Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vô ý làm chết người trong luật hình sự Việt Nam
lượt xem 3
download
Mục tiêu của đề tài là làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vô ý làm chết người. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người đề xuất một số kiến nghị nhằm đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm này. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội vô ý làm chết người trong luật hình sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THỊ NGỌC HƢƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHÍ THỊ NGỌC HƢƠNG TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn HÀ NỘI - 2011 3
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý 5 LÀM CHẾT NGƢỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Sự cần thiết quy định tội vô ý làm chết người trong pháp 5 luật hình sự Việt Nam 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết người 9 1.2.1. Khái niệm 9 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vô ý làm chết người 13 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm 13 1.2.2.2. Mặt khách quan 17 1.2.2.3. Chủ thể 27 1.2.2.4. Mặt chủ quan 30 Chương 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI VÔ Ý LÀM 36 CHẾT NGƢỜI QUA CÁC THỜI KỲ 2.1. Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam 36 trước năm 1945 2.1.1. Tội vô ý làm chết người trong Quốc triều Hình luật 36 2.1.2. Tội vô ý làm chết người trong Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia 40 1
- Long) 2.1.3. Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ Hình luật Canh 42 Cải, Hình luật Bắc Kỳ, Hình luật Việt Nam thời Pháp thuộc 2.2. Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam 46 từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 2.2.1. Tội vô ý làm chết người theo quy định của pháp luật hình sự 46 của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa 2.2.2. Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ Hình luật 47 1972 của chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn 2.3. Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và 48 Bộ luật Hình sự năm 1999 2.4. Phân biệt tội vô ý làm chết người với một số tội phạm theo 52 qui định của Bộ luật Hình sự năm 1999 2.4.1. Phõn biệt tội vô ý làm chết người (Điều 98) với tội làm chết 53 người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 2.4.2. Phõn biệt tội vô ý làm chết người với tội vô ý làm chết người 54 do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính 2.4.3. Phõn biệt tội vô ý làm chết người với tội vi phạm qui định 55 về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ - trường hợp dẫn đến hậu quả chết người 2.4.4. Phân biệt tội vô ý làm chết người điều 98 với tội không cứu 57 giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Điều 102 Bộ luật Hình sự năm 1999 2.5. Qui định về tội vô ý làm chết người trong Pháp luật hình sự 58 một số nước 2.5.1. Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự của nước 58 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa 2
- 2.5.2. Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự Liên bang Nga 59 2.5.3. Tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự Thái Lan 60 2.5.4. Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Thụy Điển 61 2.5.5. Tội vô ý làm chết người theo quy định của Bộ luật Hình sự 63 Cộng hòa Liên bang Đức Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 66 HÌNH SỰ VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Tình hình tội vô ý làm chết người ở Việt Nam hiện nay 66 3.1.1. Số vụ và số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người 66 3.1.2. Cơ cấu và tính chất của tội vô ý làm chết người 66 3.1.3. Công cụ, phương tiện phạm tội 73 3.1.4. Động thái (diễn biến) của tội vô ý làm chết người 83 3.2. Những vướng mắc trong quá trình xử lý tội phạm vô ý làm 85 chết người 3.2.1. Vướng mắc trong pháp luật 86 3.2.2. Vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật 88 3.2.3. Vướng mắc trong hoạt động tố tụng 90 3.2.4. Vướng mắc trong tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật 98 3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống 99 tội Vô ý làm chết người trong giai đoạn hiện nay 3.3.1. Kiến nghị về pháp luật và áp dụng pháp luật 100 3.3.2. Kiến nghị về hoạt động tố tụng 101 3.3.3. Kiến nghị về thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật 102 KẾT LUẬN 105 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 3
- PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội vô ý làm chết 66 người ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.2 Thống kê số vụ phạm tội vô ý làm chết người và số vụ 67 phạm tội nói chung đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.3 Thống kê số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người và số 68 vụ phạm tội nói chung đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.4 Thống kê số vụ phạm tội vô ý làm chết người và số vụ 69 phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.5 Thống kê số bị cáo phạm tội vô ý làm chết người và số 70 vụ phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói chung đã được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.6 Thống kê số vụ phạm các tội xâm phạm tính mạng đã 70 được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 3.7 Thống kê số bị cáo phạm các tội xâm phạm tính mạng đã 71 được xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006- 2010 3.8 Thống kê hình phạt áp dụng đối với các bị cáo phạm tội 72 vô ý làm chết người ở Việt Nam giai đoạn 2006- 2010 3.9 Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội phạm nói chung 83 ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 4
- 3.10 Thống kê xét xử sơ thẩm hình sự về tội vô ý làm chết 85 người ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 3.1 Cơ cấu số vụ án phạm tội vô ý làm chết người trong tội 68 phạm xâm phạm tính mạng đã được xét xử sơ thẩm ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 3.2 Số vụ và số bị cáo phạm tội hình sự nói chung đã được 84 xét xử ở Việt Nam giai đoạn 2006-2010 3.3 Động thái của tội vô ý làm chết người đã được xét xử ở 85 Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tính mạng của con người là giá trị cao quý nhất của con người. Quyền sống là quyền cơ bản, hàng đầu của con người. Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, là đạo luật gốc mà các văn bản pháp luật khác phải tuân theo. Quyền sống của con người được qui định tại điều 71 Hiến pháp năm 1992. Đồng thời, được cụ thể hóa tại các điều 32, 609 Bộ luật Dân sự, Điều 8, Điều 24 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bộ luật Hình sự năm 1999 (được Quốc hội khóa X nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 6 từ ngày 18/11 đến ngày 21 tháng 12 năm 1999) đã dành chương XII quy định về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây là chương thứ hai phần các tội phạm cụ thể, chỉ đứng sau chương quy định về các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều đó cho thấy vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của quyền sống. Trong thời gian qua, quyền sống - tính mạng của công dân được bảo đảm trên nhiều phương diện. Tuy vậy, còn khá nhiều nguy cơ đe dọa sự sống của con người cần được phòng ngừa, ngăn chặn và chống lại như các hành vi xâm phạm tính mạng của con người. Trong những năm gần đây, tội phạm xâm phạm tính mạng nói chung và tội phạm vô ý làm chết người nói riêng có chiều hướng gia tăng về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phức tạp, tinh vi về thủ đoạn. Tính chất tội phạm rất nghiêm trọng. Công tác đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Về mặt lý luận: cho đến nay, ít có công trình về vấn đề này. Bên cạnh đó, còn nhiều tranh cãi trên thực tế khi xác định lỗi của người có hành vi làm chết người. 6
- Về thực tiễn, các cơ quan pháp luật còn lúng túng trong việc định tội danh. Do vậy, cần nghiên cứu một cách có hệ thống, đầy đủ về vấn đề này. Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu đề tài "Tội vô ý làm chết người trong luật hình sự Việt Nam" là rất cần thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhóm đề tài liên quan đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người vẫn luôn là nhóm đề tài được quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999 được nhiều tập thể các tác giả nghiên cứu và xuất bản như: "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999", do Uông Chu Lưu chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, 2001; "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung năm 2009", do TS. Trần Minh Hưởng chủ biên, Nxb Lao động, 2009; "Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - phần các tội phạm tập I - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, Bình luận chuyên sâu", của Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006,...; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người", của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, 2000; "Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm", của Nguyễn Xuân Yêm, Nxb Công an nhân dân, 2001; "Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người - so sánh giữa Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm 1985", Tạp chí Luật học, số 01/2001; Luận án tiến sĩ Luật học: "Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này", của Đỗ Đức Hồng Hà... Trên thế giới có công trình của tác giả M.G. Ugrekhelidze: "Vấn đề lỗi vô ý trong luật hình sự", Nxb Mesniereba Tbilixi, 1976, nói về lỗi vô ý trong các tội phạm cấu thành vật chất và các tội phạm cấu thành hình thức. Trong đó, có nhiều nội dụng liên quan đến tội vô ý làm chết người. Trước đó đã có công trình của V.G. Makashvili về trách nhiệm hình sự đối với tội phạm do vô 7
