Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
lượt xem 3
download
Luận văn nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng; phân biệt Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với một số tội phạm khác; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẢI TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 6 1.1. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1945 đến năm 1975 6 1.2. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 11 1.3. Lịch sử lập pháp của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 16 Chương 2: TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI PHẠM NÀY Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 20 2.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 20 2.1.1. Khái niệm của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 20 2.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 24 2.2. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với một số tội phạm khác 64 2.2.1. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) với tội Vi phạm các quy định về quản lý rừng (Điều 176) 64
- 2.2.2. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) với tội Hủy hoại rừng (Điều 189) 66 2.2.3. Phân biệt tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) với tội Vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn thiên nhiên (Điều 191) 68 2.3. Tình hình tội phạm của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này ở nước ta từ năm 2005 đến nay 70 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG 77 3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 77 3.1.1. Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 77 3.1.2. Cơ sở thực tiễn của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng 81 3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng ở nước ta hiện nay 84 3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật 84 3.2.2. Giải pháp về tổ chức quản lý 94 3.2.3. Giải pháp về kinh tế - xã hội 98 3.2.4. Giải pháp về văn hóa - giáo dục 102 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
- MỞ ĐẦU 1. Lời nói đầu Rừng là một trong những nơi đầu tiên con người kiếm sống để tồn tại. Trong lịch sử hình thành và phát triển, con người luôn biết dựa vào rừng, tác động và khai thác rừng để duy trì sự sống. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác rừng, chính con người do cố ý hoặc vô ý đã làm cho rừng bị cạn kiệt. Đất nước ta có điều kiện địa lý đặc thù là quốc gia vùng nhiệt đới nên được thiên nhiên ưu đãi nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này. Đối với nước ta, rừng không chỉ có ý nghĩa về môi trường sinh thái mà còn có ý nghĩa quan trọng trong an ninh - quốc phòng. Trong gần một thế kỷ qua, rừng Việt Nam bị suy thoái nặng nề. Những tác động của quá trình phát triển, những ảnh hưởng của chiến tranh, của chất độc màu da cam đã khiến diện tích rừng của Việt Nam chỉ còn khoảng 43% diện tích đất tự nhiên. Và chúng ta đang phải đứng trước một thực trạng báo động đó là diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng. Tốc độ khai thác rừng cao hơn gấp nhiều lần so với tốc độ tái tạo rừng. Điều này dẫn đến con người phải đối mặt với những hiện tượng thiên nhiên xảy ra thường xuyên trong những năm gần đây như bão lũ, triều cường, khô hạn…, gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống xã hội. Tình trạng khai thác, chặt, phá, đốt rừng bừa bãi, nạn “lâm tặc”; khai thác tài nguyên, khoáng sản trái phép, nạn “khai thác thổ phỉ”; săn bắt động vật hoang dã, quí hiếm đang diễn ra ở nhiều địa phương trên toàn quốc; một số loài động vật hoang dã, quí hiếm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng hoặc mất môi trường sống; tài nguyên đang cạn kiệt, nạn chặt phá rừng ở nước ta đang diễn ra bức xúc. Theo Cục Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến hết tháng 12/2008, số vụ phá rừng trái phép tăng 14% so với cùng kỳ năm trước, gây thiệt hại 3.172,11 ha rừng, tăng gấp 02 1
- lần so với mức 1.585,74 ha năm 2007 [61]. Những thảm họa này có thể hạn chế, khắc phục được nếu không có những hành vi sai phạm của con người. Mặc dù, trong các quy định pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng cho thấy, các nhà làm luật đã nhận thức được tính nguy hiểm của loại tội phạm này, xác định phải tăng cường đấu tranh phòng chống loại tội này nhưng những quy định của luật về tội phạm này chưa cụ thể, rõ ràng, còn nhiều vướng mắc khi áp dụng trong thực tiễn, nhất là giai đoạn truy tố, xét xử. Điều đó tạo ra tính thiếu thống nhất, làm cho việc áp dụng pháp luật đạt hiệu quả không cao. Đây là vấn đề cần thiết phải nghiên cứu và tháo gỡ triệt để. Làm thế nào để đấu tranh phòng chống có hiệu quả đối với tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng? Thiết nghĩ cần phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống về mặt lý luận đồng thời bám sát thực tiễn để tìm hiểu về thực trạng, nguyên nhân, điều kiện của việc vi phạm, từ đó có những giải pháp cụ thể có tính khả thi nhằm đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này có hiệu quả. Với những lý do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong Luật Hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được quy định tại Điều 175 BLHS năm 1999 là loại quy phạm viện dẫn. Vì vậy, bên cạnh quy định trong BLHS, khi áp dụng loại tội phạm này còn được xem xét những quy định trong Luật Hành chính, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng… Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đã được nghiên cứu với tư cách là đề tài của các khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật học, thạc sỹ luật học hoặc rải rác trên một số Tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành. Trong lĩnh vực nghiên cứu, tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng được đề cập trong: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Đại học 2
- Luật Hà Nội); Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội); Bình luận khoa học BLHS năm 1985 (Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp); Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học BLHS Phần các tội phạm… Đây là loại tội phạm gây hậu quả lâu dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của con người, tuy nhiên, chưa có sự nghiên cứu mang tính hệ thống đối với việc phòng, chống loại tội phạm này, về thực trạng, về những vướng mắc bất cập trong áp dụng pháp luật khi xử lý. Những nghiên cứu nếu có cũng chỉ là việc nghiên cứu riêng lẻ, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực như: giá trị tài nguyên rừng, vai trò của rừng đối với môi trường sinh thái hoặc những vi phạm cụ thể trong quản lý hành chính, những vụ việc cụ thể khi bị đưa ra truy tố, xét xử. Vì vậy, cần phải có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, có hệ thống, bám sát thực tiễn để tìm hiểu về thực trạng của việc vi phạm để từ đó có những giải pháp cụ thể mang tính khả thi. 3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu về một tội danh cụ thể: - Nghiên cứu lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. - Phân biệt Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng với một số tội phạm khác. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Với phạm vi nghiên cứu nêu trên trong luận văn này, tác giả tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây: 3
- - Nghiên cứu và phân tích lịch sử lập pháp về Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích và làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý của Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác trong BLHS (176, 189, 191) nhằm áp dụng đúng đắn điều luật trong thực tiễn xét xử. - Khẳng định được mức độ nguy hiểm của tội phạm để có cách nhìn đúng đắn về tình hình VPPL về khai thác và bảo vệ rừng cũng như đánh giá đầy đủ những yếu tố làm cho tình hình tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng đang diễn biến ngày càng phức tạp với hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng lớn qua đó nhằm đưa ra một số giải pháp khả thi, góp phần đấu tranh phòng, chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật cũng như đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn - Nghiên cứu một cách hệ thống lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. - Phân tích một cách sâu sắc khái niệm và những dấu hiệu pháp lý tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng, đồng thời phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác có dấu hiệu pháp lý tương tự. 4
- - Khái quát tình hình tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng và thực tiễn xét xử tội phạm này trong 5 năm qua (2005-2009). - Đề xuất một số giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng một cách có hiệu quả. - Nội dung của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự, các nhà lập pháp, cho các học viên, các sinh viên đang theo học tại các cơ sở đào tạo luật cũng như tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn bao gồm 3 chương với kết cấu như sau: Chương 1: Lịch sử lập pháp về tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Chương 2: Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong BLHS Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử tội này ở nước ta hiện nay. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng. 5
- Chương 1 LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ KHAI THÁC VÀ BẢO VỆ RỪNG TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY 1.1. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1945 đến năm 1975 Năm 1945, sau khi giành được độc lập, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập, chính quyền cách mạng non trẻ đứng trước nhiều công việc cấp bách cần phải làm để khôi phục kinh tế, ổn định cuộc sống nhân dân. Trong đó, rừng với giá trị nhiều mặt của mình, đã được nhà nước chú trọng bảo vệ, thể hiện trong số những VBPL ban hành từ rất sớm. Những QHXH liên quan đến việc quản lý bảo vệ rừng được nhà nước ta chú trọng điều chỉnh. Thông tư số 1303 BCN ngày 28/06/1946 của Liên bộ Nội vụ - Công nghiệp đã quy định điều chỉnh những hành vi xâm hại đến rừng. Để bảo vệ rừng, Thông tư nêu rõ: Sẽ tịch thu, truy tố và trừng phạt đối với những hành vi sau: - Những ai chặt cây hay lấy bất cứ sản vật gì trong rừng mà không có giấy phép của Sở Lâm chính và trốn tránh không trả những món tiền khoán (nguyên gọi là thuế kiểm lâm). - Những ai dù có giấy phép mà chặt những cây không đúng phân tấc đã định. - Những ai chặt cây cấm. - Những ai làm than, củi, không có giấy phép hay có mà không trả tiền bán khoán. - Những ai mang lâm sản đi mà không có giấy má chứng minh hẳn hoi. - Những ai khai thác nhựa cây khi cây ấy chưa đủ kích thước đã định, dù họ đã có giấy phép khai thác (giấy chỉ cho khai thác cây đủ kích thước). 6
- - Những ai đặt những doanh nghiệp, hay chế tạo lâm sản, lò than, vôi, gạch, xưởng củi… trong rừng hay cách rừng từ hai cây số trở lên mà không có giấy phép. - Những ai đốt nương không có giấy phép hay đốt những miền mà tập tục ấy bị cấm ngặt… - Những ai đốt rừng hay gây những vụ cháy rừng [55]. Như vậy, dù chỉ mang tính sơ khai nhưng Thông tư 1303/BCN đã điều chỉnh nhiều loại hành vi, thể hiện sự đánh giá cao về nguồn tài nguyên rừng và đặt ra nhiệm vụ phải bảo vệ chúng. Trong tình hình của đất nước ta giai đoạn 1945-1946, việc quy định phải bảo vệ rừng có ý nghĩa rất quan trọng. Nó là cơ sở nền móng để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh những QHXH trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Tuy ra đời sớm nhưng Thông tư 1303/BCN không được thực hiện trong thực tiễn do bối cảnh toàn quốc kháng chiến bước vào cuộc chiến đấu chín năm chống thực dân Pháp. Nhưng qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng việc bảo vệ tài nguyên rừng luôn là vấn đề cấp thiết trong mọi thời kỳ và luôn được quan tâm của Nhà nước ta. Trong công cuộc kháng chiến, rừng càng tỏ rõ vai trò quan trọng của nó đối với an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 08/7/1952 Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 181/TTg nghiêm cấm đốt phá rừng để bảo vệ đường giao thông, trong đó quy định rõ “cấm không được đốt phá rừng trên những sườn núi ở sát cạnh đường”. Ngay sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống Pháp, ngày 03/10/1955 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 596- TTg ban hành việc vi phạm điều lệ, Điều 13, điểm c quy định: “những vụ phạm pháp có tính chất phá hoại sẽ do Tòa án xét xử theo hình luật”. Như vậy, việc điều chỉnh những QHXH liên quan đến lĩnh vực bảo vệ rừng bằng chế tài hình sự được hình thành rất sớm trong các VBPL do Nhà 7
- nước ta ban hành, nó được phát triển trong từng thời kỳ và là vấn đề luôn được Nhà nước ta quan tâm. Điều này càng củng cố trong giai đoạn từ năm 1955-1958, nhiều văn bản có liên quan đến rừng đã được ban hành và cao nhất, việc quy định rừng là tài sản của Nhà nước đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp năm 1959. Điều 12 Hiến pháp năm 1959 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định “các hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”. Như vậy, từ những quy định riêng lẻ chủ yếu phục vụ an ninh quốc phòng, vai trò giá trị nhiều mặt của rừng đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp. Điều này có ý nghĩa to lớn bởi nó là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để ban hành các VBPL, điều chỉnh cụ thể các QHXH liên quan đến lĩnh vực bảo vệ rừng và cũng chính là cơ sở để xây dựng hệ thống các cơ quan chức năng quản lý chuyên ngành phục vụ cho công tác đấu tranh phòng chống những loại tội phạm xâm hại đến rừng, bảo vệ có hiệu quả nguồn tài nguyên quý giá này cho đất nước. Giai đoạn này, đất nước Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai. Ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có sứ mạng thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời tiến hành cuộc đấu tranh chống Mỹ, ngụy ở miền Nam, tiến tới giải phóng hoàn toàn đất nước. Lúc này, hệ thống pháp luật kiểu mới của chúng ta đang trong quá trình tiền xây dựng. Hệ thống văn bản chủ yếu gồm Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và 1958), các sắc lệnh, pháp lệnh, nghị định, chỉ thị, thông tư… nhưng chưa có nhiều các đạo luật và bộ luật. Trong lĩnh vực bảo vệ rừng, Nhà nước đã bước đầu ban hành một số VBPL quan trọng để điều chỉnh việc quản lý hoạt động khai thác lâm sản và bảo vệ rừng. Đáng chú ý là các văn bản: Quyết định số 72/TTg ngày 07/7/1962 của Thủ 8
- tướng Chính phủ về thành lập Khu rừng quốc gia Cúc Phương. Đây là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được Nhà nước công nhận. Tiếp đó, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 39/CP ngày 05/4/1963 ban hành Điều lệ tạm thời về săn, bắt chim, thú rừng. Đây là một văn bản quan trọng kịp thời tạo cơ sở pháp lý để bước đầu quản lý, bảo vệ các loài động vật rừng ở nước ta, trong đó có nhiều loài có ích, hiếm và quý khỏi sự săn bắt tràn lan trái phép dẫn đến nguy cơ bị tiêu diệt. Ngày càng đánh giá cao vai trò quan trọng của rừng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và an ninh quốc phòng. Kiên quyết hơn, nhằm bảo vệ có hiệu quả tài nguyên rừng, phát triển một bước trong lập pháp, ngày 06/9/1972, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng. Đây là văn bản có tính pháp lý cao đầu tiên được ban hành trực tiếp quy định về việc quản lý, bảo vệ rừng và khai thác, sử dụng các nguồn lợi từ rừng ở Việt Nam, điều chỉnh nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ rừng nhằm “bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên phong phú của rừng, phát huy tác dụng to lớn của rừng trong việc giữ nguồn nước và điều tiết nước, giữ đất, chống xói mòn, chống cát bay, điều hòa khí hậu, hạn chế tác hại của gió, bão lũ, lũ lụt, hạn hán, nhằm phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng và nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần làm cho nước nhà giàu mạnh” (Trích phần mở đầu của Pháp lệnh). Pháp lệnh này gồm 5 chương, 26 điều. Trong đó, Chương II gồm 13 điều quy định về những biện pháp bảo vệ rừng. Cần lưu ý rằng 13 điều thuộc Chương II ngoài việc quy định những hành vi cấm không được làm, pháp lệnh còn quy định cụ thể những việc được làm đối với cư dân vùng có rừng phù hợp với tập quán sinh hoạt. Những hành vi bị cấm gồm: - Cấm phá rừng. - Cấm chặt cây rừng trái với các điều quy định của Nhà nước (khai thác). 9
- - Cấm săn bắt chim muông, thú rừng. - Cấm phá rừng, đốt rừng để làm nương rẫy. - Cấm đốt lửa trong rừng. - Cấm thả rông gia súc ở những khu rừng non, rừng mới trồng. - Những hành vi (có thể) được phép làm bao gồm: - Đốt lửa trong rừng và ven rừng để sinh hoạt, sản xuất, xây dựng hoặc phục vụ chiến đấu. - Nhân dân những xã có rừng được kiếm củi khô trong rừng để dùng và được thu nhặt lâm sản phụ theo quy định của Tổng cục lâm nghiệp. - Nhân dân những xã nơi có rừng cần lấy gỗ để sửa chữa nhà, làm nhà hoặc để dùng vào những việc cần thiết thì phải được cơ quan lâm nghiệp từ cấp huyện trở lên xét và cho phép [63]. Pháp lệnh cũng quy định nghĩa vụ, trách nhiệm, quyền hạn của cá nhân tổ chức trong việc bảo vệ rừng khi có xảy ra cháy rừng. Như vậy, lần đầu tiên những quy định về việc bảo vệ rừng đã được hình thành một cách có hệ thống, cụ thể, phù hợp với những điều kiện khách quan, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng pháp luật bảo vệ có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên rừng. Song song với việc quy định những biện pháp bảo vệ rừng, Điều 16 Pháp lệnh đã quy định việc thành lập lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng gọi là Kiểm lâm nhân dân. Lực lượng này được tổ chức thành hệ thống từ cấp huyện trở lên, đảm bảo thực hiện công tác bảo vệ rừng đến từng khu rừng. Pháp lệnh cũng quy định cụ thể việc thưởng phạt bằng các chế tài từ Điều 19 đến Điều 24. Trong đó, Điều 22 nói rõ những trường hợp phải bị truy cứu TNHS. Kẻ nào vi phạm một trong những điều ghi ở Chương I của Pháp lệnh này hoặc tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép lâm sản, gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng hoặc đã bị xử phạt mà còn vi phạm thì sẽ bị truy tố trước TAND và có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm và phạt tiền từ 200 đến 2000 đồng, hoặc một trong hai hình phạt đó. 10
- Cố ý hủy hoại tài nguyên rừng hoặc cố ý làm trái nguyên tắc, chính sách, chế độ thể lệ về bảo vệ rừng, gây thiệt hại đến tài nguyên rừng; thiếu tinh thần hoặc vô ý làm cháy rừng hay là có những hành động khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài nguyên rừng thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, ngày 21 tháng 10 năm 1970. Cố ý phá hoại tài nguyên rừng vì mục đích phản cách mạng thì bị xử phạt theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30 tháng 10 năm 1967.[63] Như vậy, các chế tài nghiêm khắc của luật hình sự đã được áp dụng để điều chỉnh nhiều loại hành vi xâm hại đến rừng. Tuy đã có Pháp lệnh làm cơ sở pháp lý nhưng thực tiễn đây là giai đoạn cả nước ta đang dồn sức người, sức của cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, do vậy, những quy định của Pháp lệnh chưa được cụ thể hóa và chưa được thực hiện sâu rộng trên phạm vi cả nước. 1.2. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1975 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 Sau ngày đất nước thống nhất, chúng ta bắt tay vào việc tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Lúc này, việc xây dựng một hệ thống luật pháp XHCN thống nhất, hoàn chỉnh và phù hợp là một nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trong đó, lĩnh vực pháp luật về bảo vệ rừng đã được Nhà nước ban hành nhiều VBPL có ý nghĩa. Đáng chú ý nhất là Thông tư số 3984-LN/KL ngày 15/10/1977 của Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn việc xử phạt hành chính đối với các vi phạm luật lệ và bảo vệ rừng. Đây là Thông tư hướng dẫn cụ thể hóa Pháp lệnh quy định việc bảo vệ rừng cả về phân hóa nhóm hành vi vi phạm và định lượng xử lý hành chính, xác định ranh giới giữa xử lý hành chính và truy cứu TNHS. Thông tư chia làm 4 phần, phần I về mục đích, yêu cầu của việc xử phạt hành chính; phần II về nội dung của việc xử phạt hành 11
- chính; phần III về các hành động vi phạm và mức độ xử phạt hành chính; phần IV về việc thi hành xử phạt hành chính. Trong toàn bộ nội dung của Thông tư 3984-LN/KL, phần thứ III là phần được xây dựng chi tiết, nên cụ thể nhóm hành vi và định lượng tương ứng cùng mức hình phạt, phần thứ III điều chỉnh những loại hành vi sau: I. Phá rừng trái phép: 1. Được phép phá rừng những đã tùy tiện sử dụng trái phép lâm sản hoặc bỏ lâm sản bị hư hỏng tại rừng. 2. Phá trái phép vào rừng kinh tế, hoặc phá vượt diện tích được phép. 3. Phá trái phép vào rừng khoanh nuôi bảo vệ. 4. Phá trái phép vào rừng cấm. II. Khai thác, chặt cây rừng trái phép. 1. Vi phạm quy định kỹ thuật khai thác rừng. 2. Được phép chặt cây, khai thác rừng, nhưng đã vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng. 3. Chặt cây lấy lâm sản không có giấy phép hoặc giấy phép không hợp lệ, hoặc lấy vượt khối lượng, sai chủng loại cho phép hay là vi phạm vào nhóm gỗ không được khai thác sử dụng. 4. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép trong rừng đang khoanh nuôi bảo vệ. 5. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép thuộc các loại thực vật quý hiếm. 6. Chặt cây, lấy lâm sản trái phép trong rừng cấm. III. Phát, đốt rừng để làm nương rẫy: 1. Phát đốt rừng kinh tế. 2. Phát đốt rừng khoanh nuôi bảo vệ. 3. Phát đốt rừng cấm hoặc rừng có các lại thực vật quý hiếm mọc tập trung. 12
- IV. Gây cháy rừng 1. Được phép đốt lửa trong rừng nhưng đã vi phạm các quy định về phòng cháy và chữa cháy rừng. 2. Đốt lửa trái phép gây cháy rừng kinh tế. 3. Gây cháy rừng khoanh nuôi bảo vệ. 4. Vi phạm các quy định cấm đốt lửa. 5. Gây cháy rừng cấm hoặc rừng có các loại thực vật quý hiếm mọc tập trung. V. Chăn thả gia súc trái phép vào rừng. 1. Chăn thả tự do gia súc vào rừng. 2. Thả rông gia súc vào những khu rừng non, rừng mới trồng hoặc mới dặm cây con. VI. Săn bắt trái phép chim, muông thú hoang dã. 1. Săn bắt không có giấy phép hoặc buôn bán vận chuyển chim thú đã săn bắn trái phép. 2. Săn bắt trái phép trong mùa cấm, hoặc khu vực cấm săn, hoặc dùng những phương tiện cấm dùng để săn bắt chim thú, hoang dã. 3. Săn bắt trái phép các loài chím thú quý hiếm cấm săn. 4. Săn bắt trái phép trong rừng cấm. VII. Vi phạm chế độ phòng trừ sâu bệnh phá hại rừng. VIII. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng trái phép lâm sản. 1. Vi phạm chế độ nộp tiền nuôi rừng. 2. Mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép lâm sản. 3. Tàng trữ, mua bán, vận chuyển và sử dụng những lâm sản đã khai thác trái phép [56]. Như vậy, một đặc điểm dễ nhận ra là Thông tư 3984/LN-KL tuy chỉ điều chỉnh tám nhóm hành vi song trong mỗi nhóm có sự phân hóa nhỏ thêm dựa vào đối tượng tác động. Tương ứng với từng hành vi một Thông tư 13
- 3984/LN-KL quy định mức định lượng cụ thể từ tối thiểu đến tối đa để xử phạt hành chính. Ví dụ: Với hành vi thuộc mục III1: Phát đốt rừng kinh tế, có thể bị phạt từ 11 đồng đến 200 đồng nếu phát đốt rừng kinh tế. a. Rừng gỗ từ 0,7ha trở xuống; rừng tre nứa từ 1,5ha trở xuống. b. Nếu là rừng tốt thì rừng gỗ: từ 0,5ha trở xuống, rừng tre nứa từ 1ha trở xuống. Thông tư 3984/LN-KL tại khoản 3 mục IX, phần III cũng quy định đường lối xử lý đối với các hành vi vi phạm có mức độ tác hại đã gây ra vượt quá mức độ xử phạt hành chính đã hướng dẫn trên đây, thì sẽ khởi tố về hình sự. Điều đáng chú ý là từ mục I đến mục VIII các hành vi đều được định lượng, không có hành vi nào được nêu dưới dạng chung chung thuộc dạng gây hậu quả nghiêm trọng. Những quy định của Thông tư số 3984/LN-KL là cơ sở pháp lý quan trọng để truy cứu TNHS người có hành vi xâm hại đến rừng. Thực tế dựa vào Thông tư 3984/LN-KL nhiều hành vi vi phạm đã bị xử lý, hạn chế được phần nào tình trạng khai thác bừa bãi trái phép cây rừng, góp phần bảo vệ được tài nguyên rừng, hình thành và nâng cao ý thức của người dân trong việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sống. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta sau năm 1975 bước vào thời kỳ vô cùng khó khăn. Hậu quả do chiến tranh để lại rất nặng nề. Mặt khác, cơ chế quản lý thời chiến không còn phù hợp trong tình hình mới. Do vậy, nhiều ngành kinh tế đã không được định hướng phát triển phù hợp. Những văn bản QPPL ban hành không điều chỉnh có hiệu quả các QHXH trong tình hình mới. Thông tư 3984/LN-KL cũng bộc lộ những hạn chế của nó. Điều dễ thấy nhất là phạm vi điều chỉnh của Thông tư không theo kịp với diễn biến của tình hình tội phạm. Nhiều hành vi nguy hiểm khác không chỉ xâm phạm đến cây rừng mà cả đến đất rừng và các yếu tố có liên quan. Đào đãi vàng, thải chất độc hại v.v… là những hành vi xâm hại nghiêm trọng đến rừng, ảnh hưởng rất xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội chưa 14
- được đề cập. Sau hàng loạt các VBPL được ban hành đã bổ sung cho Thông tư 3984/LN-KL, Nhà nước ta đã có những đánh giá mới về thực trạng vi phạm, về mức độ nguy hiểm của những loại hành vi xâm hại đến rừng thể hiện trong các văn bản như: Chỉ thị số 124-CT/TM ngày 03/9/1981 của Bộ Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam về việc bảo vệ rừng, nghiêm cấm phá rừng; Chỉ thị số 21 VP/Th ngày 21/05/1983 của Bộ Lâm nghiệp về tăng cường quản lý vật tư gỗ; Chỉ thị số 332/CT ngày 02/12/1983 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về chủ động phòng cháy, chữa cháy rừng trong mùa hanh khô hàng năm; Nghị định số 160-HĐBT ngày 10/12/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thống nhất quản lý các loại đặc sản rừng; Thông tư số 01TT/LB ngày 18/01/1984 của Liên Bộ Tài chính - Lâm nghiệp - Ủy ban Kế hoạch nhà nước về việc quản lý và sử dụng tiền nuôi rừng; Thông tư số 23- LN/KL ngày 08/10/1984 của Bộ Lâm nghiệp hướng dẫn xử lý bằng biện pháp hành chính đối với các hành vi đầu cơ, buôn lậu, tàng trữ, vận chuyển, kinh doanh trái phép lâm sản. Do vậy, hành vi vi phạm các quy định về bảo vệ rừng đã được đưa vào BLHS năm 1985 bằng tội danh cụ thể. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để điều chỉnh các QHXH trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng góp phần quan trọng cho công tác đấu tranh phòng và chống loại tội phạm này. Nhìn chung, việc điều chỉnh những QHXH trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng bằng luật hình sự giai đoạnh từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 có những đặc điểm sau: Việc xử lý hành vi vi phạm không được quy định trong một điều luật độc lập mà việc xử lý thường viện dẫn các tội danh khác trên cơ sở xác định mục đích là yếu tố quan trọng để xác định tội danh. Giai đoạn trước năm 1975, việc quy định và xử lý bằng hình sự đối với những hành vi vi phạm thuộc loại tội này nhằm mục đích chính là phục vụ công cuộc kháng chiến và chính do những điều kiện khách quan nên trong 15
- thực tiễn ít áp dụng luật hình sự để xử lý đối với hành vi vi phạm thuộc loại tội này. Những quy định của luật hình sự điều chỉnh loại tội này còn ít, chưa điều chỉnh nhiều loại hành vi vi phạm. 1.3. Lịch sử lập pháp của tội Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 Trong giai đoạn này, Nhà nước đã ban hành nhiều VBPL để điều chỉnh việc khai thác, kiểm soát lâm sảm và xử lý vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng. Chỉ thị số 34/CNR ngày 28/12/1985 của Bộ Lâm nghiệp về chấn chỉnh việc khai thác, cung cấp gỗ; Thông tư số 02 - TT/LB ngày 13/01/1986 của Liên Bộ Lâm nghiệp - Bộ Nội vụ về công tác bảo vệ rừng và quản lý vật tư lâm sản; Thông tư số 23 TT/LB ngày 21/10/1986 của Liên bộ VKSNDTC- Lâm nghiệp về mối quan hệ phối hợp giữa hai ngành Kiểm soát và Lâm nghiệp trong việc phòng, chống các vi phạm, tội phạm về quản lý và bảo vệ rừng. Đặc biệt, trong giai đoạn này, BLHS ra đời năm 1985 là một bước tiến lớn trong công tác lập pháp của Nhà nước ta. Những tội xâm phạm đến rừng được quy định theo nhiều tội danh cụ thể trong BLHS năm 1985. Ví dụ như: Điều 181 “Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng”; Điều 194 “Tội vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy”; Điều 216 “Tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, trực tiếp điều chỉnh nhóm hành vi liên quan đến việc khai thác trái phép và vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng được quy định và chủ yếu điều chỉnh bằng Điều 181 thuộc chương VII BLHS. Điều 181 trực tiếp điều chỉnh nhiều loại hành vi, từ khai thác trái phép đến vi phạm các quy định về quản lý rừng hay săn bắt trái phép động vật hoang dã v.v… Mặt khách quan của tội phạm thể hiện dưới các dạng hành vi sau: 16
- - Khai thác trái phép cây rừng. - Săn bắt trái phép chim thú. - Có hành vi khác vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và bảo vệ rừng. Hành vi khác ở đây được quy định theo các văn bản hướng dẫn dưới luật. Đó có thể là hành vi vi phạm các quy định về phòng cháy chữa cháy, về phòng trừ sâu bệnh… Những hành vi trên đây chỉ bị truy cứu TNHS khi gắn với một trong những dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm. Hậu quả nghiêm trọng được đánh giá kết hợp giữa thiệt hại vật chất với hậu quả về kế hoạch quản lý và bảo vệ rừng (như: Gây cháy rừng lớn và kéo dài, làm mất giống thú, chim đang cần gây lại…) nếu không có dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng thì dấu hiệu đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm là dấu hiệu bắt buộc để CTTP [62]. Về mặt chủ quan tội phạm có thể được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có năng lực TNHS, đủ độ tuổi luật định. Điều 181 có hai khung hình phạt: Khung cơ bản quy định mức hình phạt từ cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Khung 2 là khung tăng nặng quy định hình phạt từ hai năm đến mười năm nếu phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Hình phạt bổ sung không được quy định trong Điều 181 mà được quy định tại một điều luật riêng (Điều 185) bao gồm các loại: phạt tiền; cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định. Như vậy, lần đầu tiên trong BLHS, hành vi khai thác trái phép cây rừng và vi phạm các quy định về bảo vệ rừng đã được điều chỉnh bằng một điều luật cụ thể. Tác dụng giáo dục, răn đe, phòng ngừa đối với loại tội phạm này đã được nâng cao. Trong ý thức của quần chúng khái niệm về một tội phạm khi có hành vi xâm phạm đến tài nguyên rừng đã được định hình cụ thể. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn