Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp
lượt xem 3
download
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước, luận văn tập trung vào xây dựng các vấn đề lý luận pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp; phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước, khái quát nội dung Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009 và đề xuất nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ HOÀNG PHÚC TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO NHÀ NƯỚC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TÔ HOÀNG PHÚC TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO NHÀ NƯỚC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Dương Đăng Huệ Hà nội - 2009
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM 7 TÀI SẢN CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO CÔNG CHỨC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP 1.1. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm tài sản của Nhà nước 7 đối với những thiệt hại gây ra 1.1.1. Trách nhiệm tài sản của nhà nước - một dạng trách nhiệm 7 bồi thường ngoài hợp đồng 1.1.1.1. Bản chất của bồi thường nhà nước 7 1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường nhà nước 9 1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp và ảnh hưởng của chúng đối 12 với việc xây dựng luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 1.1.2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp với tư cách là chủ thể được 12 bồi thường 1.1.2.2. Một số quy định đặc thù trong chế định bồi thường nhà nước 13 đối với doanh nghiệp 1.2. Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm tài sản của Nhà nước 16 đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 1.2.1. Đặc thù trách nhiệm tài sản nhà nước đối với những thiệt 16 1
- hại gây ra cho doanh nghiệp 1.2.1. Quyền yêu cầu trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với 17 những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 1.2.3. Căn cứ phát sinh và các yêu cầu đối với trách nhiệm tài sản 19 của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 1.2.4. Các lĩnh vực phát sinh trách nhiệm tài sản của nhà nước đối 20 với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 1.3. Kinh nghiệm lập pháp của các nước về trách nhiệm tài sản 23 của Nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 1.3.1. Quyền yêu cầu bồi thường nhà nước của doanh nghiệp 23 1.3.2. Lĩnh vực hoạt động của nhà nước chịu sự điều chỉnh của 25 pháp Luật Bồi thường nhà nước Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM TÀI 36 SẢN CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI THIỆT HẠI GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP 2.1. Thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước 36 đối với các thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp trước ngày 01 tháng 01 năm 2010 - ngày luật bồi thường nhà nước có hiệu lực thi hành 2.1.1. Các văn bản pháp luật về trách nhiệm tài sản đối với những 36 thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp 2.1.2. Hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm 38 tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 2.1.2.1. Trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trong hoạt 38 động quản lý nhà nước về doanh nghiệp còn chung chung, các quy định về bồi thường thiệt hại theo quy định hiện hành rất khó vận dụng cho các doanh nghiệp bị thiệt hại 2
- 2.1.2.2. Bồi thường trong hoạt động tố tụng 53 2.1.2.3. Bồi thường nhà nước trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính 57 2.2. Những nội dung cơ bản của luật trách nhiệm bồi thường 60 nhà nước Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU 85 QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƢỜNG ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO CÔNG CHỨC NHÀ NƢỚC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP 3.1. Những tác động của luật bồi thường nhà nước đối với quyền yêu 85 cầu bồi thường thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp 3.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp 92 luật về trách nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra cho doanh nghiệp 3.2.1. Phải nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm 92 bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp 3.2.2. Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp 98 luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp KẾT LUẬN 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 3
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ như Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001); Bộ luật Dân sự năm 1995 đã dành hai điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 619 và Điều 620). Để cụ thể hóa các quy định nêu trên, đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 47/CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47); Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388). Các Bộ, ngành có liên quan cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước và người tiến hành tố tụng (sau đây gọi chung là người thi hành công vụ) gây ra. Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra còn có nhiều hạn chế, bất cập như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách nhiệm bồi thường của 4