- ý của Nhà xuất bản Matxcơva 1957. Trong đó có đề cập đến vô ý gây chết người trong lý luận và thực tiễn của luật hình sự Xô viết. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tại Việt Nam nghiên cứu riêng về tội vô ý làm chết người. Do vậy, cần có một công trình nghiên cứu về tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự Việt Nam. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài Mục đích: Làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội vô ý làm chết người. Trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người đề xuất một số kiến nghị nhằm đấu tranh có hiệu quả loại tội phạm này. Nhiệm vụ: Đề tài làm rõ mặt lý luận về hành vi vô ý làm chết người, khái niệm tội vô ý làm chết người, giới hạn can thiệp của pháp luật hình sự đối với tội vô ý làm chết người. Sự cần thiết phải tội phạm hóa hành vi vô ý làm chết người. Nghiên cứu các qui định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vô ý làm chết người trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, qui định về tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới. Trên cơ sở số liệu thực tiễn, tổng kết đánh giá những vướng mắc trong việc áp dụng Bộ luật Hình sự về tội vô ý làm chết người. Trong đó, phân tích thực tiễn tội vô ý làm chết người trong giai đoạn hiện nay, đồng thời phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật đối với tội vô ý làm chết người của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị. 4. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự về tội phạm và người phạm tội xâm phạm tính mạng con người trong những năm vừa qua. 8
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh luật học, phương pháp thống kê... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Đề tài phân tích khái niệm, dấu hiệu pháp lý về tội vô ý làm chết người, đồng thời phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Đề tài khái quát tình hình áp dụng pháp luật trong thời gian hiện nay và thực tiễn xét xử. Phân tích một số khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người và đề xuất một số kiến nghị. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo, học tập, đồng thời cung cấp cho cán bộ làm công tác thực tiễn những hướng dẫn, chỉ dẫn cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm này trong giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quy định tội vô ý làm chết người trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. 9
- Chương 2: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội vô ý làm chết người qua các thời kỳ. Chương 3: Thực tiễn áp dụng qui định của pháp luật hình sự về tội vô ý làm chết người và một số kiến nghị. 10
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Con người là tế bào của xã hội, là vốn quý nhất của xã hội, là chủ thể của quan hệ xã hội cần được xã hội công nhận và bảo vệ các quyền con người. Trong các quyền con người thì quyền thiêng liêng và cao quý nhất là quyền sống. Đó là điều có ý nghĩa quan trọng nhất đối với bất kỳ cá nhân nào và là cơ sở để mỗi cá nhân con người có thể thực hiện được các quyền khác của mình được pháp luật công nhận và bảo vệ. Con người và các quyền con người trở thành đối tượng quan trọng được luật hình sự nói riêng và pháp luật nói chung bảo vệ. Các lĩnh vực liên quan đến con người được pháp luật hình sự bảo vệ bao gồm nhiều nội dung, nhưng nội dung trước tiên và quan trọng nhất đó là bảo vệ tính mạng của con người. Khi có hành vi xâm phạm đến quyền sống của con người nó sẽ làm đảo lộn và phá vỡ các quan hệ xã hội, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bản thân và gia đình nạn nhân, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm mất trật tự xã hội. Hành vi này cần được trừng trị một cách thích đáng, nghiêm khắc. Hành vi xâm phạm đến quyền sống - hay xâm phạm tính mạng con người có nhiều dạng, với nhiều hình thức lỗi khác nhau cố ý hoặc vô ý. Nhưng cho dù dưới hình thức lỗi nào thì hành vi này đều thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội ở mức cao. Nguy hiểm nhất trong nhóm hành vi xâm phạm tính mạng con người là hành vi giết người. Hành vi này thể hiện ý chí cố ý tước đoạt tính mạng của người khác. Do tính nguy hiểm cao độ nên trong pháp luật hình sự từ xưa đến nay ở bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ chế độ, bất kỳ nhà nước nào cũng nghiêm trị hành vi giết người và áp dụng những hình phạt nghiêm khắc 11
