intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài dưới góc độ pháp luật quốc tế

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:92

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của PLQT và PLQG về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. Trên cơ sở đó, so sánh và đánh giá thực trạng pháp luật của Việt Nam với PLQT và pháp luật của các quốc gia khác về vấn đề này, từ đó đề xuất các giải pháp để Nhà nước ta hoàn thiện quy định của pháp luật về TNBTCNN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CNPN nói chung và CNPN nước ngoài nói riêng tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài dưới góc độ pháp luật quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TRƢỜNG HẢI TR¸CH NHIÖM BåI TH¦êNG CñA NHµ N¦íC §èI VíI C¸ NH¢N, PH¸P NH¢N N¦íC NGOµI D¦íI GãC §é PH¸P LUËT QUèC TÕ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHẠM TRƢỜNG HẢI TR¸CH NHIÖM BåI TH¦êNG CñA NHµ N¦íC §èI VíI C¸ NH¢N, PH¸P NH¢N N¦íC NGOµI D¦íI GãC §é PH¸P LUËT QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số : 60 38 01 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TIẾN VINH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi. Những số liệu, ví dụ và trích dẫn được nêu trong luận văn là trung thực, bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả luận văn Phạm Trƣờng Hải
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁ NHÂN, PHÁP NHÂN NƢỚC NGOÀI ............................................. 7 1.1. Khái niệm và nguồn của chế định TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài ........................................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài .............................. 7 1.1.2. Nguồn của TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài ........................... 16 1.2. Điều kiện phát sinh TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài ......... 21 1.2.1. Yếu tố thiệt hại ................................................................................... 22 1.2.2. Yếu tố hành vi nhà nước .................................................................... 23 1.2.3. Yêu tố lỗi ............................................................................................ 28 1.3. Các loại thiệt hại đƣợc bồi thƣờng đối với CNPN nƣớc ngoài ......... 31 1.3.1. Bồi thường đối với những thiệt hại vật chất ...................................... 32 1.3.2. Bồi thường đối với thiệt hại phi vật chất............................................ 34 1.3.3. Bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của CNPN .................................... 35 Chƣơng 2: THỰC TIỄN QUY ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁ NHÂN, PHÁP NHÂN NƢỚC NGOÀI.................................................................... 37 2.1. Thực tiễn pháp điển hóa chế định TNBTCNN .............................. 37 2.1.1. Pháp điển hóa chế định TNBTCNN trong PLQT .............................. 37 2.1.2. Pháp điển hóa chế định TNBTCNN trong PLQG ............................... 38
  5. 2.2. Thực tiễn quy định của pháp luật quốc gia về điều kiện phát sinh TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài ................................... 39 2.2.1. Yếu tố thiệt hại ................................................................................... 39 2.2.2. Yếu tố hành vi Nhà nước ................................................................... 41 2.2.3. Yếu tố lỗi ............................................................................................ 45 2.2.4. Nguyên tắc có đi có lại và nguyên tắc lãnh thổ ................................. 48 2.3. Nội dung TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài........................... 54 2.3.1. Các loại thiệt hại được bồi thường ..................................................... 54 2.3.2. Hình thức bồi thường ......................................................................... 58 2.3.3. Mức bồi thường .................................................................................. 59 Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁ NHÂN, PHÁP NHÂN NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM ................................................................. 61 3.1. Đánh giá thực trạng chế định TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài tại Việt Nam .................................................................. 61 3.1.1. Quan điểm pháp luật .......................................................................... 61 3.1.2. Kết quả đạt được ................................................................................ 62 3.1.3. Tồn tại và hạn chế .............................................................................. 63 3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài .................................................................. 67 3.2.1. Yêu cầu chung .................................................................................... 67 3.2.2. Một số đề xuất cụ thể ......................................................................... 71 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BTTH: Bồi thường thiệt hại CNPN: Cá nhân, pháp nhân CQNN: Cơ quan Nhà nước ĐƯQT: Điều ước quốc tế HVNN: Hành vi Nhà nước PLQG: Pháp luật quốc gia PLQT: Pháp luật quốc tế TNBT: Trách nhiệm bồi thường TNBTCNN: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước VBPL: Văn bản pháp luật
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, khi mối quan hệ giao lưu giữa các quốc gia ngày càng phát triển thì số lượng các cá nhân, pháp nhân (CNPN) mang quốc tịch một quốc gia sinh sống, làm việc tại một quốc gia khác ngày càng trở nên phổ biến. Trong mối quan hệ giữa các CNPN nước ngoài với Nhà nước nơi mà họ không mang quốc tịch, các CNPN nước ngoài có thể phải gánh chịu những thiệt hại phát sinh từ hành vi công quyền của Nhà nước đó. Vậy trong trường hợp này, họ có được hưởng các biện pháp khắc phục và BTTH hay không? Cơ sở pháp lý, bản chất của trách nhiệm của Nhà nước trong trường hợp này phải được hiểu như thế nào? Nội dung và cách thức khắc phục và BTTH của Nhà nước trong trường hợp này như thế nào? Đây là những vấn đề cần được xem xét và nghiên cứu. Trên thực tế, trong các quy định của pháp luật quốc tế (PLQT) cũng như trong quy định của pháp luật quốc gia (PLQG) đã thừa nhận TNBTCNN. Việc thể chế hóa và áp dụng các quy định pháp luật về TNBTCNN trong PLQT và trong PLQG đã thể hiện được quan điểm pháp luật tiến bộ của các quốc gia và đã đạt được những hiệu quả nhất định trong việc bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các CNPN trong mối quan hệ với Nhà nước. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên cứu lịch sử hình thành của TNBTCNN, chúng ta có thể thấy đây vẫn là một chế định pháp luật còn tương đối mới mẻ. Các quy định PLQT và PLQG vẫn còn nằm ở mức độ hạn chế. Do vậy, vẫn còn nhiều những khó khăn, vướng mắc trong việc xem xét, đánh giá và thực hiện TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. Bên cạnh đó, mặc dù các ĐƯQT đã ghi nhận TNBTCNN nhưng việc quy định 1
  8. TNBTCNN ở các quốc gia lại không có sự đồng nhất. Việc quy định và thực hiện TNBTCNN như thế nào, mức độ ra sao là tùy thuộc vào thái độ và quan điểm của từng quốc gia. Tại Việt Nam, pháp luật đã thừa nhận TNBTCNN và không có sự phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam và CNPN nước ngoài. Nhưng liệu rằng, việc giải quyết BTTH đối với các cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng tương tự như giải quyết BTTH đối với các cá nhân tổ chức Việt Nam?, liệu các quy định của pháp luật Việt Nam tại thời điểm hiện nay đã phù hợp với quy định, thông lệ quốc tế?, liệu chúng ta có cần phải có những thay đổi về mặt pháp luật hoặc có những quy định hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp BTTH cho CNPN nước ngoài hay không? Đây là vấn đề cần được nghiên cứu và đánh giá. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu các quy định của PLQT cũng như một số quốc gia trên thế giới về TNBTCNN đối với các CNPN nước ngoài là cần thiết nhằm xác định được một thể chế và cơ chế pháp lý toàn diện, hiệu quả, làm cơ sở cho việc xây dựng hoàn thiện quy định TNBTCNN. Do vậy, tôi đã chọn vấn đề “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài dưới góc độ pháp luật quốc tế” làm đề tài Luận văn thạc sỹ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài luận văn TNBTCNN là một vấn đề mới. Trên thế giới, vấn đề này chỉ thực sự được công nhận và quy định từ sau năm 1945. Tại Việt Nam, chế định này mới thực sự được nhiều người biết đến biết đến kể từ thời điểm có Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 05 năm 1997 của Chính Phủ Về việc giải quyết BTTH do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra [7]; Nghị quyết 388/2003/NQ- UBTVQH11 ngày 17 tháng 03 năm 2003 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội về BTTH cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố 2
  9. tụng hình sự gây ra [46] và đặc biệt là sau khi Luật số 35/2009/QH12 ngày 18 tháng 06 năm 2009 về TNBTCNN được ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ 01 tháng 01 năm 2010 [38]. Đến nay, đã có những bài nghiên cứu về TNBTCNN như: Luận văn thạc sỹ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” năm 2007 của tác giả Lê Thái Phương [34]; Luận văn thạc sỹ luật học “Quyền con người trong pháp luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” năm 2014 của tác giả Hà Thu Hương [22]; bài nghiên cứu Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức, cơ quan Nhà nước Việt Nam năm 2014 của tác giả Nguyễn Minh Đoan [17]; tác phẩm Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2014 của hai tác giả Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín [16]… Tuy nhiên, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của những công trình nêu trên mới chủ yếu tập trung vào TNBTCNN trong pháp luật của Việt Nam. Hơn nữa, chủ thể được BTTH được đề cập trong các công trình này chủ yếu là đối với các CNPN mang quốc tịch Việt Nam. Như vậy, tính cho đến thời điểm hiện nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể và chuyên sâu về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài dưới góc độ PLQT ở nước ta. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu của Luận văn là nghiên cứu các quy định của PLQT và PLQG về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. Trên cơ sở đó, so sánh và đánh giá thực trạng pháp luật của Việt Nam với PLQT và pháp luật của các quốc gia khác về vấn đề này, từ đó đề xuất các giải pháp để Nhà nước ta hoàn thiện quy định của pháp luật về TNBTCNN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CNPN nói chung và CNPN nước ngoài nói riêng tại Việt Nam. 3
  10. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Phân tích làm rõ khái niệm TNBTCNN và khái niệm TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài; - Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của chế định TNBTCNN đối với CNPN trong PLQT và PLQG; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về TNBTCNN trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng trong PLQT và pháp luật của các quốc gia trên thế giới; - Nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng TNBTCNN tại Việt Nam, so sánh với quy định của PLQT và pháp luật các quốc gia khác, từ đó rút ra đánh giá, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc quy định và áp dụng chế định TNBTCNN tại Việt Nam; - Trên cơ sở những nghiên cứu, đánh giá đã được thực hiện, đưa ra những đề xuất, kiến nghị về giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về TNBTCNN đối với CNPN được quy định trong các ĐƯQT, các quy định về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và trong pháp luật của Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu về nội dung bao gồm: khái niệm TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài; lịch sử hình thành chế định TNBTCNN, thực tiễn quy định về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài trong quy định của các ĐƯQT và pháp luật tại một số quốc gia; thực trạng quy định và thực hiện TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài tại Việt Nam, khó khăn, vướng mắc và những đề xuất giải pháp. 4
  11. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, kết hợp với các phương pháp cụ thể như: phương pháp phân tích, điều tra, tổng hợp, hệ thống… để luận giải, khái quát và phân tích thực tiễn theo mục đích của đề tài. 6. Tính mới và những đóng góp của đề tài Là công trình nghiên cứu khoa học về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài dưới góc độ PLQT, kết quả nghiên cứu của Luận văn đạt được một số điểm mới, cụ thể như sau: - Làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn của TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài dưới góc độ PLQT; - Sự tương quan giữa pháp luật của Việt Nam và PLQT cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới, trên cơ sở đó, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong quy định của pháp luật Việt Nam; - Đề xuất các giải pháp, góp phần hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo đảm quyền được BTTH của CNPN nước ngoài đối với những thiệt hại do người thi hành công vụ của Nhà nước Việt Nam gây ra; - TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là một nội dung mới, chưa được nghiên cứu và đề cập nhiều trong các đề tài trước đây. Với mục đích nghiên cứu cụ thể và kết quả nghiên cứu đạt được, Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các CQNN trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về TNBTCNN và các vấn đề pháp luật có liên quan. 7. Ý nghĩa của luận văn Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của đề tài “Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, pháp nhân nước ngoài dưới góc độ pháp luật quốc tế”, học viên hy vọng có thể giải đáp và dự báo đối với các vấn đề pháp lý liên quan đến chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. 5
  12. Góp một phần nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tạo nên cơ sở cho việc Nhà nước ta hoàn thiện chế định TNBTCNN đối với CNPN nói chung và CNPN nước ngoài nói riêng phù hợp với Hiến pháp và các quy định của PLQT và các ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CNPN nước ngoài sẽ tạo nên hình ảnh một Nhà nước Việt Nam dân chủ, công bằng, văn minh và là một quốc gia tôn trọng PLQT, một quốc gia tận tâm tham gia và xây dựng các mối quan hệ quốc tế bình đẳng, tiến bộ. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. Chương 2: Thực tiễn quy định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài. Chương 3: Đánh giá và đề xuất phương hướng hoàn thiện chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài tại Việt Nam. 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI CÁ NHÂN, PHÁP NHÂN NƢỚC NGOÀI 1.1. Khái niệm và nguồn của chế định TNBTCNN đối với CNPN nƣớc ngoài 1.1.1. Khái niệm TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài 1.1.1.1. Khái niệm Trong quy định của PLQT, các quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với những hậu quả phát sinh từ hành vi vi phạm PLQT của mình. Nội dung trách nhiệm của các quốc gia trong trường hợp này được gọi là Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi trái PLQT. Trong bản Báo cáo thứ ba của mình trước Ủy ban pháp luật của Liên Hợp Quốc, Roberto Ago (báo cáo viên đặc biệt của Ủy ban PLQT) đã khẳng định rằng trách nhiệm đối với những hành vi trái luật luôn tồn tại ở dạng này hay dạng khác trong hệ thống pháp luật và quyền các của các cá nhân luôn xuất phát từ hệ quả của việc vi phạm các nghĩa vụ quốc tế [59]. Theo Charles de Visscher (thành viên của Tòa trọng tài thường trực quốc tế và Tòa án công lý quốc tế) trách nhiệm nhà nước được mô tả như là "hệ quả tất yếu cần thiết của sự bình đẳng của các quốc gia. Nhưng hơn thế nữa trong trật tự pháp lý quốc tế, nó là hệ quả cần thiết cho chính trật tự pháp lý quốc tế nơi mà quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế đều phải tuân thủ [48, tr.4] Nội dung của trách nhiệm pháp lý quốc tế có thể là một hoặc nhiều những nghĩa vụ mà quốc gia phải thực hiện nhằm khắc phục hậu quả do hành vi của mình gây ra. Các biện pháp khắc phục bao gồm: (i) Nghĩa vụ chấm dứt 7
  14. hành vi vi phạm và đảm bảo không tái diễn hành vi vi phạm, (ii) nghĩa vụ bồi hoàn, bao gồm nghĩa vụ khôi phục nguyên trạng, nghĩa vụ BTTH và nghĩa vụ thỏa mãn yêu cầu của chủ thể bị thiệt hại [47, tr.782] Trong các nghĩa vụ trên đây, BTTH là nghĩa vụ cơ bản nhất, được áp dụng chủ yếu và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nghĩa vụ này có ý nghĩa đảm bảo cho quyền lợi của các chủ thể bị thiệt hại sẽ được khôi phục trong các trường hợp khi mà các nghĩa vụ khác của quốc gia đã được thực hiện nhưng không đạt hiệu quả. Nghĩa vụ bồi thường của Nhà nước là trách nhiệm pháp lý mà Nhà nước phải thực hiện khi Nhà nước gây phát sinh thiệt hại trong quá trình thực hiện hành vi công quyền của mình. Và do vậy, chúng ta gọi nghĩa vụ đó là TNBTCNN. Hiểu theo nghĩa chung nhất, bồi thường là việc đền bù những tổn thất đã gây ra [44, tr.191]. BTTH là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh đối với chủ thể gây thiệt hại nhằm đền bù những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra. Trách nhiệm BTTH là “Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại” [44, tr. 31]. Theo quy định hiện nay của PLQT về bảo vệ quyền con người, về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia, đồng thời, theo quan điểm về việc xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền nơi mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước và công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật [19] thì trong mối quan hệ giữa Nhà nước và các CNPN, Nhà nước cũng phải thực hiện TNBT đối với những thiệt hại do mình gây ra. Điều này có nghĩa là, khi Nhà nước thực hiện quyền lực công thông qua các hành vi của người thi hành công vụ mà gây thiệt hại cho các CNPN thì phải chịu TNBT [22, tr.7-8] 8
  15. Từ các nội dung được phân tích trên đây, ta có thể đưa ra khái niệm về TNBTCNN như sau: TNBTCNN là một dạng trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, theo đó, Nhà nước có nghĩa vụ phải bồi thường đối với những thiệt hại do cơ quan Nhà nước (CQNN), người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật. Chế định TNBTCNN là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm pháp luật xác định sự phát sinh, nội dung và cơ chế thực hiện TNBTCNN. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, kể từ khi Liên Hợp Quốc ra đời, PLQT phát triển với xu hướng bảo vệ quyền cơ bản của con người. Đây là những cơ sở pháp lý quốc tế vững chắc bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp của CNPN. Bên cạnh đó, vị trí của các cá nhân trong quan hệ PLQT dần thay đổi, trong nhiều trường hợp cá nhân đã được ghi nhận là một chủ thể PLQT. Do đó, trong mối quan hệ giữa Nhà nước và các cá nhân, Nhà nước cũng phải thực hiện TNBT nếu như gây thiệt hại và không gì có thể cản trở Nhà nước đảm bảo cho cá nhân các quyền và lợi ích đã được ghi nhận trong các Công ước quốc tế, hoặc xem xét một số biện pháp quốc tế để bảo vệ những quyền đó của các cá nhân. Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, mối quan hệ giữa Nhà nước với các CNPN nước ngoài trở nên phổ biến. Việc CNPN của một quốc gia sống, làm việc tại một quốc gia khác nơi họ không mang quốc tịch ngày càng nhiều hơn. Và trong quá trình Nhà nước thực hiện chức năng của mình, nếu như Nhà nước có hành vi gây thiệt hại đối với các CNPN nước ngoài thì Nhà nước cũng phải có TNBT tương tự như đối với các CNPN mang quốc tịch. Điều này có nghĩa là, đối với CNPN nước ngoài nếu phải chịu thiệt hại phát sinh từ HVNN của một quốc gia khác thì CNPN đó cũng có quyền yêu cầu bồi thường và trách nhiệm của Nhà nước đó là phải thực hiện TNBT cho những thiệt hại đã gây ra. Việc Nhà nước thực hiện TNBT đối với CNPN 9
  16. nước ngoài là nhằm đảm bảo thực hiện các ĐƯQT về quyền con người, tạo nên một môi trường xã hội công bằng giữa CNPN nước ngoài và CNPN mang quốc tịch, tạo điều kiện đẩy mạnh quá trình hội nhập. Như vậy, TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là trách nhiệm pháp lý mà ở đó Nhà nước có nghĩa vụ bồi thường đối với các CNPN nước ngoài bị thiệt hại do CQNN, người thi hành công vụ gây ra theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia và Chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là tổng thể những nguyên tắc, quy phạm pháp luật xác định sự phát sinh, nội dung và cơ chế thực hiện TNBTCNN. 1.1.1.2. Đặc điểm TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là một loại trách nhiệm pháp lý, nên ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung thì TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài còn có những đặc điểm riêng: Thứ nhất, chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý trong TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài chính là Nhà nước. Khi bàn đến vấn đề trách nhiệm pháp lý, ta thấy rằng trách nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi do Nhà nước áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật, theo đó chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những biện pháp chế tài theo quy định của pháp luật. Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý thường là giữa các CNPN với nhau hoặc là giữa CNPN với Nhà nước. Tuy nhiên, trong TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài thì chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý chính là Nhà nước. Trong trường hợp này, Nhà nước khước từ quyền ưu đãi, miễn trừ của mình để thực hiện TNBT cho CNPN nước ngoài theo quy định của pháp luật. Thứ hai, chủ thể được hưởng BTTH là CNPN nước ngoài trực tiếp bị thiệt hại hoặc cả những người thân của họ hoặc những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Ví dụ: đối với trường hợp một cá nhân bị đi tù oan sai, thì 10
  17. ngoài việc bồi thường những thiệt hại vật chất và tinh thần đối với chủ thể đó, Nhà nước còn phải xem xét trách nhiệm của mình bồi thường đối với những thiệt hại mà thân nhân hay người có liên quan tới chủ thể bị tù oan phải gánh chịu xuất phát từ sự kiện đó. Thứ ba, TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là một quan hệ pháp luật mang tính quốc tế giữa quốc gia và các cá nhân nước ngoài, trách nhiệm của quốc gia đã được ghi nhận trong các ĐƯQT, nhưng trên thực tế TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài chỉ được đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định theo quy định của PLQG. Các điều kiện phát sinh thông thường bao gồm điều kiện về thiệt hại, điều kiện về HVNN và mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và HVNN. Ngoài các điều kiện phát sinh cơ bản trên đây thì còn những điều kiện khác như, yếu tố lỗi, yếu tố phạm vi bồi thường… tùy vào sự phát triển và thái độ của từng quốc gia mà các điều kiện phát sinh TNBTCNN đối với các CNPN nước ngoài được quy định ở mức độ khác nhau. Thứ tư, trong nhiều trường hợp, việc thực hiện TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài được thực hiện trên cơ sở của sự thừa nhận trách nhiệm của các quốc gia với nhau. Nhiều quốc gia chỉ thực hiện TNBT đối với CNPN nước ngoài trong trường hợp quốc gia nơi CNPN nước ngoài mang quốc tịch cũng thực hiện trách nhiệm tương tự đối với công dân của họ (nguyên tắc có đi có lại). Để bảo vệ vấn đề chủ quyền của mình thì họ chỉ thực hiện TNBT trên phạm vi lãnh thổ của nước họ, những thiệt hại phát sinh ngoài lãnh thổ sẽ không được bồi thường. Thứ năm, TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là trách nhiệm của Nhà nước đối với các cá nhân, nhưng đồng thời cũng chính là trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia trong quan hệ PLQT. Việc một quốc gia không thực hiện TNBT đối với CNPN mang quốc tịch của một quốc gia khác 11
  18. có thể là sự vi phạm nghĩa vụ đã cam kết của các quốc gia trong các ĐƯQT song phương hoặc đa phương mà quốc gia đó là thành viên. Trong pháp luật quốc tế, TNBTCNN đối với CNPN mang quốc tịch của các quốc gia khác là một dạng trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia, là trách nhiệm giữa các quốc gia với nhau và được các quốc gia thừa nhận và cam kết thực hiện theo quy định tại các ĐƯQT. Ở góc độ này, chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài được ghi nhận là một chế định của công pháp quốc tế. Tuy nhiên, trong quy định pháp luật của các quốc gia, chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài mang bản chất của chế định bồi thường ngoài hợp đồng, là quan hệ được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự. do vậy chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài cũng được xem là thuộc lĩnh vực điều chỉnh của tư pháp quốc tế. Đến thời điểm hiện nay, còn có những quan điểm khác nhau về bản chất của chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là công pháp quốc tế hay tư pháp quốc tế, đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và làm rõ. Tuy nhiên, nếu căn cứ về quan điểm pháp luật quốc tế hiện nay chưa thực sự công nhận các cá nhân là chủ thể của pháp luật quốc tế thì việc các quốc gia thực hiện TNBTCNN đối với các CNPN nước ngoài dưới góc độ PLQT sẽ được ghi nhận là trách nhiệm của quốc gia đối với quốc gia, do vậy chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài là chế định pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của Công pháp quốc tế. 1.1.1.3. Quá trình hình thành chế định TNBTCNN đối với CNPN nước ngoài TNBTCNN đối với các CNPN là một khái niệm mới trong quy định của PLQT cũng như quy định PLQG cả về mặt khoa học cũng như thực tiễn pháp luật trên thế giới. Chế định TNBTCNN được hình thành qua một quá trình lâu dài gắn liền với sự phát triển của chế định quyền con người và vị trí chủ thể của cá nhân trong quan hệ PLQT. Khi cá nhân được coi là 12
  19. một chủ thể trong quan hệ PLQT, khi quyền con người được bảo về và mở rộng thì chế định TNBTCNN cũng xuất hiện. Quá trình này trải qua những giai đoạn cơ bản sau: Giai đoạn trước thế kỷ XIX Trong thời kỳ các Nhà nước phong kiến, với quan niệm “Vua không làm điều sai”, TNBTCNN đối với những thiệt hại do bộ máy công quyền gây ra không được thừa nhận. Trong thời kỳ Nhà nước tư sản, mặc dù các vấn đề về quyền con người đã bắt đầu được ghi nhận, vị thế của cá nhân đã được nâng cao hơn trong mối quan hệ với Nhà nước, các quyền cá nhân và quyền tập thể của tất cả các giai cấp là bình đẳng (những quan điểm tiến bộ này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Cộng hòa Pháp), nhưng quan điểm về TNBTCNN đối với các CNPN vẫn chưa được thừa nhận. Cho đến tận cuối thế kỷ thứ XIX, hầu hết các quốc gia đều không ghi nhận nguyên tắc Nhà nước có TNBT. Khi có thiệt hại phát sinh thì nạn nhân chỉ có cách duy nhất tự là tự gánh chịu hậu quả. Tại Hoa Kỳ, các nhà nước liên bang không ghi nhận TNBT của bộ máy hành chính, Hiến pháp Mỹ cũng đã không nhắc đến quyền của công dân được bảo đảm bởi trách nhiệm của bộ máy hành chính, Tòa án tối cao cũng ủng hộ quan niệm phong kiến ghi nhận rằng Hòa Kỳ và bộ máy hành chính của Hoa Kỳ không thể bị truy tố nếu như không có sự đồng ý của Quốc Hội [58]. Tại Vương quốc Bỉ, quản điểm pháp luật cũ cũng loại trừ trách nhiệm của Nhà nước, mà cụ thể là TNBT trong hoạt động lập pháp nếu như việc ban hành luật pháp gây thiệt hại. Năm 1876 F.Laurant thông qua dẫn chứng là Bản án giám đốc thẩm ngày 27 tháng 6 năm 1845 của Tòa Tư pháp tối cao (Tòa phá án) đã nêu lên một thực tế rằng quyền lập pháp của Nhà nước không 13
  20. có tính phải chịu trách nhiệm, việc tuân thủ luật pháp là nghĩa vụ, trách nhiệm chỉ dành cho các cá nhân, công dân [56]. Trong thời kỳ này, trong các quy định của PLQT cũng không ghi nhận quyền được BTTH đối với các CNPN theo ý nghĩa là TNBTCNN đối với CNPN. Trên thực tế, có những ĐƯQT ghi nhận quốc gia có nghĩa vụ phải BTTH đối với các CNPN nhằm khắc phục hậu quả của chiến tranh, tuy nhiên đây là vấn đề quan hệ về chủ quyền giữa các quốc gia, là một dạng trách nhiệm pháp lý của quốc gia này đối với quốc gia khác chứ không được xem là TNBTCNN đối với CNPN. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Ở giai đoạn này, ý tưởng nghiên cứu chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đã bắt đầu xuất hiện. Hội nghị của các quốc gia châu Mỹ (vào các năm 1889, 1890 và 1902) thông qua Công ước đề cập đến các quyền của công dân nước ngoài theo hai nguyên tắc: (i) Nhà nước phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đã gây ra cho thể nhân hoặc tài sản của người nước ngoài, nếu thiệt hại là kết quả vi phạm các cam kết của CQNN; (ii) Nhà nước chỉ có thể bảo vệ ngoại giao đối với người bị thiệt hại là công dân, sau khi quốc gia sở tại giải quyết các quan hệ pháp lý của người có liên quan [1]. Trong PLQG, quan điểm Nhà nước có TNBT cũng đã xuất hiện và trên thực tế Nhà nước đã thực hiện TNBT đối với những thiệt hại phát sinh từ hành vi công quyền của mình, Bản án năm 1873 của Hội đồng phân xử xung đột thẩm quyền của Cộng hòa Pháp đã ghi nhận TNBTC của Nhà nước Pháp đối với thiệt hại của Argnet Blanco phát sinh từ việc Nhà nước Pháp không đảm bảo việc thực hiện chức năng quản lý đối với tài sản công [61]. Giai đoạn sau Đại chiến thế giới thứ hai Sau năm 1945, Đại chiến thế giới thứ hai kết thúc, nhiều phong trào cách mạng dân chủ thành công dẫn tới sự ra đời của các nhà nước dân chủ 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0