intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là làm sáng tỏ một cách có hệ thống chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt là căn cứ để quy trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các căn cứ để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Từ thực tiễn áp dụng đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HƯƠNG TR¸CH NHIÖM DO VI PH¹M Formatted: Portuguese (Brazil) HîP §åNG MUA B¸N HµNG HãA QUèC TÕ TRONG §IÒU KIÖN HéI NHËP KINH TÕ QUèC TÕ Chuyên ngành: Luật quốc tế Mã số: 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI - 2014
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Formatted: Font: 18 pt, Portuguese (Brazil) Formatted: Portuguese (Brazil) Nguyễn Thị Hương
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 444 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ............................... 666 1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ........................................... 666 1.1.1. Khái niệm ......................................................................................... 666 1.1.2 . Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .................. 121212 1.1.3. Điều kiện có hiệu lực của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế181818 1.1.4. Luật điều chỉnh Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế............... 242424 1.2. Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 323232 1.2.1. Khái niệm về trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ......................................... 333333 1.2.2. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ......................................................................... 383838 1.2.3. Các căn cứ miễn trách nhiệm và chế tài do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế .......................................................... 393939 Chương 2: TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ .......................................................... 414141 2.1. Căn cứ để quy trách nhiệm do vi phạm hợp đồng ................ 414141 2.1.1. Có sự vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................ 414141 2.1.2. Có thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm ................................. 444444 2.1.3. Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng .............................................. 454545 2.1.4. Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm và thiệt hại về tài sản của bên bị vi phạm ........................ 474747
  4. 2.2. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................... 494949 2.2.1. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng ...................................... 494949 2.2.2. Chế tài phạt vi phạm................................................................... 525252 2.2.3. Chế tài bồi thường thiệt hại ........................................................ 565656 2.2.4. Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng ...................................... 606060 2.2.5. Chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng .......................................... 616161 2.2.6. Chế tài hủy bỏ hợp đồng ............................................................ 626262 2.3. Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước Viên năm 1980 và pháp luật quốc gia...................................................................................... 707070 2.3.1. Điểm giống nhau ........................................................................ 707070 2.3.2. Sự khác nhau trong quy định của Công ước Viên và pháp luật quốc gia về các hình thức trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.......................................................................... 717171 2.4. Các căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................... 727272 2.4.1. Sự kiện bất khả kháng ................................................................ 727272 2.4.2. Miễn trách nhiệm do lỗi của bên bị vi phạm.............................. 818181 2.4.3. Miễn trách nhiệm theo quy định của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................................................................. 838383 2.4.4. Miễn trách nhiệm khi người thứ ba có quan hệ với một bên của hợp đồng gặp bất khả kháng ...................................................... 848484 2.4.5. Trường hợp miễn trách nhiệm khác ........................................... 858585 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ......................... 888888
  5. 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ....................................................................... 888888 3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm tạo điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam chọn luật Việt Nam áp dụng cho hợp đồng ... 888888 3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế để tạo thuận lợi cho các cơ quan tài phán khi giải quyết tranh chấp về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ................................................................................. 909090 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế909090 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ............................... 909090 3.2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ...................... 949494 KẾT LUẬN ...................................................................................... 101101101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................... 103103103
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT HĐMBHHNT: Hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương HĐMBHHVTNNN: Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài LHĐTQ: Luật hợp đồng Trung Quốc LTMVN: Luật thương mại Việt Nam MBHHQT: Mua bán hàng hóa Quốc tế UCC: Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ UNCITRAL: Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế WOT: Tổ chức thương mại thế giới
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được xây dựng và phát triển trên nền tảng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua hơn hai thập niên đổi mới và phát triển đã khẳng định đường lối phát triển đất nước của Đảng ta là đúng đắn khi đưa đất nước ta từ một nước với nền nông nghiệp lạc hậu chuyển mình thành một đất nước có nền kinh tế đa dạng, phong phú, kết hợp được sức mạnh bên trong và tận dụng được sự hỗ trợ bên ngoài. Đặc biệt trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta thay đổi từng ngày, từng giờ trên cả bình diện trong nước và quốc tế. Góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế, tạo tiềm lực và củng cố các điều kiện cần thiết cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới, trong hơn hai thập kỷ qua lĩnh vực xuất nhập khẩu đã chứng minh vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu đã đạt mức tăng trưởng cao. Cùng với những thành tích xuất sắc đã đạt được, lĩnh vực xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều tồn tại mà nguyên nhân chủ yếu là trình độ phát triển của đất nước còn thấp, sức cạnh tranh của hàng hóa chưa cao, năng lực, trình độ của doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn hạn chế. Trong suốt sự phát triển của đất nước có sự đóng góp không nhỏ của hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Bên cạnh những kết quả đạt được thì trong lĩnh vực mua bán hàng hóa quốc tế nhiều khi khó khăn, cản trở đến từ chính cơ chế, chính sách và pháp luật. Mua bán hàng hóa quốc tế nhiều khi không thuận lợi, các vụ vi phạm ngày càng gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp. Việc giải quyết các vi phạm này phụ thuộc rất nhiều vào cả yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó một số yếu tố thường xảy đến với doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cạnh tranh không cao, thiếu kinh nghiệm trong giao thương quốc tế, thiếu hiểu biết về pháp luật cũng như các tập quán thương mại quốc tế, áp 1
  8. dụng pháp luật còn non kém… lại phải đối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài có bề dày kinh nghiệm thương trường quốc tế, sắc sảo và kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng, hiểu biết và vận dụng tốt pháp luật cũng như các tập quán thương mại quốc tế. Vì thế các doanh nghiệp Việt Nam thường bị thiệt thòi trong các tranh chấp quốc tế. Với việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng của kinh tế Việt Nam, pháp luật về thương mại quốc tế đã và đang là công cụ hữu hiệu và vô cùng cần thiết để bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thương mại nói chung và Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế), trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục. Vì vậy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng mang tính cấp thiết, cần được nghiên cứu nghiêm túc và điều chỉnh kịp thời. Luật thương mại đã đi vào cuộc sống được 8 năm, thực tiễn thi hành luật đối với trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bộc lộ nhiều bất cập. Việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống từ những vấn đề lý luận, thực tiễn về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định bởi pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam là một vấn đề mang tính cấp bách, có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời, việc đi sâu nghiên cứu chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam hiểu rõ, vận dụng có hiệu quả pháp luật và các tập quán thương mại quốc tế trong quá trình thực hiện Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và một số khía cạnh chuyên sâu về 2
  9. pháp luật mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng đã được một số chuyên gia, học giả nghiên cứu. Đối với khía cạnh chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau: “Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật Việt Nam” của Trương Văn Dũng, Luận án Tiến sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2003. “Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài theo pháp luật Việt Nam” của Trương Anh Tuấn, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003. “Pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong kinh doanh – thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của Quách Thúy Quỳnh, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005. “Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thụy Phương, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Trong các công trình nêu trên, một số công trình đề cập một cách khái quái hầu hết các vấn đề về mua bán hàng hóa quốc tế trong bối cảnh Việt Nam mới hội nhập kinh tế quốc tế; một số công trình khác nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật Việt Nam điều chỉnh chế độ trách nhiệm vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc một chế tải cụ thể đối với hành vi vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, đặc biệt là sau khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới, và đây là luận văn thạc sỹ đầu tiên nghiên cứu vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích: Làm sáng tỏ một cách có hệ thống chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đặc biệt là căn cứ để quy trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các căn cứ để miễn trách nhiệm cho bên vi phạm hợp đồng. Từ thực tiễn áp dụng đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Nhiệm vụ: Với mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ sau: Làm sáng tỏ một 3
  10. số vấn đề lý luận chung về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; Phân tích và so sánh các căn cứ quy trách nhiệm, các chế độ trách nhiệm và các căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005 (LTMVN) với những quy định tương ứng theo Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật một số nước, pháp luật khu vực; Rút ra một số điểm còn bất cập, chưa hợp lý của LTMVN về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; Đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. 4. Phạm vi nghiên cứu Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một vấn đề rộng và tương đối phức tạp. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, khi nghiên cứu về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, luận văn giới hạn ở việc phân tích các yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các căn cứ miễn trách nhiệm và các chế tài do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của: Một số văn bản pháp luật quốc tế như Công ước Viên năm 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình, Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế… Hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế như: Bộ luật dân sự năm 2005, Luật thương mại năm 2005 (có đối chiếu, so sánh với Luật thương mại năm 1997 đã hết hiệu lực thi hành); Pháp luật của một số quốc gia về lĩnh vực này mà có quan hệ thương mại thường xuyên với Việt Nam như: Trung Quốc, Mỹ, Pháp. Ngoài ra, do hiện nay khái niệm về hàng hóa đã có nhiều thay đổi, hàng hóa theo cách hiểu hiện nay bao gồm hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình, việc mua bán hai loại hàng hóa này có nhiều điểm đặc thù, do đó trách nhiệm do vi phạm hợp đồng đối với hai loại hàng hóa này ngoài những điểm giống nhau cũng có nhiều điểm khác nhau. Phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ giới hạn ở việc mua bán quốc tế hàng hóa hữu hình. 4
  11. 5. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của Đề tài là quan điểm của Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp luật. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Đề tài đặc biệt coi trọng các phương pháp hệ thống, lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp, so sánh pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Những phân tích, đánh giá và kiến nghị của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc ký kết và hạn chế rủi ro, tranh chấp trong việc thực hiện Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, góp phần kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chế độ trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đề tài cũng giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiểu và vận dụng tốt hơn pháp luật trong quá trình thực hiện Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. 7. Bố cục của Luận văn Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Chương 2: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Chương 3: Một số kiến nghị Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. 5
  12. Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TRÁCH NHIỆM DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG Formatted: English (United States) MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ 1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1.1.1 . Khái niệm Để trao đổi, mua hoặc bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế, các thương nhân đóng trụ sở thương mại ở các nước khác nhau ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với nhau, ví dụ như: Thương nhân đóng trụ sở thương mại tại Hoa Kỳ ký hợp đồng mua bán giầy da với thương nhân đóng trụ sở thương mại tại Việt Nam; thương nhân có trụ sở thương mại tại Trung Quốc ký hợp đồng mua chuối của thương nhân có trụ sở thương mại tại Philipin… Những hợp đồng này là hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế, được gọi ngắn gọn là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế). Vậy Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì? Thứ nhất, Theo Công ước La Haye năm 1964 về mua bán quốc tế những động sản hữu hình (gọi tắt là công ước La Haye năm 1964), tại điều 1 quy định: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại đóng ở các nước khác nhau và hàng hóa được chuyển từ nước người bán sang nước người mua, hoặc ký kết hợp đồng được diễn ra ở các nước khác nhau. Theo công ước này, tiêu chí ký kết hợp đồng được hiểu là ký kết ở nước người bán hoặc nước người mua hoặc nước thứ ba. Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Như vậy theo Công ước La Haye, tiêu chí quan trọng nhất để xác định một hợp đồng là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là tiêu chí trụ sở thương mại của bên mua và bên bán phải đóng ở các nước khác nhau. Thứ hai, Theo Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (United Nations Convention on Contracts for International Sales 6
  13. of Goods, Vienna 1980 – CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm 1980), tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định tại điều 1 như sau: 1. Công ước áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau. a. Khi các quốc gia là các quốc gia thành viên của Công ước hoặc, b. Khi theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của nước thành viên Công ước này. 2 Sự kiện các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau không tính đến nếu sự kiện này không xuất phát từ hợp đồng, từ các mối quan hệ đã hình thành hoặc vào thời điểm ký hợp đồng giữa các bên hoặc là từ việc trao đổi thông tin giữa các bên. 3. Quốc tịch của các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước. Theo Công ước Viên 1980 chỉ có một tiêu chí duy nhất để xác định một hợp đồng là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là tiêu chí bên mua và bên bán phải có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Giống như Công ước La Haye năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Nhưng khác với Công ước La Haye năm 1964, Công ước Viên năm 1980 không đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước, việc chào hàng và chấp nhận chào hàng phải được độc lập ở các nước khác nhau để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Như vậy, dù hai công ước quan trọng nhất về mua bán hàng hóa quốc tế là Công ước La Haye năm 1964 và Công ước Viên năm 1980 không đưa ra khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhưng đều lấy tiêu chí trụ sở thương mại của các bên đương sự làm tiêu chí quan trọng nhất để xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Cùng với sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, các điều ước quốc tế về thương mại quốc tế hiện nay đều có quan điểm tương đối thống nhất về tiêu chí xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó là tiêu chí các bên tham gia hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại các quốc gia khác 7
  14. nhau. Yếu tố quốc tịch của các bên, hay hàng hóa phải dịch chuyển qua biên giới quốc gia, hay việc chào hàng và chấp nhận chào hàng phải được độc lập ở các nước khác nhau… không còn là tiêu chí bắt buộc nữa. Điều này giải thích cho việc các hợp đồng mua bán hàng hóa trong khu chế xuất, khu thương mại tự do. cũng được coi là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Thứ ba, Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quan điểm của Pháp: khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, Cộng hòa Pháp căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán. Thứ tư, Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam: Trong hoạt động giao thương quốc tế, hợp đồng mua bán hàng hóa giữa thương nhân có trụ sở thương mại tại Việt Nam và thương nhân có trụ sở thương mại tại nước khác được ký kết, các hợp đồng này được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: “hợp đồng xuất nhập khẩu”, “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài”, “hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương”. Dù với tên gọi nào thì các hợp đồng này vẫn là hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trước khi trở thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế thì hợp đồng đó phải là hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại Đạo luật gốc của Việt Nam là Bộ luật Dân sự, cụ thể tại điều 428 quy định: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán. Để hợp đồng mua bán tài sản trở thành Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì hợp đồng phải thêm điều kiện yếu tố quốc tế, pháp luật Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển của đất nước lại quy định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm hoặc tiêu chí xác định yếu tố quốc tế của Hợp đồng mua 8
  15. bán hàng hóa quốc tế: Một là: Quy chế tạm thời số 4794-TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp hướng dẫn việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương (HĐMBHHNT) đưa ra khái niệm HĐMBHHNT như sau: Hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương là hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất quốc tế. Tính chất này của hợp đồng mua bán hàng hoá ngoại thương thể hiện ở những mặt sau: a. Chủ thể của HĐMBHHNT là các pháp nhân có quốc tịch khác nhau. b. Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng thông thường được di chuyển từ nước này qua nước khác. c. Đồng tiền thanh toán trong HĐMBHHNT là ngoại tệ đối với một hoặc cả hai bên ký kết hợp đồng. Theo quy chế này thì HĐMBHHNT tiêu chí xác định tính quốc tế là: thứ nhất, hợp đồng được ký kết giữa pháp nhân Việt Nam, mang quốc tịch Việt Nam, có trụ sở thương mại tại Việt Nam và thương nhân có quốc tịch nước ngoài, có trụ sở thương mại ở nước ngoài; thứ hai, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển từ nước người bán sang nước người mua; thứ ba, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ của một hoặc cả hai bên. Những tiêu chí này đã khẳng định HĐMBHHNT là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Quá trình thực hiện cho thấy quy chế này bộc lộ nhiều bất cập: Ngay từ tên gọi là HĐMBHHNT cũng chưa chính xác dưới góc độ khoa học pháp lý vì đối tượng của hợp đồng không phải là “ngoại thương” mà là hàng hóa. Trong quá trình áp dụng Quy chế cũng cho thấy nhiều bất cập: việc xác định quốc tịch của pháp nhân nước ngoài cũng không dễ dàng vì quy định của các nước về vấn đề này có sự khác nhau, ví dụ: Pháp luật của Pháp quy định xác định quốc tịch của pháp nhân theo pháp luật nơi có địa chỉ thường trú của pháp nhân, thường là nơi thường trú của cơ quan điều hành, pháp luật của Anh, Mỹ quy định quốc tịch của pháp nhân được xác định theo luật của nước nơi đăng ký điều lệ hoạt động. Bên cạnh đó, việc hình thành các khu chế xuất thì tiêu chí hàng hoá là đối tượng của hợp đồng phải được di chuyển qua biên giới quốc gia cũng không còn phù hợp nữa. Hai là Luật thương mại Việt Nam năm 1997: Đây là đạo luật thương mại đầu tiên của Việt Nam đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi 9
  16. quốc tế với tên gọi “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài” (HĐMBHHVTNNN) tại điều 80 quy định: Hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài [22, Điều 80]. Tiêu chí để xác định thương nhân nước ngoài được quy định tại điều 81: Chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải có đủ tư cách pháp lý. Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc tịch [22, Điều 81]. Như vậy, tiêu chí quan trọng nhất để xác định HĐMBHHVTNNN là yếu tố quốc tịch khác nhau của bên mua và bên bán – một bên có quốc tịch Việt Nam và một bên có quốc tịch nước ngoài. Như phân tích ở trên, việc xác định quốc tịch của pháp nhân nước ngoài không hề dễ dàng với quy định quốc tịch pháp nhân của các quốc gia khác nhau là không đồng nhất. Mặt khác, trong điều kiện thực tiễn thương mại Việt Nam, ngày càng nhiều thương nhân mang quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở thương mại tại Việt Nam mua bán hàng hóa với thương nhân có quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở ở nước ngoài. Trong trường hợp này yếu tố quốc tịch khác nhau không còn ý nghĩa mà chỉ cần trụ sở thương mại của các bên (bên mua và bên bán) đặt tại các nước khác nhau là đủ để xác định Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đồng thời, sự hình thành các khu chế xuất với việc mua bán hàng hóa giữa thương nhân ngoài khu chế xuất với thương nhân trong khu chế xuất thì quy định yếu tố quốc tịch khác nhau của các bên là tiêu chí xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không còn phù hợp. Ba là Luật thương mại Việt Nam năm 2005: đạo luật hiện hành về thương mại của Việt Nam không đưa ra khái niệm hay định nghĩa thế nào là Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cũng không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chỉ liệt kê ra các hình thức và cũng là các hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại điều 27, bao gồm: xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu. Khái niệm về các hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế được làm rõ tại điều 28, 29, 30, cụ thể: 10
  17. Xuất khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam. Tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam. Chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam [26, Điều 28]. Các khái niệm trên đã chỉ rõ sự khác biệt giữa luật thương mại năm 2005 và luật thương mại năm 1997 về tiêu chí xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Luật thương mại năm 1997 thì dựa trên tiêu chí quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng, tức là một bên phải là thương nhân có quốc tịch nước ngoài. Còn Luật thương mại năm 2005 lấy tiêu chí hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng để xác định tính chất quốc tế của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ khoa học pháp lý có thể đưa ra khái niệm về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, theo đó một bên gọi là bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho một bên gọi là bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và 11
  18. thanh toán tiền hàng cho bên bán. 1.1.2 . Đặc điểm của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước hết cũng có những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, đó là: Là sự thỏa thuận giữa các bên, thể hiện sự tự nguyện, thống nhất ý chí của bên mua và bên bán; Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường theo quy định pháp luật; Chủ thể tham gia hợp đồng bình đẳng với nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa; Là hợp đồng song vụ, có đền bù và là hợp đồng ưng thuận. Ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng mua bán hàng hóa, Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có những đặc điểm riêng mang tính chất đặc trưng, những đặc điểm này là căn cứ để phân biệt Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước, cụ thể: Thứ nhất, Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau: bên mua và bên bán trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải có trụ sở thương mại đóng tại các nước khác nhau, không được cùng đóng trên phạm vi một nước. Thông thường doanh nghiệp đóng trụ sở thương mại ở quốc gia nào thì mang quốc tịch của quốc gia đó, vì vậy trong phần lớn Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì các bên tham gia hợp đồng có quốc tịch khác nhau. Quốc tịch của các bên trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có ý nghĩa quan trọng vì việc xác định năng lực pháp luật, tư cách pháp lý của doanh nghiệp tham gia hợp Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được xác định theo pháp luật mà doanh nghiệp mang quốc tịch. Trước khi các bên giao kết hợp đồng, các bên phải quan tâm đến quốc tịch của đối tác để xác định đối tác có đủ tư cách pháp lý theo pháp luật mà đối tác mang quốc tịch không, bởi đây là điều kiện bắt buộc đầu tiên để hợp đồng có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên pháp luật các quốc gia không đồng nhất trong quy định cách xác định quốc tịch của chủ thể Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Theo quy định pháp luật của Cộng hòa Pháp, pháp nhân là chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đặt trung tâm quản lý (cơ quan điều hành) tại quốc gia 12
  19. nào thì mang quốc tịch của quốc gia đó. Anh và Mỹ thì quy định quốc tịch của pháp nhân được xác định theo nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập, không tính đến nơi đặt trụ sở chính hoặc nơi hoạt động của pháp nhân. Nga và một số nước Đông Âu thì áp dụng cả hai nguyên tắc trên để xác định quốc tịch của pháp nhân. Theo pháp luật Việt Nam, Bộ luật Dân sự quy định về năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài tại điều 765 như sau: Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật thương mại Việt Nam năm 2005 quy định chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải có đủ tư cách pháp lý và tại điều 16 quy định: Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận. Tuy nhiên, không phải lúc nào vấn đề quốc tịch của thương nhân cũng được đặt ra như Công ước Viên năm 1980 không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên tham gia Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bên cạnh đó, cũng có những trường hợp một pháp nhân được hai hay nhiều quốc gia coi là mang quốc tịch nước mình. Do đó để xác định chủ thể Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có đủ năng lực pháp luật tham gia hợp đồng hay không thì các nước phải ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế đa phương hoặc song phương để giải quyết vấn đề xung đột pháp lý này. Thứ hai, Đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung là hàng hóa. Theo Từ điển Tiếng việt định nghĩa hàng hóa là “sản phẩm do lao động làm ra được mua bán trên thị trường” [37, tr.1125]. Điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, Điều ước quốc tế và pháp luật các nước trên thế giới cũng đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hàng hóa là đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: 13
  20. Công ước Viên năm 1980 không đưa ra khái niệm về hàng hóa mà dùng biện pháp loại trừ những hàng hóa không thuộc đối tượng điều chỉnh của Công ước Viên tại Điều 2 quy định: Công ước này không áp dụng vào việc mua bán: Các hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc nội trợ, ngoại trừ khi người bán, vào bất cứ lúc nào trong thời gian trước hoặc vào thời điểm ký kết hợp đồng, không biết hoặc không cần phải biết rằng hàng hóa đã được mua để sử dụng như thế; Bán đấu giá; Ðể thi hành luật hoặc văn kiện uỷ thác khác theo luật; Các cổ phiếu, cổ phần, chứng khoán đầu tư, các chứng từ lưu thông hoặc tiền tệ; Tàu thủy, máy bay và các phương tiện chạy trên đệm không khí; Ðiện năng. Theo pháp luật Hoa Kỳ, Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ đưa ra khái niệm hàng hóa với tư cách là đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là: Hàng hóa là một vật (bao gồm cả những hàng hóa được sản xuất đặc biệt) được đưa vào trong hợp đồng bán hàng tại thời điểm xác định chứ không phải là khoản tiền sẽ được thanh toán trong hợp đồng, không phải là cổ phiếu đầu tư và những vật khác. Quy định này cho phép hiểu rằng, hàng hóa là đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải là vật đang tồn tại và di chuyển được vào thời điểm diễn ra quan hệ mua bán. Pháp luật Việt Nam cũng không có định nghĩa hàng hóa là đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Trong đó pháp luật chuyên ngành của Việt Nam về lĩnh vực thương mại là Luật thương mại năm 2005 không đưa ra khái niệm về hàng hóa là đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chỉ liệt kê những hàng hóa là đối tượng điều chỉnh của luật tại Điều 3, khoản 2: Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai. Với quy định này có thể hiểu đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chỉ bao gồm hàng hóa là tài sản hữu hình. Bên cạnh đó, để trở thành đối tượng của Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, theo pháp luật Việt Nam hàng hóa còn phải đáp ứng những điều kiện khác do pháp luật quy định là không thuộc danh mục những mặt hàng bị cấm hoặc hạn chế xuất nhập khẩu. Từ những phân tích trên đây có thể khẳng định: hàng hóa là đối tượng của 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2