- nhất như tử hình (Điều 93, Bộ luật Hình sự năm 1999), chém (Điều 474 Quốc triều Hình luật)… Hành vi vô ý làm chết người được thực hiện với lỗi vô ý, mức độ nguy hiểm thấp hơn so với hành vi giết người. Nhưng cho dù vô ý cũng đã thể hiện sự nguy hiểm cao đối với xã hội. Do vậy việc quy định là tội phạm trong luật hình sự để đấu tranh phòng ngừa và chống hành vi nguy hiểm này thực sự cần thiết. Không những vậy, chế tài đưa ra cũng cần nghiêm khắc mới đáp ứng được đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Khi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là đáng kể, được coi là tội phạm và phải chịu hình phạt trong luật hình sự thì pháp luật hình sự trở thành công cụ hữu hiệu tác động đến hành vi sai lệch này. Đồng thời tác động đến ý thức của người dân nói chung tạo ra một ranh giới trong ý thức của họ về việc thực hiện các hành vi của mình và đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm pháp luật này. Đây chính là thái độ của xã hội đối với hành vi đi ngược lại những chuẩn mực xã hội, đi ngược lại lợi ích của xã hội. Việc chịu hình phạt đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Quá trình chấp hành hình phạt, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có điều kiện để cải tạo, giáo dục bản thân trở thành người có ích cho xã hội. Việc quy định phù hợp giữa tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm và hình phạt có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó phát huy hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Hành vi càng thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao bao nhiêu thì hình phạt đối với hành vi ấy phải càng nghiêm khắc bấy nhiêu. Khi hai yếu tố này tương xứng sẽ góp phần giảm thiểu mặt trừng trị của hình phạt. Không chỉ cộng đồng xã hội nói chung mà ngay cả người phạm tội cũng nhận thấy hình phạt cho mình như vậy là thích đáng. Có như vậy, bản thân họ mới có thể cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. 12
- Trong thực tiễn có rất nhiều hành vi xâm phạm tính mạng con người với nhiều hình thức lỗi khác nhau: cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả. Đối với trường hợp người phạm tội cố ý (bao gồm cả cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp) xâm phạm tính mạng, thì tội danh được xác định luôn là giết người, hoặc giết người có dự mưu... trường hợp vô ý xâm phạm tính mạng con người thì được xác định là vô ý làm chết người. Việc xâm phạm tính mạng con người trong trường hợp này thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội. Trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam việc nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này đã được các nhà nước nhận thức rõ và đã quy định tội vô ý làm chết người từ rất sớm. Do kỹ thuật lập pháp ở mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau, nên việc quy định trong các văn bản pháp quy mỗi thời mỗi khác. Nhưng tựu trung lại, đều thể hiện thái độ nghiêm khắc của nhà nước trước hành vi nguy hiểm này. Quy định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự là công cụ pháp lý để Nhà nước - thông qua bộ máy của mình - đấu tranh phòng chống tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử những năm qua cho thấy rằng, mỗi loại tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau, phương pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng khác nhau. Nhưng cho dù như thế nào thì chúng đều gây những thiệt hại nhất định cho các quan hệ xã hội. Chúng là những hiện tượng xã hội tiêu cực cần phải được ngăn chặn, hạn chế và từng bước loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm vô ý làm chết người nói riêng và tội phạm nói chung đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách có hệ thống, đồng bộ, đồng thời sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, không ngừng bổ trợ, tương hỗ cho nhau để phát huy mặt tích cực và hạn chế những điểm yếu của từng biện pháp. Trên cơ sở đó, phát huy tốt nhất hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Đây không phải là nhiệm vụ của riêng ai. Từ hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, cơ quan tư pháp, đến các tổ chức chính trị, chính trị xã hội và đặc biệt quan trọng đó là ý thức đấu tranh phòng 13
- ngừa và chống tội phạm của chính mỗi người dân. Đồng thời sử dụng nhiều biện pháp từ những biện pháp nhẹ nhàng như giáo dục, thuyết phục, rồi tăng dần đến các biện pháp cưỡng chế - trong đó, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất. Trước đòi hỏi đó, Bộ luật Hình sự đầu tiên năm 1985 đã quy định tội vô ý làm chết người tại Điều 104 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên tại quy định năm 1985, cấu thành tội phạm vô ý làm chết người được quy định gộp hai loại hành vi trong một cấu thành tội phạm chung. Bao gồm hành vi vô ý làm chết người và hành vi vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Do hai hành vi làm chết người này có tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là khác nhau. Do đó, việc quy định như vậy chưa đáp ứng được đòi hỏi của việc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Đồng thời, hai tội phạm này có những đặc điểm riêng, yêu cầu đặt ra là hai hành vi này cần thiết phải xây dựng thành các cấu thành tội phạm của các tội danh khác nhau. Việc quy định riêng biệt cấu thành tội phạm của chúng là cơ sở để quy định dấu hiệu trong mỗi cấu thành tội phạm phù hợp ở mức cao nhất với đặc điểm và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và hình phạt tương ứng. Đồng thời cho phép tiếp tục phân hóa các cấu thành tội phạm này trong phạm vi từng tội danh. Điều này thể hiện ở việc: đối với cùng một loại hành vi vô ý làm chết người cũng có nhiều mức độ nguy hiểm khác nhau cần thiết phải tiếp tục phân hóa theo từng khoản một để có thể đưa ra khung hình phạt phù hợp. Bên cạnh việc phân hóa hành vi nguy hiểm cho xã hội của các loại hành vi khác nhau thành các cấu thành tội phạm độc lập, mỗi cấu thành tội phạm cũng cần phải phản ánh đúng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Xem xét phân tách cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng góp phần phân hóa trách nhiệm hình sự của từng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Hành vi vô ý làm chết người trong mỗi trường hợp khác nhau là khác nhau. Nhưng để đảm bảo yêu cầu của phân hóa trách nhiệm hình sự, việc cụ 14
- thể hóa trách nhiệm hình sự theo tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi là rất cần thiết. Trường hợp vô ý làm chết một người và vô ý làm chết nhiều người tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi có sự khác biệt lớn. Chia tách theo từng mức độ như vậy là cơ sở để chúng ta đưa ra mức chế tài phù hợp. Sự phân hóa trách nhiệm hình sự càng triệt để bao nhiêu thì sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi bấy nhiêu cho công tác cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử. Từ những đòi hỏi nêu trên, Bộ luật Hình sự năm 1999 tách hành vi vô ý làm chết người quy định thành một tội độc lập với hai cấu thành tội phạm (cấu thành cơ bản tại khoản 1 và cấu thành tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 98) là thật sự đúng đắn và cần thiết đáp ứng được đòi hỏi của lý luận và thực tiễn. 1.2. KHÁI NIỆM VÀ CÁC DẤU HIỆU PHÁP LÝ CỦA TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƢỜI 1.2.1. Khái niệm "Vô ý làm chết người" hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các trường hợp vô ý làm chết người được quy định trong các đạo luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành, văn bản pháp luật hình sự từ trước tới nay. Nghiên cứu về khái niệm vô ý làm chết người trong các văn bản đó là nghiên cứu về khái niệm "vô ý làm chết người" nói chung. Trong phạm vi luận văn này, học viên tập trung nghiên cứu tội vô ý làm chết người theo quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự 1999. Những trường hợp vô ý làm chết người khác như "làm chết người trong khi thi hành công vụ", "vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính", "không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng", "vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ - dẫn đến chết người", … quy định tại các điều 97, 99, 102, 202,... Bộ luật Hình sự chỉ được nghiên cứu ở từng khía 15
- cạnh để so sánh, đối chiếu với "Tội vô ý làm chết người" tại Điều 98 Bộ luật Hình sự 1999. Trên thế giới có hai cách qui định tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự. Cách thứ nhất: đó là đưa ra một quy phạm mang tính chất định nghĩa về tội vô ý làm chết người trong luật thực định. Cách thứ hai: đó là không đưa ra một quy phạm mang tính chất định nghĩa về tội vô ý làm chết người trong lụât thực định. pháp luật hình sự Việt Nam quy định theo cách thứ hai. Do đó, không đưa ra khái niệm tội vô ý làm chết người trong luật thực định. Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam có nhiều khái niệm khác nhau về tội vô ý làm chết người. Khái niệm thứ nhất cho rằng: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người làm cho người khác chết với lỗi vô ý" [27, tr. 68]. Phân tích khái niệm trên ta thấy: thứ nhất về nội dung không đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và các dấu hiệu của chủ thể đối với tội phạm này. Thứ hai, ta thấy có sự luẩn quẩn trong khái niệm trên. Đặt yếu tố lỗi sang một bên để xem xét, ta thấy, khái niệm trên không phân tách giữa khái niệm và nội hàm của khái niệm đồng thời không thể hiện nội hàm của khái niệm. Khái niệm trên có thể viết thu lại thành: ...làm chết người là hành vi của một người làm cho người khác chết... Đưa ra khái niệm về vô ý làm chết người trong tội vô ý làm chết người, Thẩm phán - ThS. Đinh Văn Quế đã nêu như sau: "Vô ý làm chết người là hành vi của một người không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây ra chết người mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hoặc tuy thấy trước nhưng tin rằng hậu quả đó không xảy ra" [31, tr. 104]. Trong khái niệm đã nêu rõ nội dung của hai hình thức lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả trong yếu tố lỗi vô ý. Tuy nhiên, chúng ta thấy, khái niệm này nặng về việc xác định hình thức lỗi hơn là việc đưa ra một khái niệm đủ sức để cá biệt hóa hành vi vô ý làm chết người với các hành vi của các tội phạm khác 16
- cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Khái niệm trên cũng chưa nêu hậu quả của hành vi đó là phải gây ra cái chết cho người khác. "Chết người" trong khái niệm trên mới ở dạng tiềm năng "khả năng gây ra cái chết". Khái niệm trên cũng giống như khái niệm thứ nhất chưa đề cập đến dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và các dấu hiệu của chủ thể đối với tội phạm này, đồng thời khái niệm này chưa làm rõ được ranh giới giữa hành vi của tội vô ý làm chết người và các hành vi của các tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Về hành vi: Trong luật hình sự Việt Nam, hành vi vô ý làm chết người không chỉ có trong tội vô ý làm chết người mà còn có trong một số tội phạm được qui định tại các điều luật khác ví dụ như: "Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ"; "Tội làm chết người do vi phạm qui tắc nghề nghiệp hoặc qui tắc hành chính";"Tội vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ"... Về cơ bản, trong những trường hợp này cũng là vô ý làm chết người, do vậy khái niệm tội vô ý làm chết người phải phân biệt được ranh giới giữa tội vô ý làm chết người với các tội phạm khác cũng có dấu hiệu vô ý làm chết người. Hành vi vô ý làm chết người để xác định tội phạm và hình phạt theo qui định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự với tội danh "Tội vô ý làm chết người" là trường hợp hành vi vô ý gây ra cái chết cho người khác trong điều kiện sinh hoạt thông thường. Những hành vi phát sinh từ sinh hoạt hằng ngày là vô cùng phong phú, muôn hình vạn trạng. Trong hầu hết các lĩnh vực chứa đựng những nguy cơ hay nguồn nguy hiểm, đều có những nguyên tắc đảm bảo an toàn. Khi thực hiện hành vi đòi hỏi chúng ta phải nắm được và tuân thủ những quy tắc an toàn để phòng ngừa và tránh những hậu quả xấu có thể xảy ra, phải cân nhắc, xem xét trước khi đi đến một hành động cụ thể. Nếu trong quá trình thực hiện, chúng ta bỏ qua những nguyên tắc đảm bảo an toàn, gây thiệt hại 17
- về tính mạng cho người khác, người thực hiện hành vi đó có thể trở thành tội phạm vô ý làm chết người. Về dấu hiệu hậu quả chết người: Việc vi phạm quy tắc an toàn trong sinh hoạt thông thường thật sự nguy hiểm đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây thiệt hại đáng kể cho quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Việc gây ra hậu quả chết người là rất nghiêm trọng. Hành vi này thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của nó khi có hậu quả chết người xảy ra. Do vậy quy định hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm mới thể hiện hết được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Đồng thời, hậu quả chết người này phải là kết quả của việc thực hiện hành vi. Hay nói cách khác là phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả chết người. Hành vi vi phạm phải chứa đựng trong nó nguy cơ thực tế dẫn đến hậu quả. Hậu quả chết người xảy ra phải là hậu quả tất yếu do hành vi vi phạm quy tắc bảo đảm an toàn đó gây ra. Và về mặt thực tế, hậu quả đó đã xảy ra. Về yếu tố lỗi: Nguyên tắc có lỗi là một nguyên tắc cơ bản. Không có lỗi thì không có tội phạm. Con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình vì hành vi của con người có tính tất yếu. Đồng thời, hành vi còn được chi phối bởi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người. Đây chính là sự tự do lựa chọn và tự do điều khiển hành vi của con người. Khi họ có đủ các điều kiện để tự do lựa chọn, tự do điều khiển hành vi, nhưng họ đã lựa chọn hành vi phạm tội, như vậy, họ đã có lỗi trong việc lựa chọn, quyết định và thực hiện hành vi phạm tội. Trước những đòi hỏi của xã hội, người phạm tội đã dùng ý chí và lý trí để lựa chọn hành động đi ngược lại với những đòi hỏi của xã hội. "Người xử sự trái với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội trong khi có tự do lựa chọn thì có nghĩa họ là người có lỗi" [19, tr. 31]. Chỉ coi là Tội vô ý làm chết người khi tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý gây ra hậu quả chết người, bao gồm cả khi họ đã nhận thức được hậu quả 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn