến cả các quyền của công dân cũng nhƣ quyền lợi của Nhà nƣớc, của tổ chức) thông qua hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ quyền hạn của ngƣời là cán bộ, nhân viên trong các cơ quan tƣ pháp hoặc qua hành vi cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp do những ngƣời có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nƣớc, các tổ chức những ngƣời tham gia tố tụng hoặc những ngƣời khác thực hiện. Là một tội phạm trong nhóm tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp thuộc nhóm chủ thể không phải là ngƣời có chức vụ quyền hạn trong hoạt động tƣ pháp nhƣng lại xâm hại đến sự đúng đắn của hoạt động tƣ pháp, Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử do đó đƣợc qui định tại Điều 311 Chƣơng XXII BLHS. Theo qui định này thì Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử có các đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, tội trốn khỏi nơi giam là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đó là hành vi gây nên (hoặc có khả năng thực tế) gây nên thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội trong hoạt động tƣ pháp đƣợc pháp luật hình sự bảo vệ. Đây là đặc điểm thể hiện bản chất xã hội và thuộc tính khách quan của tội phạm, là căn cứ để phân biệt hành vi là tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác. Thứ hai, Tội trốn khỏi nơi giam, giữ là hành vi bị luật hình sự cấm (còn gọi là tính trái pháp luật hình sự của tội phạm). Đây là đặc điểm pháp lý (hình thức) của các tội phạm đƣợc quy định trong luật hình sự nói chung và 6
- tội trốn khỏi nơi giam, giữ nói riêng. Tính trái pháp luật hình sự thể hiện ở việc Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009) tại Điều 311 đã ngăn cấm việc thực hiện tội phạm này bằng cách đe dọa áp dụng chế tài hình sự (hình phạt) đối với ngƣời thực hiện hành vi phạm tội là phạt tù có thời hạn.v.v. Đặc điểm này lại một lần nữa cụ thể hóa Điều 2 Bộ luật hình sự hiện hành: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự" và cụ thể hóa cho một nguyên tắc cơ bản của luật hình sự đó là nguyên tắc: không có tội phạm, không có hình phạt nếu không đƣợc luật quy định. Thứ ba, tội trốn khỏi nơi giam do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý. Cũng giống nhƣ các tội phạm khác, chủ thể của tội trốn khỏi nơi giam nhất thiết phải là ngƣời ở trong trạng thái bình thƣờng (tức là không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh lý khác làm mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi), có khả năng nhận thức đƣợc đầy đủ tính chất thực tế cũng nhƣ tính chất pháp lý của hành vi do mình thực hiện và điều khiển đƣợc đầy đủ hành vi đó. Đồng thời, tại thời điểm thực hiện tội phạm, ngƣời này còn phải đạt đến một độ tuổi nhất định mà luật hình sự quy định phải chịu trách nhiệm hình sự. Cùng với năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì lỗi cũng là một đặc điểm chủ quan và mang tính bắt buộc đối với mọi cấu thành tội phạm. Ở tội trốn khỏi nơi giam, giữ lỗi của chủ thể khi thực hiện tội phạm là lỗi cố ý: ngƣời phạm tội nhận thức rõ hành vi bỏ trốn là nguy hiểm cho xã hội, thấy trƣớc đƣợc hậu quả của hành vi do mình gây nên nhƣng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra. Thứ tư, tội phạm này xâm phạm đến hoạt đúng đắn của các cơ quan tư pháp, đồng thời xâm phạm đến chế độ giam giữ của trại giam và tạm giữ. Hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ là xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ 7
- quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Các hoạt động của các cơ quan tƣ pháp cụ thể là các quyết định tạm giam, tạm giữ, quyết định thi hành án… cần phải đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh. Đó chính là pháp luật đƣợc thực thi có hiệu quả trên thực tế, thể hiện thái độ tôn trọng pháp luật và khả năng cải tạo của ngƣời phạm tội. Hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ của ngƣời bị tạm giam, bị giam, ngƣời bị tạm giữ gây khó khăn cho hoạt động của các cơ quan tƣ pháp trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, làm cho hoạt động này bị kéo dài về thời gian hoặc vụ án có thể không thực hiện đƣợc ở các giai đoạn do ngƣời phạm tội bỏ trốn. Hành vi trốn này làm cho tính đúng đắn của hoạt động tƣ pháp không đƣợc tuân thủ, tức là không thể tiến hành theo luật định khi có hành vi phạm tội xảy ra. Nhƣ phải tạm đình chỉ khi đang điều tra, truy tố hoặc không thể thi hành án khi tội phạm đã bỏ trốn, vì thế mục đích trừng trị và giáo dục đối với kẻ phạm tội không thể thực hiện đƣợc. Mặc dù Bộ luật hình sự năm 1999 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2009) không đƣa ra định nghĩa pháp lý về Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử. Song, xuất phát từ khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự: "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cánh cố ý hoặc vô ý xâm phạm tới độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa". Đồng thời, dựa vào khái niệm Tội hoạt động tƣ pháp qui định tại Điều 292 và đặc điểm pháp lý của Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử cho phép ta đƣa ra khái niệm về tội trốn khỏi nơi giam, giữ nhƣ sau: 8
- Trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử là hành vi bỏ trốn của người đang bị giam, giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự tư pháp, đến sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. 1.2. SỰ CẦN THIẾT VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUI ĐỊNH TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ 1.2.1. Sự cần thiết Trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nƣớc, hệ thống các cơ quan tƣ pháp giữ một vị trí rất quan trọng. Hệ thống tƣ pháp trƣớc hết đƣợc coi là một trong những yếu tố của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội; thứ hai hệ thống cơ quan tƣ pháp đƣợc coi là một khâu trong cơ cấu thực thi quyền tƣ pháp bảo đảm việc xét xử và và giải quyết vụ án đúng đắn; và cuối cùng hệ thống tƣ pháp đƣợc coi là một hệ thống của cả quá trình áp dụng pháp luật từ phía cơ quan Nhà nƣớc. Nhƣ vậy, hệ thống cơ quan tƣ pháp có mối liên hệ bên trong và bên ngoài của nó. Các mối liên hệ bên ngoài nhƣ mối liên hệ giữa hệ thống tƣ pháp và các quá trình, các yếu tố kinh tế xã hội với các cơ quan tổ chức trong hệ thống chính trị và mối liên hệ với chính đối tƣợng của nó là vi phạm pháp luật và tội phạm. Còn các mối liên hệ bên trong của hệ thống này đƣợc thể hiện giữa các bộ phận hợp thành của hệ thống và sự tƣơng tác giữa các khâu trong hệ thống tƣ pháp với nhau. Trong hệ thống đó thì Toà án giữ vị trí trung tâm, các khâu khác giữ vị trí tƣơng đối độc lập với Toà án. Đó là các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các cơ quan tổ chức liên quan đến hoạt động xét xử nhƣ luật sƣ, giám định tƣ pháp, hộ tịch, lý lịch tƣ pháp, công chứng Nhà nƣớc[45]. Với vị trí quan trọng đặc biệt, hệ thống các cơ quan tƣ pháp nói chung và Toà án nói riêng là công cụ đắc lực để bảo vệ chế độ XHCN, bảo 9
- vệ công lý, giữ gìn trật tự kỷ cƣơng xã hội, bảo vệ quyền lợi của Nhà nƣớc, tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, điều kiện cần thiết để bảo đảm việc duy trì công lý nói chung và hoạt động bình thƣờng của các cơ quan Nhà nƣớc khác là phải đảm bảo cho sự hoạt động của cơ quan tƣ pháp đƣợc bình thƣờng. Do đó cần thiết phải đƣợc bảo vệ bằng luật hình sự. Bộ luật hình sự 1985 và Bộ luật mới 1999 đều dành một chƣơng riêng quy định về nhóm tội này, trong đó có Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử Theo đó, hành vi trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử và thi hành án, xâm phạm đến anh ninh, an toàn, trật tự nơi giam giữ cần phải đƣợc hình sự hóa trong Bộ luật hình sự. Nhƣ đã nêu, hoạt động của cơ quan tƣ pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án) có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động chung của Bộ máy Nhà nƣớc. Nó không những góp phần bảo đảm cho hoạt động bình thƣờng của toàn xã hội thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc và của công dân, mà còn góp phần vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm, giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân. Nhƣ vậy đòi hỏi cần phải có biện pháp bảo vệ hoạt động này. 1.2.2. Ý nghĩa Việc quy định Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử trong Chƣơng các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp là điều rất cần thiết và có ý nghĩa sau: Thứ nhất, việc qui định tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dân giải, đang bị xét xử trƣớc hết bảo vệ đƣợc lợi ích của Nhà nƣớc, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đề cao tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Khi qui định Tội… nhà làm luật 10
- hƣớng tới mục đích mọi hành vi phạm tội đều đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý công minh theo đúng pháp luật, thông qua đó bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà nƣớc, xã hội và công dân. Vì vậy, việc hiện diện của tội… trong BLHS đã góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Thứ hai, việc qui định tội tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dân giải, đang bị xét xử bảo đảm cho sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan tƣ pháp tạo điều kiện cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đƣợc thực hiện một cách có hiệu quả. Là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời có hành vi trốn khỏi nơi giam giữ. Pháp luật hình sự của Nhà nƣớc ta quy định về cơ sở của trách nhiệm hình sự “Chỉ ngƣời nào phạm một tội đã đƣợc Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 2 Bộ luật hình sự) và mọi hành vi phạm tội phải đƣợc phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Việc Bộ luật hình sự quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự có ý nghĩa chính trị - xã hội cũng nhƣ pháp lý quan trọng. Hành vi ở đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý và đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, tức là hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Quy định đó là một đảm bảo quan trọng cho nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, loại trừ trách nhiệm hình sự theo nguyên tắc tƣơng tự đã từng đƣợc áp dụng trong thực tiễn tƣ pháp hình sự nƣớc ta ở thời kỳ nhất định trƣớc pháp điển hoá lần thứ nhất thông qua Bộ luật hình sự 1985. Lý luận hình sự xã hội chủ nghĩa và pháp luật hình sự của nƣớc ta đều khẳng định vai trò số một của hành vi trong việc quy định cơ sở của trách nhiệm hình sự sau đó mới đến vai trò của các đặc điểm của nhân thân ngƣời phạm tội. Khi tiếp nhận hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, có lỗi với tƣ cách là cơ sở của trách nhiệm hình sự, khoa học luật hình sự xây dựng nên cấu thành tội phạm mà trong đó nhân thân chỉ phản ánh một số dấu hiệu nhận 11
- thức cơ bản là năng lực trách nhiệm hình sự và lứa tuổi, trình độ văn hoá... Nhƣ vậy cơ sở của trách nhiệm hình sự là hành vi phạm tội xẩy ra trong thực tế và hành vi đó có đầy đủ dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã đƣợc pháp luật hình sự quy định tức là có sự thống nhất giữa hai yếu tố: Cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý - giữa tội phạm xảy ra và cấu thành tội phạm. Đối với các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp cơ sở của trách nhiệm hình sự chính là hành vi xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án và đƣợc Bộ luật hình sự quy định tại chƣơng XXII phần các tội phạm. Giải quyết vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự tức là trả lời câu hỏi tại sao một ngƣời phải chịu trách nhiệm hình sự. Để làm sáng tỏ và lý giải cụ thể cơ sở của trách nhiệm hình sự, về mặt lý luận cần xem xét vấn đề từ cái góc độ dấu hiệu khách quan và chủ quan của cấu thành tội phạm. Vậy yếu tố của hành vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp đƣợc xác lập trên cơ sở khách quan và chủ quan nào? Về mặt khách quan đó là những yếu tố liên quan đến hành vi bên ngoài, hành động đó phải trông thấy đƣợc, nhận thấy đƣợc nhƣ khai báo gian dối, cản trở thi hành án... Còn về mặt chủ quan đó là hoạt động nội tâm của con ngƣời. Từ những tính chất trên có thể xác định ranh giới của hành vi pháp luật hay không phải là hành vi pháp luật liên quan đến hoạt động tƣ pháp của Nhà nƣớc. Cũng nhƣ những hành vi pháp luật khác, những hành vi xâm phạm hoạt động tƣ pháp chỉ bị trừng trị về hình sự khi luật hình sự quy định. Việc xác định nhƣ vậy sẽ biết đƣợc hành vi nào là tội phạm xâm phạm đến hoạt động tƣ pháp cần phải trừng trị bằng luật hình sự. Pháp luật chỉ ghi nhận những hành vi có khả năng biểu hiện ra bên ngoài, tức là cách cƣ xử có ý thức của con ngƣời ra thế giới khách quan bằng hành động hoặc không hành động. Tuy hành vi của con ngƣời do hoạt động nội tại điều khiển nhƣng không phải mọi hoạt động tâm lý bên trong của họ đều bộc lộ ra bên ngoài, và khi nó không bộc lộ ra bên ngoài thì pháp luật sẽ 12
- không tác động đến, những tƣ tƣởng, suy nghĩ của con ngƣời dù nguy hiểm đến đâu cũng không thể là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi đƣợc quy định trong luật hình sự đƣợc thể hiện dƣới dạng hành động (là hình thức xử sự tích cực của con ngƣời): nhƣ kết luận giám định sai sự thật, ra bản án trái pháp luật... Bên cạnh đó là trƣờng hợp không hành động, không hề biểu hiện tâm lý ra bên ngoài bằng những hành vi, cử chỉ nhƣng luật hình sự vẫn quy định là tội phạm nhƣ từ chối khai báo, từ chối kết luận giám định, không tố giác tội phạm... Vì vậy, việc qui định tội tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dân giải, đang bị xét xử có ý nghĩa là cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời có hành vi phạm tội, thông quá đó tính nghiêm minh của pháp luật đƣợc tôn trọng, các quyền và lộ ích hợp pháp đƣợc bảo đảm. Thứ ba, việc qui định tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dân giải, đang bị xét xử góp phần đề cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm của những cán bộ công tác trong các cơ quan tƣ pháp. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần tự giác của công dân tham gia vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Cùng với các biện pháp khác, hỗ trợ cho các biện pháp khác trong công cuộc xây dựng con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa, thiết lập lại kỷ cƣơng xã hội. 1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM, GIỮ HOẶC TRỐN KHI ĐANG BỊ DẪN GIẢI, ĐANG BỊ XÉT XỬ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.3.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ hoặc trốn khi đang bị dẫn giải, đang bị xét xử trƣớc pháp điển hóa 2.3.1.1. Tội trốn khỏi nơi giam, giữ trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long Bộ luật Hồng Đức đƣợc biên soạn và ban hành dƣới triều Lê Thánh tông niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) bao gồm 6 quyển, 722 điều, 13 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn