intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

29
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm về trẻ em, lao động trẻ em; xác định vai trò của lao động trẻ em trong hệ thống quan hệ lao động và trong xã hội; chỉ ra thực trạng của những quy định của pháp luật về lao động trẻ em đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế, tồn tại của các quy định đó nhằm đề ra biện pháp bảo vệ lao động trẻ em.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em trong luật hình sự Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN ĐỨC THẮNG TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TSKH. Lê Văn Cảm HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Những kết quả và nội dung của luận văn là trung thực, chưa được công bố ở những công trình nghiên cứu khác. Tác giả Trần Đức Thắng
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ........................................................................ 5 1.1. Khái niệm trẻ em và lao động trẻ em ................................................ 5 1.1.1 Khái niệm trẻ em ................................................................................... 5 1.1.2. Khái niệm lao động trẻ em .................................................................... 6 1.2 Đặc điểm của người lao động chưa thành niên .............................. 19 1.3. Phân loại người lao động chưa thành niên ..................................... 24 1.4. Các tố ảnh hưởng đến lao động trẻ em ........................................... 28 1.4.1. Các quan niệm truyền thống ............................................................... 28 1.4.2. Sự phát triển kinh tế ............................................................................ 29 1.4.3. Giáo dục và các yếu tố khác................................................................ 29 1.5. Vai trò của pháp luật lao động đối với việc bảo vệ lao động trẻ em .... 31 1.5.1. Pháp luật lao động là hành lang pháp lý vững chắc bảo vệ trẻ em trong quan hệ lao động ........................................................................ 31 1.5.2. Pháp luật lao động tạo sự công bằng trong việc bảo vệ lao động trẻ em.... 32 1.5.3. Pháp luật lao động hình thành ý thức xã hội về việc bảo vệ lao động trẻ em .......................................................................................... 33 Chương 2: TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .................................................................... 34 2.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em trong Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 .................................................................................. 34
  4. 2.1.1. Khách thể của tội vi phạm quy định về sử dụng lao động trẻ em ....... 34 2.1.2. Mặt khách quan của tội phạm ............................................................. 37 2.1.3. Chủ thể của tội phạm........................................................................... 51 2.1.4. Mặt chủ quan của tội phạm ................................................................. 53 2.2. Hình phạt đối với tội sử dụng lao động trẻ em trong Bộ luật Hình sự năm 1999.............................................................................. 56 Chương 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM .............................. 60 3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật Hình sự về lao động trẻ em .................................................................................. 60 3.1.1. Khắc phục những nhược điểm còn tồn tại trong hệ thống pháp luật lao động ........................................................................................ 60 3.1.2. Bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về người lao động chưa thành niên .......................................................... 61 3.1.3. Đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở Việt Nam .............. 62 3.1.4. Bảo đảm phù hợp với điều kiện hội nhập quốc tế .............................. 64 3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em......................................................................... 68 3.2.1. Các biện pháp liên quan đến hoạt động tuyên truyền trong cộng đồng về phòng, chống tội vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em ......................................................................................... 69 3.2.2. Các biện pháp thuộc về hoạt động quản lý nhà nước có liên quan .......... 73 3.2.3. Các biện pháp liên quan đến nạn nhân của tội phạm .......................... 76 3.2.4. Các biện pháp liên quan đến hoạt động đấu tranh chống tội vi phạm các quy định về sử dụng lao động trẻ em .................................. 79 KẾT LUẬN .................................................................................................... 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
  5. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo thống kê của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, trong năm 2010, cả nước có 26.027 trẻ em phải tham gia vào các hình thức lao động. Nếu thống kê từ năm 2006 thì đã có khoảng 930.000 lao động trẻ em tham gia các hoạt động kinh tế. Kết quả khảo sát cho thấy gần 45% trẻ em phải làm việc trong điều kiện không đảm bảo về nhiệt độ, ánh sáng; gần 40% phải làm việc trong môi trường có nồng độ bụi cao ảnh hưởng đến sức khoẻ và trên 27% bị ảnh hưởng của hoá chất độc, ô nhiễm không khí, hơi, khí độc hại nơi làm việc. Theo báo cáo này, lao động trẻ em thường ở độ tuổi từ 10-14 tuổi, chiếm 72,6% tổng số trẻ em đang tham gia lao động được khảo sát. Tiếp đến là nhóm tuổi từ 15-17 tuổi (chiếm 17%) và nhóm 6-9 tuổi (chiếm khoảng 10%). Khảo sát cũng cho thấy lao động trẻ em đang làm việc chiếm tỷ trọng cao nhất trong lĩnh vực nông nghiệp, thương mại - dịch vụ và thấp nhất là trong lĩnh vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp. Thời gian làm việc bình quân theo ngày của lao động trẻ em phổ biến ở mức từ 4-5 giờ. Nhóm lao động trẻ em làm thuê có thời gian làm việc trong ngày nhiều nhất trong số lao động trẻ em với thời gian làm việc trên 6 giờ/ ngày, thậm chí tại những cơ sở may, chế biến thực phẩm vào mùa vụ sản xuất có thể làm việc tới 8-9 hoặc 10-12 giờ/ ngày. Ở VN, lao động trẻ em vẫn còn là vấ n đề gây nhiề u tranh cãi . Mặc dù luật pháp VN cấm sử dụng lao động trẻ em dưới 15 tuổi nhưng trẻ em vẫn phải chia sẻ gánh nặng công việc và trách nhiệm gia đình ở cả nông thôn lẫn thành thị. Chủ sử dụng lao đô ̣ng thường chọn lao động trẻ em vì chúng dễ tìm 1
  6. kiế m, tiề n công thấ p và dễ sai bảo. Theo nhâ ̣n định của những người làm công tác chăm sóc bảo vê ̣ tr ẻ em thì chính sự nghèo đói, gia tăng dân số nhanh ở các thành phố lớn, công nghiệp hoá, đô thị hoá, vấn đề di cư đến các đô thị phát triển… là những nhân tố góp phần làm gia tăng lao động trẻ em. Những năm qua, cùng với việc ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999, các cơ quan có thẩm quyền cũng đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, có một số quy định của luật hình sự về bảo vệ trẻ em còn chưa chuẩn xác và không phù hợp với diễn biến thực tế của tình hình tội phạm. Các tội phạm xâm hại trẻ em có diễn biến phức tạp, ngày càng xuất hiện nhiều hành vi phạm tội với những phương pháp thủ đoạn mới, tinh vi xảo quyệt và nguy hiểm hơn trước. Điều đó đã làm cho một số quy định của luật hình sự không đáp ứng được yêu cầu làm cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo vệ trẻ em, đặc biệt là hành vi vi phạm các quy định về lao động trẻ em. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu vấn đề trẻ em và lao động trẻ em là một vấn đề có tính cấp thiết cả về lý luận cũng như thực tiễn. Tuy nhiên, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này lại không nhiều. Và đặc biệt tài liệu nghiên cứu về lao động trẻ em nhìn từ góc độ pháp luật còn ít. Có một số tài liệu nghiên cứu như: Vấn đề lao động trẻ em, Vũ Ngọc Bình, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002; Quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam, Vụ pháp luật hình sự hành chính, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005; Vấn đề lao động trẻ em - Thực trạng và giải pháp, BS. Nguyễn Trọng An, Phó vụ trưởng Vụ Trẻ em, Bé Lao động - Thương binh và Xã hội, 2007. Khác với các tài liệu nghiên cứu trên, hầu hết chỉ đưa ra các số liệu đánh giá thực trạng vấn đề lao động trẻ em và liệt kê các quy định hiện hành của pháp 2
  7. luật lao động điều chỉnh quan hệ lao động trẻ em, khóa luận đã đưa ra nhận xét, đánh giá những quy định này để từ đó kiến nghị các giải pháp phù hợp. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Lao động trẻ em là một vấn đề phức tạp, đề cập đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như: văn hoá, giáo dục, y tế ... Mỗi lĩnh vực khác nhau có cách nhìn, cách nghiên cứu khác nhau về vấn đề này. Ở đây, khóa luận chỉ nghiên cứu đến những vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động trẻ em ở Việt Nam, trong đó có đề cập đến quy định pháp luật quốc tế và một số quy định mang tính so sánh của một số nước trên thế giới. 4. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm về trẻ em, lao động trẻ em; xác định vai trò của lao động trẻ em trong hệ thống quan hệ lao động và trong xã hội; chỉ ra thực trạng của những quy định của pháp luật về lao động trẻ em đồng thời đưa ra những giải pháp khắc phục những hạn chế, tồn tại của các quy định đó nhằm đề ra biện pháp bảo vệ lao động trẻ em. 5. Những đóng góp của đề tài Đề tài góp phần xây dựng hệ thống các khái niệm, quan điểm và các vấn đề lý luận về lao động trẻ em, bảo vệ lao động trẻ em bằng pháp luật lao động. Đề tài cũng góp phần hệ thống và phân tích khoa học các quy định chủ yếu của pháp luật lao động về lao động trẻ em và tìm hiểu thực trạng của việc áp dụng các quy định đó trong thực tế. Ngoài ra, đề tài còn đưa ra kết quả so sánh một số quy định của pháp luật Việt Nam với quy định của pháp luật quốc tế và quy định của một số quốc gia trên thế giới. Qua đó đề tài đã góp một tiếng nói chung nhằm bảo vệ trẻ em - thế hệ tương lai của đất nước. 3
  8. 6. Kết cấu đề tài Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội dung của đề tài gồm các chương sau: Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRẺ EM VÀ LAO ĐỘNG TRẺ EM Chương 2: TỘI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Chương 3: HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM 4
  9. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm trẻ em và lao động trẻ em 1.1.1 Khái niệm trẻ em Trong khoa học, trẻ em được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tuỳ theo góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội. Con người sáng tạo ra lịch sử và trẻ em là con đẻ của thời đại, của xã hội. Trong mọi thời đại, tương lai của một quốc gia, dân tộc đều tuỳ thuộc vào việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em. Trong xã hội học, xác định trẻ em là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người lớn. Điều này thể hiện ở chỗ trẻ em được xã hội quan tâm tạo điều kiện sinh thành, bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc để phát triển thành người lớn. Trẻ em là người chưa đạt tới sự trưởng thành về thể chất cũng như về tinh thần để được coi là người lớn. Trong tâm lý học, khái niệm "Trẻ em" được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm lý - nhân cách con người. Các nhà tâm lý học rất quan tâm nghiên cứu sự phát triển tâm lý của trẻ em trong độ tuổi từ lúc lọt lòng đến tuổi dậy thì [9] Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo “độ tuổi”. Điều đó có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào năm sinh của người đó tại thời điểm xác định. Độ tuổi trẻ em được xác định tuỳ theo mỗi quốc gia, mỗi nền văn hoá - xã hội cụ thể. Các tổ chức của Liên hợp quốc, như Quỹ dân số (UNFPA), tổ chức lao động quốc tế (ILO), tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá (UNESSCO) xác định 5
  10. trẻ em là người dưới 18 tuổi. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 xác định “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Điều 2 Công ước số 182 của Tổ chức lao động quốc tế ban hành năm 1999 (Việt Nam gia nhập ngày 19/12/2000) cũng quy định “Trong Công ước này, thuật ngữ „trẻ em‟ sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi” Vấn đề trẻ em trên thế giới đang được cộng đồng nhân loại quan tâm ngày càng nhiều hơn trong vài thập kỷ qua. Đã có những cam kết cấp toàn cầu và những cố gắng bước đầu được thực hiện để đem lại cho trẻ em một tương lai tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, để đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về trẻ em lại là một điều không đơn giản, bởi hệ thống chính trị, nền văn hoá và hoàn cảnh sống của các quốc gia khác nhau, nên khái niệm trẻ em ở mỗi quốc gia cũng được hiểu không giống nhau. Chính vì thế, Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 chỉ đưa ra ngưỡng độ tuổi cao nhất là 18 tuổi để xác định tuổi của trẻ em: “Trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi trưởng thành niên sớm hơn”. Hay trong Điều 2 Công ước số 182 về loại bỏ những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (gọi tắt là Công ước số 182) cũng có quy định: “Vì mục đích của Công ước này, thuật ngữ “trẻ em” sẽ được áp dụng cho tất cả những ai dưới 18 tuổi”[9] Việt Nam là quốc gia đầu tiên của Châu Á và là quốc gia thứ 2 trên thế giới tham gia Công ước quốc tế về quyền trẻ em vào năm 1990. Theo đó, Điều 1 Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã quy định: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi”. 1.1.2. Khái niệm lao động trẻ em Muốn xác định chính xác khái niệm lao động trẻ em, theo tôi, phải làm rõ khái niệm “lao động”. 6
  11. Theo từ điển tiếng việt thông dụng thì “Lao động là hoạt động tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần” Lao động là hiện tượng xã hội nảy sinh, biến đổi và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội cụ thể. Qua nghiên cứu, chúng tôi định nghĩa khái niệm lao động như sau: Lao động là hoạt động có ý chí, có mục đích của con người tác động vào thế giới xung quanh để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Đặc điểm cơ bản, quan trọng nhất của lao động là tính tích cực và tính mục đích của hoạt động chế tạo, sử dụng các công cụ, phương tiện để thực hiện các chức năng nhất định. Lao động có chức năng cơ bản là tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần của sự phát triển cá nhân và xã hội. Quá trình lao động là con đường, là cơ chế và là nhân tố quyết định sự phát triển nhân cách của chủ thể lao động. Từ khái niệm trẻ em và khái niệm lao động như trên, chúng ta có thể xây dựng khái niệm lao động trẻ em. Đây là khái niệm có nội dung rộng lớn và phức tạp vì được ghép lại từ hai khái niệm "lao động" và "trẻ em". Căn cứ vào định nghĩa trẻ em và định nghĩa lao động ở trên ra có thể xác định Lao động trẻ em là lao động do trẻ em thực hiện. Còn trẻ em là người như thế nào thì được xác định theo độ tuổi, mà độ tuổi này lại phụ thuộc vào quy định pháp luật của từng quốc gia khác nhau [9] Theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì khái niệm Lao động trẻ em đòi hỏi ngoài góc độ độ tuổi, còn phải tiếp cận từ góc độ tính chất công việc mà chủ thể phải làm: - Về độ tuổi ILO cho rằng trẻ em là người dưới 18 tuổi; - Về tính chất công việc, lao động trẻ em bao gồm những công việc có ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển toàn diện của trẻ em. 7
  12. Với cách lập luận như trên, ILO cho rằng “Lao động trẻ em là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 18 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui chơi” Cũng theo ILO, bên cạnh khái niệm lao động trẻ em, còn có khái niệm “Trẻ em tham gia làm việc”: Đây là khái niệm đề cập đến những trẻ em làm các công việc có thể chấp nhận được, bao gồm các hoạt động không làm hại tới, và có thể góp phần vào sự phát triển lành mạnh của trẻ, những công việc này mở ra những cơ hội trong cuộc sống và tạo cho trẻ những kinh nghiệm mới mẻ. Thực tế cho thấy, hoạt động lao động (không mang tính bóc lột) đóng vai trò quan trọng đối với chính sự phát triển toàn diện và hài hoà nhân cách của trẻ. Giáo dục học, tâm lý học và các khoa học có liên quan đều chỉ ra rằng lao động được tổ chức một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm của lứa tuổi là con đường, là cơ chế và là nhân tố phát triển thể chất, năng lực tư duy và đời sống tình cảm của trẻ em. Chủ tịch Hồ chí Minh đã từng căn dặn “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình”. Bảng 1.1. Trẻ em tham gia làm việc có sự khác biệt so với lao động trẻ em Trẻ em tham gia làm việc Lao động trẻ em (child labour) (child work) Công việc phù hợp với độ tuổi, khả Công việc quá sức, quá nặng nhọc năng, thể chất và trí tuệ của trẻ em đối với tuổi và khả năng của trẻ Được người lớn chăm sóc và chịu trách Trẻ em lao động dưới sự giám sát nhiệm giám sát của những người lớn lạm dụng Thời gian làm việc hạn chế, không Làm việc nhiều giờ, trẻ em bị hạn 8
  13. cản trở trẻ em đến trường, vui chơi và chế hoặc không có thời gian đi học, nghỉ ngơi vui chơi và nghỉ ngơi Nơi làm việc an toàn và có môi trường Nơi làm việc độc hại đến sức khoẻ bạn bè thân thiết, không độc hại tới sức và cuộc sống của trẻ em khoẻ và cuộc sống của trẻ em Môi trường làm việc góp phần nuôi Trẻ em dễ bị lạm dụng về tinh thần, dưỡng và phát triển thể chất, tình cảm, thể chất và tình dục trí tuệ và tinh thần của trẻ em Trẻ em làm việc tự nguyện để tham gia Hoàn cảnh bắt buộc trách nhiệm trong việc duy trì công việc và phát triển sản xuất của gia đình, tăng thu nhập gia đình Trẻ em được bù đắp về tinh thần và Trẻ em bị hạn chế hoặc không được thể chất khuyến khích về tinh thần và vật chất Công việc của trẻ là một phương tiện Công việc của trẻ có ảnh hưởng rèn luyện sức khoẻ, phẩm chất đạo đức nghiêm trọng tới sức khoẻ và sự cho trẻ phát triển của trẻ Nguồn: Cục Việc làm, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Pháp luật quốc tế, chủ yếu là các Công ước của Tổ chức lao động quốc tế, không sử dụng thuật ngữ “người lao động chưa thành niên” mà chỉ sử dụng thuật ngữ “lao động trẻ em”. Từ khi được thành lập năm 1919 đến nay, Tổ chức lao động quốc tế đã thông qua gần 200 Công ước, với gần 30 Công ước đề cập đến vấn đề lao động trẻ em, trong đó có hai Công ước cơ bản đề cập trực tiếp và mang tính bao quát (so với các công ước trước đó) về vấn đề lao động trẻ em là Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu (1973) và Công ước số 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xoá bỏ những hình 9
  14. thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999). Hai công ước này không trực tiếp đưa ra khái niệm “lao động trẻ em”, nhưng Điều 2 Công ước số 182 đã gián tiếp đưa ra khái niệm về trẻ em, đó là những người dưới 18 tuổi. Với những trẻ em dưới 18 tuổi, Công ước số 138 về độ tuổi lao động tối thiểu lại phân chia thành những nhóm tuổi khác nhau dựa trên hoàn cảnh thông thường và hoàn cảnh đặc thù (tức với các quốc gia có nền kinh tế và điều kiện giáo dục còn hạn chế, chưa thích hợp để áp dụng các mức tuổi lao động tối thiểu trong hoàn cảnh thông thường). Xuất phát từ tính đa dạng của các loại hình công việc, Công ước đưa ra ba mức tuổi chính, áp dụng với các công việc nguy hại, các công việc nhẹ nhàng và các công việc không thuộc phạm vi các công việc nguy hại và công việc nhẹ nhàng. Ngoài ra, xét đến tính chất đặc biệt của một số nghề nghiệp cần phải luyện tập từ độ tuổi còn nhỏ, Công ước còn đề cập đến một độ tuổi ngoại lệ, không thuộc vào các dạng độ tuổi kể trên. Cụ thể: Thứ nhất, trong hoàn cảnh thông thường, người lao động có thể được tuyển dụng hoặc làm các công việc không có tính chất nguy hại với độ tuổi ít nhất là 15 tuổi và kèm theo điều kiện là không thấp hơn độ tuổi hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc; với những công việc nhẹ nhàng mà tính chất và điều kiện không ảnh hưởng đến sức khoẻ, sự phát triển, việc học tập, học nghề hay các cơ hội giáo dục khác của trẻ thì độ tuổi tối thiểu ít nhất là từ 13 hoặc 15 tuổi; với những loại nghề nghiệp hoặc công việc mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể làm tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay nhân cách của trẻ thì mức tuổi tối thiểu được tuyển dụng và cho phép đi làm việc phải từ 18 tuổi (Khoản 3 Điều 2; khoản 1, 2 Điều 7 và khoản 1 Điều 3 Công ước). Thứ hai, trong hoàn cảnh đặc thù (ở các quốc gia mà nền kinh tế và các phương tiện giáo dục chưa phát triển đầy đủ), tuổi lao động tối thiểu có thể là 14 tuổi; với những công việc nhẹ nhàng mà tính chất và điều kiện tiến hành không ảnh hưởng đến sức khoẻ, sự phái triển, việc học tập, học nghề hay các 10
  15. cơ hội giáo dục khác của trẻ thì tuổi tối thiểu tham gia lao động có thể là từ 12 hoặc 14 tuổi nhưng chưa hoàn thành chương trình giáo dục bắt buộc; với những loại nghề nghiệp hoặc công việc mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể làm tổn hại tới sức khoẻ, sự an toàn hay nhân cách của trẻ thì mức tuổi tối thiểu được tuyển dụng và cho phép đi làm việc có thể là 16 tuổi nhưng với điều kiện là an toàn, phẩm hạnh của trẻ phải được đảm bảo đầy đủ, phải có sự hướng dẫn cụ thể và thích đáng hoặc phải đào tạo nghề cho họ trong công việc tương ứng (khoản 4 Điều 2; khoản 4 Điều 7; khoản 1 Điều 3 Công ước). Thứ ba, với một số công việc, nghề nghiệp đặc biệt như biểu diễn nghệ thuật thì các em có thể tham gia từ độ tuổi nhỏ những việc quy định này phải tham khảo ý kiến những tổ chức của người sử dụng lao động và của người lao động, đồng thời trong giấy phép cấp cho những trường hợp cá biệt này phải xác định rõ giới hạn thời giờ lao động, các điều kiện trong việc sử dụng lao động (Điều 8 Công ước). Như vậy, hai Công ước trên đã bổ sung cho nhau khi quy định về lao động trẻ em, theo đó một Công ước gián tiếp nêu khái niệm về lao động trẻ em là những người dưới 18 tuổi và một Công ước đưa ra những quy định cụ thể hơn về lao động trẻ em khi phân chia lao động trẻ em thành những nhóm tuổi khác nhau trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Điều này tạo ra sự linh hoạt, thể hiện quan điểm “mở” đối với các nước thành viên khi phê chuẩn Công ước. Nó cho phép các quốc gia căn cứ vào những hoàn cảnh, đặc thù riêng của mình để phân chia lao động trẻ em hay những lao động dưới 18 tuổi thành những nhóm tuổi khác nhau (như nhóm từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhóm dưới 15 tuổi…) sao cho phù hợp với tinh thần của hai Công ước. Hai Công ước thể hiện quan điểm của cộng đồng quốc tế về việc không loại bỏ hoàn toàn hình thức lao động trẻ em hay hình thức lao động của người chưa thành niên, tức vẫn thừa nhận các hình thức lao động của người dưới 18 tuổi, chỉ loại bỏ những hình thức lao động tồi tệ nhất đối với họ [9] 11
  16. Cụ thể hoá nội dung của hai Công ước trên, các nước phê chuẩn Công ước khi quy định về trẻ em lao động thường dùng thuật ngữ: “lao động trẻ em” trùng với thuật ngữ được dùng trong hai Công ước. Điều này có thể thấy trong pháp luật lao động của Vương quốc Anh, Kenya, Malaysia… Song cũng có quốc gia lại sử dụng thêm thuật ngữ “người lao động chưa thành niên” như Slovakia, Thụy Điển, Oman, Trung Quốc… Các quốc gia có sử dụng thuật ngữ “lao động trẻ em” quan niệm: lao động trẻ em là những em dưới 18 tuổi. Ví dụ như Điều 1 Luật tuyển dụng lao động trẻ em của Vương quốc Anh quy định: (trong Luật này) “trẻ em là người dưới 18 tuổi” [36]. Các quốc gia sử dụng thuật ngữ “lao động chưa thành niên” lại có quy định khác nhau. Thứ nhất, có quốc gia quy định về người lao động chưa thành niên là toàn bộ những người dưới 18 tuổi. Chẳng hạn, Điều 1 Chương V Luật môi trường làm việc của Thụy Điển, Điều 40 Luật lao động Slovakia đều quy định: “người lao động dưới 18 tuổi là người lao động chưa thành niên” [36] và Điều 2 Chương V Luật môi trường làm việc của Thụy Điển còn quy định bổ sung về việc: Chính phủ phải có những quy định riêng liên quan đến việc tuyển dụng lao động chưa thành niên dưới 13 tuổi để làm công việc phù hợp. Thứ hai, có những quốc gia quy định người lao động chưa thành niên lại không phải tất cả những người dưới 18 tuổi. Ở đây, các quốc gia quy định người lao động chưa thành niên chỉ là những người từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Điều này có thể thấy trong quy định tại Điều 1 Luật Việc làm của Oman (2003), Luật bảo vệ người trẻ tuổi tại nơi làm việc của Cuprus (2001). Bên cạnh đó, có quốc gia sử dụng đồng thời hai thuật ngữ “lao động chưa thành niên” và “lao động trẻ em” nhưng có quy định để phân biệt rõ sự khác nhau giữa hai thuật ngữ này. Chẳng hạn, Điều 2 Luật cấm lao động trẻ em của Trung Quốc quy định: “lao động trẻ em để chỉ người chưa thành niên hay trẻ em dưới 16 tuổi” và Điều 13 Luật này quy định: “chỉ được sử dụng lao động 12
  17. trẻ em vào lĩnh vực thể thao, nghệ thuật” [36]. Trong Luật lao động của Trung Quốc, Điều 58 quy định: “lao động chưa thành niên là những người từ 16 tuổi đến 18 tuổi”. Đây là điểm khác biệt với nhiều quốc gia khác, khi quy định về người lao động dưới 18 tuổi, pháp luật Trung Quốc tách ra làm hai nhóm, một nhóm có độ tuổi từ 16 tuổi đến 18 tuổi, được gọi là lao động chưa thành niên và một nhóm dưới 16 tuổi, được gọi là lao động trẻ em. Như vậy, có thể thấy pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia không thống nhất về tên gọi chỉ “người lao động chưa thành niên” (hay “lao động trẻ em”). Tuy nhiên, dù khác nhau về tên gọi nhưng nội hàm của thuật ngữ “người lao động chưa thành niên” và “lao động trẻ em” lại giống nhau và đều lấy 18 tuổi là giới hạn để phân biệt với người lao động trưởng thành. Ở nước ta, tính đến thời điểm này chưa có khái niệm thống nhất về lao động trẻ em. Bộ Luật lao động của Việt Nam quy định người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên và lao động dưới 18 tuổi là lao động chưa thành niên mà không chỉ rõ như thế nào là lao động trẻ em. Hơn nữa khái niệm người chưa thành niên được sử dụng khá nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như: Bộ luật dân sự (điều 20), Bộ luật hình sự (điều 68) đều quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Bộ luật Lao động Việt Nam quy định: Điều 119. 1- Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu. 2- Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên. 13
  18. Điều 120. Cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bộ lao động- Thương binh và Xã hội quy định. Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Tuy nhiên nếu căn cứ vào các quy định của Bộ luật lao động và Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thì có thể hiểu rằng, lao động trẻ em là những người dưới 16 tuổi phải tham gia hoạt động để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Theo quan điểm của chúng tôi, Việt Nam nên sử dụng định nghĩa của ILO về lao động trẻ em là phù hợp. Theo đó khái niệm lao động trẻ em ở Việt Nam là thuật ngữ chỉ tình trạng trẻ em (những người dưới 16 tuổi) phải trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia làm những công việc nặng nhọc, độc hại hay nguy hiểm,ảnh hưởng xấu đến sự phát triển về thể lực, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội của trẻ; hoặc phải làm việc quá nhiều hay ở độ tuổi quá nhỏ, khiến các em không có thời gian cần thiết để học tập và vui chơi”. Lao động trẻ em (child labour) là một vấn đề xã hội rộng lớn và phức tạp, tồn tại từ trước tới nay trong xã hội loài người. Pháp luật quốc tế không đưa ra một khái niệm thống nhất về lao động trẻ em, mà chỉ đưa ra những hình thức lao động trẻ em tồi tệ quy định trong Công ước số 182 của ILO. Tuy nhiên, theo khái niệm trẻ em được quy định trong Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, có thể hiểu “Lao động trẻ em là người lao động chưa đủ 18 tuổi trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi trưởng thành niên sớm hơn”. Ở Trung Quốc, Bộ luật lao động nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa không đưa ra khái niệm lao động trẻ em mà chỉ đưa ra khái niệm 14
  19. về lao động chưa thành niên:“Lao động chưa thành niên là người lao động từ đủ 16 tuổi nhưng chưa tròn 18 tuổi” (Điều 58 Bộ luật lao động Trung Quốc). Độ tuổi lao động giới hạn mà pháp luật Trung Quốc quy định cao hơn so với độ tuổi lao động được quy định trong Công ước số 138 về tuổi tối thiểu làm việc năm 1973 của ILO. Luật lao động Việt Nam cũng không đưa ra định nghĩa về lao động trẻ em mà chỉ có khái niệm về lao động chưa thành niên. Theo quy định tại Điều 6 Bộ luật lao động (sửa đổi, bổ sung 2002): “Người lao động là người Ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng giao kết hợp đồng lao động”. Ngoài ra, Điều 119 Bộ luật Lao động cũng có quy định“ Lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi”. Pháp luật lao động Việt Nam quy định rất nghiêm ngặt về điều kiện lao động đối với người lao động chưa thành niên. Điều 121 của Bộ Luật lao động quy định người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để đảm bảo sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động, tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động. Điều 121 cũng quy định việc cấm sử dụng người lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại hoặc chỗ việc làm, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Các điều kiện lao động có hại và một danh mục những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại cấm sử dụng người lao động chưa thành niên đã được quy định trong Thông tư liên bộ số 09/TT-LB ngày 13/4/1995 do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành. Trong đó quy định Danh mục 81 công việc cấm sử dụng lao động chưa thành 15
  20. niên và 13 Điều kiện lao động có hại cấm sử dụng lao động chưa thành niên. Những điều kiện đó gồm: + Lao động thể lực quá sức (mức tiêu hao năng lượng lớn hơn 4 kcal/ phúc, nhịp tim 120/phút); + Tư thế làm việc gò bó, thiếu dưỡng khí; + Trực tiếp tiếp xúc với hoá chất có khả năng gây biến đổi gen, gây ảnh hưởng xấu đến chuyển hoá tế bào, gây ung thư, gây tác hại sinh sản lâu dài (gây thiểu năng tinh hoàn, thiểu năng buồng trứng), gây bệnh nghề nghiệp và các tác hại khác; + Tiếp xúc với các yếu tố gây truyền nhiễm; + Tiếp xúc với chất phóng xạ (kể cả các tiết bị phát tia phóng xạ). + Tiếp xúc với điện từ trường ở mức quá giới hạn cho phép; + Trong môi trường có độ rung ồn cao hơn tiêu chuẩn cho phép; + Nhiệt độ không khí trong nhà xưởng trên 400C về màu hè và trên 350C về mùa đông, hoặc chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt cao; + Nơi có áp suất không khí cao hơn hoặc thấp hơn áp suất khí quyển; + Trong lòng đất; + Nơi cheo leo nguy hiểm; + Nơi làm việc không phù hợp với thần kinh, tâm lý người chưa thành niên; + Nơi gây ảnh hưởng xấu tới việc hình thành nhân cách. Ngoài ra, ngày 9/12/2004 Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế cũng đã ban hành Thông tư số 21/2004/TTLT-BLĐTBXH-BYT quy định danh mục chỗ làm việc, công việc không được sử dụng lao động dưới 18 tuổi trong các cơ sở kinh doanh, dịch vụ dễ bị lợi dụng để hoạt động mại dâm. Danh mục này gồm 4 nhóm sau: - Nhóm các cơ sở dịch vụ lưu trú gồm 5 loại hình kinh doanh (khách 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2