intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế

Chia sẻ: Cẩn Ngữ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

39
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là để làm rõ một số nội dung pháp lý, cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật HQ về TXK, TNK. Qua đó, đánh giá tổng thể thực trạng áp dụng trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, đồng thời có sự so sánh quy định này với quy định của một số nước trên thế giới để kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về HQ khi thực hiện việc quản lý TXK, TNK trước yêu cầu đổi mới và hoàn thiện các quy định pháp luật này tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế

  1. §¹I HäC QUèC GIA Hµ NéI KHOA LUËT §µo ThÞnh Vinh TR¸CH NHIÖM PH¸P Lý CñA §èI T¦îNG NéP THUÕ §èI VíI C¸C HµNH VI VI PH¹M PH¸P LUËT H¶I QUAN VÒ THUÕ XUÊT KHÈU, THUÕ NHËP KHÈU LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2010
  2. §¹I HäC QuèC GIA Hµ NéI KHOA LUËT §µo ThÞnh Vinh TR¸CH NHIÖM PH¸P Lý CñA §èI T¦îNG NéP THUÕ §èI VíI C¸C HµNH VI VI PH¹M PH¸P LUËT H¶I QUAN VÒ THUÕ XUÊT KHÈU, THUÕ NHËP KHÈU Chuyªn ngµnh: LuËt Kinh tÕ M· sè: 60 38 50 LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS. Nguyễn Anh Sơn Hµ Néi - 2010
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố tại bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đào Thịnh Vinh
  4. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 01 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, 06 THUẾ NHẬP KHẨU, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ VỚI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT HẢI QUAN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU. 1.1. Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 06 1.1.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 06 1.1.2 Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 11 1.2. Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và trách nhiệm 14 pháp lý do vi phạm pháp luật trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 1.2.1 Đối tượng nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 14 1.2.2 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan về thuế xuất khẩu, 16 thuế nhập khẩu 1.2.3 Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật 18 hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 1.3 Pháp luật hải quan một số nước về vấn đề trách nhiệm pháp lý của 23 đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Chương 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA 28 ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ DO VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM. 2.1. Quá trình hình thành, phát triển của pháp luật trong lĩnh vực hải 28 quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế. 2.1.1 Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945- 1954) 28 2.1.2 Thời kỳ xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giải 31 phóng miền Nam thống nhất đất nước (1954 - 1975)
  5. 2.1.3 Thời kỳ thống nhất đất nước - trước cải cách hệ thống chính sách 34 thuế (1975 - 1989) 2.1.4 Thời kỳ thành lập ngành thuế nhà nước thống nhất (từ năm 1990 36 đến nay) 2.2. Thực trạng việc thực hiện trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp 39 thuế do vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 2.2.1 Hiệu quả thực hiện trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do 39 vi phạm pháp luật HQ về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 2.2.2 Thực tiễn thi hành, áp dụng trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp 44 thuế khi vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRÁCH NHIỆM 58 PHÁP LÝ CỦA ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ DO VI PHẠM PHÁP LUẬT HẢI QUAN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU. 3.1. Giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật, giải quyết triệt để các 58 vi phạm phát sinh liên quan thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 3.1.1 Về cơ chế, chính sách 58 3.1.2 Hỗ trợ thông tin về chính sách, pháp luật thuế và vấn đề trách 63 nhiệm pháp lý liên quan đến thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về vấn đề trách nhiệm pháp lý hành chính 64 3.2. Nghiên cứu, hoàn thiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Hải 71 quan trong áp dụng trách nhiệm pháp lý với vi phạm về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3.3. Về công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm pháp luật về thuế 73 xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3.4 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hải quan trong áp 74 dụng trách nhiệm pháp lý với đối tượng nộp thuế vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3.5 Nâng cao ý thức của cá nhân, doanh nghiệp trong việc thực hiện 78 pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 3.6 Tuyên tuyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan đến vấn đề 80 trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế KẾT LUẬN 85 DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO 87
  6. BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 1. BTC Bộ Tài chính 2. HQ Hải quan 3. TNPL Trách nhiệm pháp lý 4. TXK Thuế xuất khẩu 5. TNK Thuế nhập khẩu 6. VPPL Vi phạm pháp luật
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1: Số vụ vi phạm dẫn đến chênh lệch thuế
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là loại thuế có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, để tăng cường nguồn thu, nhà nước cần có những biện pháp đẩy mạnh việc quản lý nguồn thu từ TXK, TNK tránh thất thu cho ngân sách. Theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Trung ương Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý nhà nước về hải quan được định hướng phát triển theo xu hướng hội nhập quốc tế nhưng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Thời gian qua, Việt Nam đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)… quá trình tham gia vào các tổ chức này, đã từng bước tháo gỡ những cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, giảm thiểu và dần xóa bỏ các hàng rào thuế quan, phi thuế quan và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa Việt Nam và các nước trên thế giới phù hợp với những cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia. Trong xu hướng chung đó, Hải quan Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Hải quan thế giới (WCO), từng bước đẩy mạnh cải cách thủ tục HQ, hiện đại hóa các hoạt động của mình nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới nền kinh tế, phục vụ tốt cho phát triển xuất nhập khẩu, đầu tư ... Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ban đầu nguồn thu từ TXK, TNK có thể giảm xuống, nhưng sẽ làm tăng lên số lượng các đối tượng tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, các loại mặt hàng xuất nhập khẩu cũng được 1
  9. khuyến khích phát triển đa dạng về mặt hàng và loại hình. Chính vì lẽ đó các hành vi vi phạm pháp luật về TXK, TNK ngày càng tăng cả về số lượng, quy mô, tính chất và mức độ. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất để điều chỉnh, ngăn chặn và chống lại những vi phạm pháp luật phát sinh, đây là một yêu cầu bức thiết đang được đặt ra với BTC, Tổng cục Hải quan và các bộ, ngành trong việc quản lý TXK, TNK. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, Luật Quản lý thuế năm 2006 ra đời là một quá trình pháp điển hóa rất lớn các quy phạm pháp luật về TXK, TNK, tạo tiền đề cho việc quản lý HQ với các loại hàng hóa trong lĩnh vực xuất khẩu, nhập khẩu. Quá trình thực hiện các luật này thực sự đã tạo ra một hành lang pháp lý hiệu quả cho việc thu thuế và thực hiện các nội dung liên quan đến chính sách xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa của nước ta. Tác giả chọn đề tài: “Trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế đối với các hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu” làm đề tài luận văn thạc sĩ vì những lý do sau đây: - Trong thời gian qua, vi phạm pháp luật về TXK, TNK xảy ra càng nhiều, quy mô càng lớn với những hành vi tinh vi, phức tạp, có hiện tượng câu kết để trốn thuế nhằm trục lợi. Vì vậy, nhu cầu cấp thiết hiện nay của xã hội là cần hoàn thiện pháp luật HQ về TNPL liên quan đến TXK, TNK. Tác giả mong muốn nghiên cứu, phân tích và làm rõ những quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật trong lĩnh vực HQ nói riêng về TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm về TXK, TNK. - Bản thân hiện đang công tác tại Vụ Pháp chế thuộc Tổng cục Hải quan, là đơn vị tham mưu cho ngành Hải quan về xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật về TXK, TNK nên có thể tiếp cận nhiều vấn đề liên quan đến TXK, TNK, tác giả có thể tham khảo được kinh nghiệm pháp luật nước ngoài 2
  10. về vấn đề TNPL khi vi phạm về TXK, TNK từ đó có sự so sánh với pháp luật trong nước, nhằm chỉ ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật về TXK, TNK tại Việt Nam và đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật này. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài và ý nghĩa của việc nghiên cứu Hiện nay, tại Việt Nam có một số công trình nghiên cứu về pháp luật HQ và xử phạt vi phạm hành chính, có những bài viết theo quan niệm khoa học pháp lý có đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính nhưng cũng chỉ ở mức độ khái lược. Ví dụ: “Tìm hiểu về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Phạm Dũng - Hoàng Sao hay luận án “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về hải quan ở nước ta hiện nay” của tiến sĩ Vũ Ngọc Anh, luận án “Tiếp tục cải cách, hiện đại hóa hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” hay một số bài nghiên cứu trên Tạp chí Luật học, cũng như một số chuyên đề giảng dạy môn xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực HQ của Tổng cục Hải quan có đề cập đến việc xử lý do vi phạm pháp luật HQ về TXK, TNK nhưng ở mức độ sơ lược, chưa tập trung vào TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật HQ về TXK, TNK. Chính vì vậy, luận văn này là công trình nghiên cứu đầu tiên, tương đối đầy đủ và toàn diện về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế khi vi phạm pháp luật về TXK, TNK, Luận văn thực hiện các nội dung sau: - Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật hải quan Việt Nam về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về TXK, TNK để đưa ra các luận cứ khoa học và những lý giải mang tính lý luận nhằm góp phần định hướng hoàn thiện về TNPL nói chung. - Đưa ra một số đề xuất, giải pháp hoàn thiện pháp luật về TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về TXK, TNK nói riêng. 3
  11. - Kết quả nghiên cứu có thể được dùng như tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học và thực tiễn áp dụng vấn đề này với ngành Hải quan và với mỗi cán bộ, công chức Hải quan. 3. Mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của luận văn là để làm rõ một số nội dung pháp lý, cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề TNPL của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật HQ về TXK, TNK. Qua đó, đánh giá tổng thể thực trạng áp dụng trong những năm qua, chỉ ra những tồn tại, đồng thời có sự so sánh quy định này với quy định của một số nước trên thế giới để kiến nghị việc hoàn thiện pháp luật về HQ khi thực hiện việc quản lý TXK, TNK trước yêu cầu đổi mới và hoàn thiện các quy định pháp luật này tại Việt Nam. Với phạm vi của một luận văn thạc sỹ Luật học, cũng như kinh nghiệm có hạn, người viết luận văn không đi sâu tìm hiểu hết các quy định về TNPL nói chung như: TNPL hình sự, TNPL dân sự, TNPL kỷ luật…mà chỉ đi sâu tìm hiểu, làm rõ một số vấn đề có tính chất cơ bản, cốt lõi và còn nhiều bất cập xung quanh vấn đề TNPL hành chính của đối tượng nộp thuế khi vi phạm pháp luật về TXK, TNK. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu, hoàn thiện trên cơ sở sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật trong việc xây dựng và hoàn thiện chế định về hành vi vi phạm pháp luật hải quan về TXK, TNK. Việc nghiên cứu được sử dụng kết hợp từ lý luận đến thực tiễn, giữa các phương pháp như: phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, thống kê, đối chiếu và dự đoán để giải quyết những vấn đề đã được xác định trong luận văn. 4
  12. 5. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế với hành vi vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Chương 2: Thực trạng vấn đề trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam; Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện trách nhiệm pháp lý của đối tượng nộp thuế do vi phạm pháp luật hải quan về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 5
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU, TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ VỚI HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT HẢI QUAN VỀ THUẾ XUẤT KHẨU, THUẾ NHẬP KHẨU 1.1 Quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. 1.1.1 Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Quá trình hình thành, phát triển của xã hội, của mỗi nhà nước cho thấy, thuế ra đời, tồn tại và phát triển là đòi hỏi cần thiết, khách quan gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, các nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên là quyên góp của dân, vay của dân, và dùng quyền lực bắt dân phải đóng góp. Trong đó việc quyên góp và vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định lâu dài, thường chỉ được sử dụng giới hạn trong trường hợp đặc biệt. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước phải dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng thuế. Trong thời cổ đại và trung cổ, TXK, TNK còn được các chính quyền địa phương thu, nhưng hiện nay điều này là rất hiếm và thông thường được nhà nước giao cho một tổ chức nhà nước chuyên trách về TXK, TNK là hải quan kiểm tra, tính và thu thuế. Về mặt nguyên tắc, TXK, TNK phải được nộp trước khi thông quan để người xuất khẩu có thể giao hàng hóa cho người chuyên chở hay người nhập khẩu đưa mặt hàng nhập khẩu vào lưu thông trong nội địa, trừ khi có các chính sách ân hạn thuế hay có bảo lãnh nộp thuế, nên chúng có thể coi là một trong những loại thuế dễ thu nhất và chi phí để thu TXK, TNK là khá nhỏ. Khi nói về thuế C.Mác đã từng viết: “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn giản tiện cho kho bạc thu tiền”. Và Ph.Ăng ghen viết: “Đặc trưng thứ hai của nhà nước là sự thiết lập một trật tự công cộng… Để 6
  14. duy trì quyền lực công cộng đó cần phải có sự đóng góp của công dân, của nhà nước, đó là thuế má”. V.I. Lê nin cho rằng: “Thuế là cái nhà nước thu của dân mà không bù lại”. Theo Đại từ điển Kinh tế thị trường: “Thuế là một hình thức phân phối thu nhập tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách cưỡng chế bắt buộc, không hoàn lại”. Theo Ngôn ngữ tiếng Việt thì: “Thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh tùy theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v… buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định” [39, tr 501]. Như vậy, tùy theo góc độ đề cập, quan niệm về thuế còn nhiều ý kiến khác nhau. Dưới góc nhìn mới về thuế, việc tổ chức, cá nhân nộp thuế cho nhà nước không phải chỉ để thực hiện nghĩa vụ được quy định trong hiến pháp, nộp thuế còn là quyền lợi của mọi người dân trong xã hội. Xuất phát từ cách tiếp cận như trên có thể hiểu: thuế là một khoản tiền, hoặc hiện vật mà các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp theo luật định cho nhà nước theo những mức độ và thời hạn cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu chi của nhà nước, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, phân phối lại một phần thu nhập và của cải của xã hội, kiểm soát quá trình phân phối và mức chi tiêu trong nền kinh tế, thay đổi tập quán tiêu dùng của xã hội và không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế. Một phần thuế là các tổ chức và cá nhân đóng góp cho nhà nước được trả về với người dân một cách gián tiếp dưới các hình thức như: trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và các quỹ tiêu dùng khác. Theo Luật thuế xuất nhập khẩu hiện hành của Việt Nam thì TXK, TNK với hàng hóa mậu dịch mang tính chất gián thu, còn đối với hàng hóa khác thì tùy từng trường hợp cụ thể có tính chất trực thu hoặc có tính chất gián thu. 7
  15. TXK là một công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước phát triển người ta không sử dụng TXK do họ không đặt mục tiêu tăng nguồn thu ngân sách từ TXK. Vì vậy, ở những nước đó khi nói tới thuế quan người ta đồng nhất nó với TNK. Cho đến thời điểm hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một khái niệm đồng nhất về TXK, TNK. Theo Từ điển Luật học: “TXK, TNK là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới”. Còn theo Từ điển Kinh tế học (Anh - Việt - Giải thích): “Thuế xuất khẩu (import duty), là khoản thuế mà Chính phủ đánh vào sản phẩm nhập khẩu. Thuế xuất khẩu được sử dụng để tăng nguồn thu cho Chính phủ và bảo vệ các ngành sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài”. Qua xem xét các khái niệm trên ta thấy, những nội hàm chứa đựng trong đó vẫn chưa phản ánh đúng bản chất, nội dung của TXK, TNK. Chẳng hạn, khái niệm nêu tại từ điển Luật học chưa nêu được các đặc điểm, vai trò và chưa bao quát hết đối tượng chịu thuế, chỉ nêu được đặc điểm của TXK, TNK với tư cách là loại thuế gián thu. Hay khái niệm của Từ điển kinh tế học (Anh - Việt - Giải thích) tuy đã hàm chứa những vai trò của TNK nhưng chưa nêu được những đặc thù của TNK so với các loại thuế khác. Từ những khái niệm trên đây, qua đánh giá những nội hàm của TXK, TNK ta có thể hiểu: TXK, TNK là một loại thuế gián thu; một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa, do các tổ chức, cá nhân xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế đóng góp theo luật định cho nhà nước. TXK, TNK là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia. * Đặc điểm của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: 8
  16. Từ cách hiểu về TXK, TNK như trên, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm của chúng như sau: TXK, TNK là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hóa; Phạm vi áp dụng của TXK, TNK là với hàng hóa được phép xuất nhập khẩu, bao gồm cả hàng hóa xuất khẩu từ thị trường vào khu chế xuất và xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu từ khu chế xuất và từ nước ngoài vào thị trường trong nước; TXK, TNK có những đặc điểm khác biệt so với các loại thuế khác ở chỗ “nó” không áp dụng đối với hàng hóa được sản xuất và tiêu thụ trong nước mà chỉ đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu và luôn gắn với hoạt động xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và do vậy thuế xuất nhập khẩu là một trong những công cụ thuộc chính sách kinh tế thương mại quốc tế của một quốc gia. * Vai trò, tính chất của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Mỗi một sắc thuế được ban hành đều có vị trí vai trò nhất định trong đời sống kinh tế, xã hội. Việc ban hành TXK, TNK tại Việt Nam trong từng thời kỳ có những nội dung nhất định thể hiện rõ vai trò với nền kinh tế. Tại thời điểm hiện nay, TXK, TNK được xác định với tính chất và vai trò cụ thể như sau: - Là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, điều tiết nền kinh tế. Chúng ta biết, trong tình hình hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của “mua bán sòng phẳng”, “có vay, có trả”, TXK, TNK là công cụ quan trọng giảm bội chi ngân sách, ổn định kinh tế xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho phát triển kinh tế lâu dài. - Là loại thuế được cấu thành trong giá cả hàng hóa, làm tăng giá hàng hóa xuất nhập khẩu. Do đó, có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu, hướng tới tiêu dùng nội địa. 9
  17. - Có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước. Việc đánh thuế cao hàng nhập khẩu giúp hàng hóa trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hóa nhập khẩu. Giúp các doanh nghiệp còn non trẻ có thời gian trưởng thành, lớn mạnh và cạnh tranh được với các mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp nước ngoài. - Giảm bớt sự thất nghiệp vì đánh thuế cao hàng nhập khẩu giảm, để bù đắp lượng hàng hóa lẽ ra phải nhập khẩu thì nhà nước phải thực hiện mở rộng sản xuất trong nước từ đó tạo cơ hội việc làm cho người lao động trong nước. - Là công cụ để Nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại với các nước. Giúp mở rộng quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. * Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: - TNK có thể được dùng như công cụ bảo hộ mậu dịch: Khi nhà nước thiết chặt quản lý hàng hóa nhập khẩu bằng việc giảm thiểu nhập khẩu làm cho chúng trở nên đắt hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt trong cán cân thương mại. - TXK có thể được dùng để giảm xuất khẩu do nhà nước không khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an toàn lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết. Tóm lại, TNK dẫn đến cả thu nhập chuyển giao từ người tiêu dùng sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước đồng thời gây tổn thất lợi ích ròng của toàn xã hội. Do những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất trong nước, làm cho người tiêu dùng giảm sút độ thỏa dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính phủ. Tuy nhiên, thuế quan sẽ không còn là một biện pháp để bảo hộ hàng hóa sản xuất trong nước thời gian tới nữa. Vì trong lộ trình triển khai thỏa 10
  18. thuận ưu đãi thuế quan chung hướng tới Khu vực Tự do Mậu dịch ASEAN (AFTA) và cuối cùng là xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN, theo lộ trình đã xác định, đến năm 2015, cơ chế cắt giảm thuế quan chung sẽ được mở rộng đến tất cả các nước thành viên ASEAN, trong đó sẽ có 54.457 loại thuế, chiếm 99,11% tổng số các loại thuế quan buôn bán nội khối được cắt giảm. 1.1.2 Hoạt động quản lý nhà nước về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Để bảo vệ lợi ích, nhà nước đã tự quy định những biện pháp có lợi nhất cho mình trong việc kiểm soát trao đổi hàng hóa để bảo vệ sản xuất, đồng thời thu được nhiều lợi ích nhất trong quan hệ với các cộng đồng, nhà nước khác, đó chính là bản chất của hoạt động HQ. Có thể nói, không có trao đổi hàng hóa giữa các cộng đồng dân cư, và ngày nay là giữa các quốc gia, thì cũng không có hoạt động HQ. Chính sách thuế quan của các nhà nước, lãnh thổ được đặt ra rất sớm nhằm phục vụ các yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, cộng đồng và cùng với nó là sự xuất hiện của hiện tượng TNPL do vi phạm các chính sách này. Hải quan là một công cụ để thực hiện việc bảo vệ an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội của mỗi nước. Vai trò này được thể hiện thông qua các hoạt động phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực HQ, đảm bảo các nguyên tắc quản lý nhà nước về HQ được tôn trọng, bảo vệ an ninh tư tưởng, văn hóa, kịp thời ngăn chặn những hành động đe dọa lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của người kinh doanh [43, tr 14]. Hiện nay, Hải quan của các nước, đã thực hiện tốt các chức năng hiện đại như kiểm tra việc thực hiện các quy định của quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh và quá cảnh như các quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, các luật lệ về tài chính, hạn ngạch xuất nhập khẩu; bảo vệ an ninh nội địa, chống khủng bố, 11
  19. bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng... bên cạnh đó các chức năng truyền thống, cơ bản như kiểm tra hàng hóa, đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại và nhất là chức năng thu thuế vẫn được duy trì và triển khai thực hiện một cách hiệu quả và thường xuyên. Tại Việt Nam, cơ quan Hải quan, thông qua việc làm thủ tục HQ và thực hiện kiểm tra, giám sát HQ, có nghĩa vụ đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, quá cảnh theo đúng các quy định của Nhà nước: các chế độ về giấy phép và hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; các chế độ về thuế và nghĩa vụ tài chính khác; các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường, an toàn thực phẩm, sức khoẻ người tiêu dùng... Đối với hệ thống TXK, TNK ở nước ta hiện nay được thực hiện theo chế độ quản lý nhà nước đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà cơ quan HQ chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật và được tổ chức như sau: Chính phủ thống nhất quản lý công tác thu TXK, TNK trên toàn quốc; quy định thẩm quyền, thủ tục miễn thuế, xét miễn thuế, xét giảm thuế, hoàn thuế, truy thu thuế và xử lý vi phạm về thuế. Bộ trưởng BTC có trách nhiệm chỉ đạo tổ chức, quản lý thu TXK, TNK đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Chủ tịch ẹy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc phối hợp tổ chức thu TXK, TNK tại địa phương. Cơ quan HQ là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, giúp Bộ trưởng BTC thực hiện chức năng chuyên ngành quản lý nhà nước về HQ, thực thi pháp luật HQ trên cả nước, có trách nhiệm kiểm tra và thu thuế theo quy định của pháp luật về TXK, TNK và pháp luật HQ, theo các nội dung cụ thể sau: 12
  20. - Tổng cục Hải quan có trách nhiệm đôn đốc chỉ đạo, kiểm tra việc thu thuế thống nhất trong toàn Ngành. Hướng dẫn Cục Hải quan các tỉnh, thành phố và Hải quan cửa khẩu thực hiện đúng quy định về đăng ký tờ khai khi tổ chức, cá nhân có hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu cung cấp đầy đủ các chứng từ hợp lệ để tính thuế; tính đúng số thuế mà tổ chức, cá nhân phải nộp thuế, đảm bảo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân thực hiện việc nộp thuế. - Cung cấp và hướng dẫn đối tượng nộp thuế khai báo mẫu biểu, tờ khai, căn cứ tính thuế. - Kiểm tra việc kê khai, tính thuế, nộp thuế của đối tượng nộp thuế theo đúng quy định của pháp luật. Thực hiện tham vấn bằng cách đối thoại trực tiếp, tạo điều kiện để đối tượng nộp thuế giải trình và cung cấp các tài liệu, chứng từ có liên quan để làm rõ việc kê khai, tính thuế, nộp thuế và các khoản thu khác đúng quy định. - Phối hợp với Cục Thuế cấp tỉnh và các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc thu TXK, TNK nhằm đảm bảo cho việc thu TXK, TNK đảm bảo chỉ tiêu, kế hoạch được giao. Góp phần đấu tranh phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. - Tổ chức thu thập, cập nhật các thông tin, dữ liệu về đối tượng nộp thuế, căn cứ để tính thuế đầy đủ, kịp thời, chính xác theo một hệ thống nhất định, được lưu giữ tại Trung tâm dữ liệu của cơ quan HQ và được cung cấp cho các đơn vị có liên quan khai thác và sử dụng. - Yêu cầu đối tượng nộp thuế cung cấp đầy đủ, kịp thời hồ sơ, tài liệu, chứng từ, sổ sách kế toán để kiểm tra việc kê khai, tính thuế, nộp thuế khi có cơ sở nghi ngờ về căn cứ tính thuế, cách tính số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, xét miễn, giảm, hoàn, không thu theo quy định của pháp luật. - Ấn định TXK, TNK trong các trường hợp: đối tượng nộp thuế không tự tính được số tiền thuế phải nộp; Đối tượng nộp thuế phải dựa vào các tài 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0