- Nhà nước nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn trả của công chức chưa được quy định rõ ràng. Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý độc lập, khi tham gia các quan hệ pháp lý với Nhà nước mà bị thiệt hại do cơ quan, công chức, viên chức nhà nước gây ra, về nguyên tắc và theo quy định của Điều 74 Hiến pháp, là một chủ thể có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại. Như vậy, trách nhiệm của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp là một loại trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng nhằm bù đắp những thiệt hại mà nhà nước gây ra cho doanh nghiệp trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Riêng trong lĩnh vực tố tụng hình sự, do pháp luật Việt Nam chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nên doanh nghiệp không phải là một chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự và quan hệ pháp luật tố tụng trong trường hợp người đại diện hợp hình. Thiệt hại và việc bồi thường thiệt hại mà doanh nghiệp phải gánh chịu pháp của doanh nghiệp bị bắt, giam giữ, truy tố, xét xử, thi hành án oan chưa được quy định cụ thể trong các văn bản hiện hành, kể cả Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11. Cùng với việc kiện toàn hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế, nhà nước ta đã và đang nỗ lực cùng với hệ thống chính trị cải thiện môi trường kinh doanh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 5
- Một trong những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh là hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại đối với doanh nghiệp trong hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Về trách nhiệm bồi thường nhà nước đã được nhiều nghiên cứu đề cập như PGS.TS Trịnh Đức Thảo (2008), Hai lý thuyết và hai loại trách nhiệm bồi thường nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 113, tháng 1/2008; Bộ Tư pháp, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản, Kỷ yếu các tọa đàm về Luật Bồi thường nhà nước, Dự án hợp tác về pháp luật và tư pháp giữa Việt Nam và Nhật Bản (2003-2006); TS. Nguyễn Minh Đoan (2008), Bồi thường nhà nước: từ quan điểm đến pháp luật và khả năng thực hiện, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 129, tháng 8/2008; PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2008), Một số ý kiến về dự Luật Bồi thường nhà nước, trong Hội thảo Luật Bồi thường nhà nước nhìn từ góc độ xây dựng nhà nước pháp quyền trong tiến trình cải cách tư pháp, Hà Nội, ngày 18 tháng 4 năm 2008… Nghiên cứu trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp chưa có nhiều, có thể kể đến công trình của GTZ MPI - GTZ SME Development Programme, Bộ Tư pháp, Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Báo cáo đánh giá tác động về quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp, tháng 5 năm 2007 là tương đối toàn diện nhằm đánh thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường nhà nước nói chung, trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp nói riêng. Về cơ bản có thể đánh giá công trình này đã đề cập tương đối toàn diện về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây mới chỉ là Báo cáo đánh giá tác động về quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp nên Báo cáo mới chỉ dành phần lớn nội dung để đánh giá thực trạng, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà 6
- nước đối với doanh nghiệp, do đó, nhiều vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp chưa được đề cập nhiều hoặc đề cập ở mức độ khái quát. Việc Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, thể hiện quyết tâm của nhà nước trong việc nâng cao trách nhiệm của mình đối với nhân dân cũng như đối với doanh nghiệp đặt ra vấn đề cần tìm kiếm các giải pháp để thực thi tốt đạo luật quan trọng này. Đây là nội dung chưa được công trình nào đề cập. Do vậy, việc lựa chọn đề tài "Trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do Nhà nước gây ra cho doanh nghiệp" làm luận văn thạc sĩ luật học là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Nội dung nghiên cứu Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước, luận văn tập trung vào xây dựng các vấn đề lý luận pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp; phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước, khái quát nội dung Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009 và đề xuất nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung phân tích làm rõ bản chất trách nhiệm bồi thường nhà nước, căn cứ truy cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nhà nước gây ra cho doanh nghiệp. Trên cơ sở các vấn đề lý luận này, Luận văn phân tích thực trạng pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp, khái quát nội dung cơ bản Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước và đề xuất các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi Luật Bồi thường nhà nước trong thực tiễn đối với các doanh nghiệp. 7
- 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện được đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp lịch sử để chỉ rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước, trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm chỉ rõ những bất cập, hạn chế trong việc thực thi pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp trong thời gian qua, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với các quy định tương tự trong pháp luật của một số nước trên thế giới. 6. Những đóng góp mới của luận văn - Luận văn đã khái quát được hệ thống lý luận về trách nhiệm bồi thường nhà nước; xây dựng các luận cứ cho việc xác định trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp; nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước đối với việc truy cứu trách nhiệm bồi thường của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp; - Luận văn khái quát quá trình hình thành và phát triển pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước, pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. Chỉ rõ những kết quả đã đạt được trong quá trình thực thi pháp luật trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp làm tiền đề lý luận cho việc đề xuất các nhóm giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. - Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, luận văn đã chỉ rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp trong bối cảnh đã có Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm 3 chương: 8
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm tài sản đối với những thiệt hại do công chức gây ra cho doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm tài sản của Nhà nước đối với những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường đối với những thiệt hại do công chức nhà nước gây ra cho doanh nghiệp. 9
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI DO CÔNG CHỨC GÂY RA CHO DOANH NGHIỆP 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM TÀI SẢN CỦA NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NHỮNG THIỆT HẠI GÂY RA 1.1.1. Trách nhiệm tài sản của nhà nƣớc - một dạng trách nhiệm bồi thƣờng ngoài hợp đồng 1.1.1.1. Bản chất của bồi thường nhà nước Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ "trách nhiệm bồi thường nhà nước" mới được biết đến tại một số quốc gia phát triển sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trước khi các quốc gia này quy định chế định trách nhiệm bồi thường nhà nước, pháp luật điều chỉnh quan hệ bồi thường thiệt do cán bộ nhà nước, cơ quan nhà nước gây ra được chi phối bởi nguyên tắc "miễn trừ quốc gia" hình thành tại Anh Quốc vào khoảng thế kỷ thứ 15. Theo nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc gia thì Nhà vua và bộ máy cai trị không bao giờ làm sai và không thể bị kiện. Đến cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20, lý thuyết này không chỉ được duy trì và phát triển ở các quốc gia duy trì bộ máy nhà nước quân chủ, mà còn được áp dụng tại các quốc gia có nền dân chủ tư sản. Tại Hoa Kỳ, pháp luật nước này quy định nhà nước Hoa Kỳ không thể bị kiện nếu như không có sự đồng thuận của chính quốc gia này. Chỉ Quốc hội Hoa Kỳ có thẩm quyền phủ quyết hoặc thừa nhận việc áp dụng nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc gia. Năm 1946, Quốc hội Hoa Kỳ đã ban hành Luật khiếu kiện bồi thường thiệt hại của Liên bang quy định phủ quyết nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm quốc gia đối với việc bồi thường thiệt hại do cán bộ nhà nước gây ra trong 10
- hoạt động hành chính. Tuy nhiên, cho đến nay, Hoa Kỳ vẫn áp dụng nguyên tắc miễn trừ quốc gia đối với việc bồi thường thiệt hại do cán bộ nhà nước gây ra trong hoạt động lập pháp và tư pháp. Sau Hoa Kỳ, Vương Quốc Anh, Canada và nhiều nước khác đã thừa nhận trách nhiệm bồi thường nhà nước. Tại Châu Á, sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước. Tại Trung Quốc, Luật Bồi thường nhà nước được ban hành năm 1994. Nghiên cứu pháp luật các nước về trách nhiệm bồi thường nhà nước cho thấy, trách nhiệm bồi thường nhà nước là một dạng đặc biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Phân tích, tham khảo quy định về trách nhiệm bồi thường nhà nước thì, trách nhiệm bồi thường nhà nước là việc Nhà nước thừa nhận và thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Theo khái niệm này, trách nhiệm bồi thường nhà nước sẽ được hình thành khi công dân bị thiệt hại do cán bộ nhà nước thực hiện hành vi vi phạm pháp luật gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ chế bồi thường này có đặc điểm là trách nhiệm bồi thường thiệt hại được chuyển dịch từ cá nhân cán bộ nhà nước có hành vi trái pháp luật sang cho Nhà nước. Do đó, cơ chế bồi thường này có ý nghĩa quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trước các hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại của cán bộ nhà nước. Đồng thời, góp phần nâng cao trách nhiệm của người thi hành công vụ, cũng như bảo đảm duy trì và tăng cường hoạt động hiệu quả của bộ máy nhà nước [11, tr. 5]. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại loại trách nhiệm này chỉ xảy ra khi Nhà nước đã thực hiện một hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại. Bởi Nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật này, vì thế, Nhà nước phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình phải bồi thường thiệt hại và việc 11
- bồi thường là nghĩa vụ tự thân bắt buộc. Về nguyên tắc, Nhà nước phải bồi thường 100% số tiền cho người thiệt hại, Nhà nước không được đưa ra giới hạn về mức bồi thường. Nếu Nhà nước giới hạn mức bồi thường là vi phạm Hiến pháp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp buộc Nhà nước phải giới hạn mức bồi thường thì Nhà nước phải có giải trình hợp lý và phải dựa trên cơ sở quyền lợi của cả hai bên trong trường hợp có thiệt hại xảy ra. Thủ tục giải quyết và áp dụng bồi thường là thủ tục dân sự. 1.1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường nhà nước Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường của nhà nước là loại trách nhiệm ngoài hợp đồng Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định được ra đời rất sớm. Mỗi thời kỳ lịch sử và tùy ở mỗi nước được quy định khác nhau về cách thức bồi thường. Nhưng có một nguyên tắc chung nhất là: "Người gây ra thiệt hại phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại" [16]. Trong đó, trách nhiệm bồi thường của nhà nước như phân tích ở phần trên là mới chỉ biết đến sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và hiện nay, việc nhìn nhận trách nhiệm bồi thường nhà nước là quan hệ pháp luật hành chính hay quan hệ pháp luật dân sự hay vừa có tính chất hành chính vừa có tính dân sự là không thống nhất trong các quy định pháp luật của các nước [2]. Nhà nước là một chủ thể của quyền lực công. Quan hệ giữa nhà nước với công dân là các quan hệ được điều chỉnh bởi hệ thống luật công (public law). Tuy nhiên, các vấn đề về thiệt hại và bồi thường thiệt hại lại mang bản chất dân sự. Do vậy, kể cả trong trường hợp của các quan hệ hành chính, tư pháp diễn ra giữa nhà nước và công dân (ở đây có thể hiểu bao gồm cả các thực thể có tổ chức, tức là cả thể nhân và pháp nhân) mà một bên (có thể là nhà nước) gây thiệt hại cho bên kia thì việc xác định thiệt hại cũng như việc xác định mức bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự và được điều chỉnh bởi hệ thống luật tư (private law). Theo chúng tôi, ở đây, yếu tố hành 12
- chính, tư pháp hay nói cách khác là các yếu tố của quyền lực công có vai trò chi phối bản chất của quan hệ công đã kết thúc sứ mệnh của nó, không còn có vai trò chi phối trong quan hệ pháp luật mới về bồi thường thiệt hại. Và như vậy, bản chất của quan hệ giữa nhà nước và công dân là mối quan hệ công, nhưng việc giải quyết quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh từ quan hệ công đó lại mang bản chất của mối quan hệ tư. Vì thế, trong trường hợp này, nhà nước lại đóng vai trò như một chủ thể của quan hệ tư, không có quyền lực hành chính mà chỉ là một chủ thể bình đẳng với bên bị thiệt hại trong mối quan hệ bồi thường mang bản chất dân sự. Như vậy, trong quan hệ giữa nhà nước và công dân, nếu nhà nước gây thiệt hại và phải bồi thường cho công dân thì việc giải quyết bồi thường đó không thể xử lý bằng luật công. Việc xác định mức độ thiệt hại cũng như mức bồi thường đều mang bản chất của quan hệ dân sự, tức là bình đẳng và thực tế, trên cơ sở các quy định của pháp luật dân sự. Thứ hai, trách nhiệm bồi thường nhà nước là loại trách nhiệm gắn liền với hoạt động thi hành công vụ Việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với các thiệt hại do công chức gây ra là sự khẳng định việc công chức làm sai thì nhà nước phải đứng ra bồi thường và việc bồi thường nhằm mục đích giám sát công chức. Cơ sở có tính lý luận cho việc nghiên cứu vấn đề bồi thường nhà nước trước hết xuất phát từ chính những giá trị xã hội - nhân văn sâu sắc mà xã hội loài người trải qua hàng ngàn năm đấu tranh để giành giật và bảo vệ. Các giá trị xã hội đó chính là các quyền được làm người, quyền tự do, dân chủ và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Hay nói khái quát hơn đó là các quyền con người, quyền công dân. Nếu quyền con người được hiểu là "quyền của thành viên trong xã hội loài người - quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi 13
- nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia" thì quyền công dân là "khả năng tự do lựa chọn hành vi của công dân mà nhà nước phải bảo đảm khi công dân yêu cầu". Như vậy, có thể hiểu các quyền con người là quyền bẩm sinh, là những giá trị chung của nhân loại và mang tính phổ quát. Còn quyền công dân cũng chính là các quyền cụ thể của con người được luật pháp hóa nhưng gắn với tư cách công dân của một nhà nước (muốn được hưởng các quyền công dân của một nhà nước thì phải có quốc tịch của nhà nước đó). Và điều quan trọng hơn là quyền công dân luôn đi đôi với nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm cho công dân thực hiện các quyền đó. Các quyền của công dân được quy định trong hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, điều chỉnh những quan hệ giữa công dân và nhà nước, là cơ sở tồn tại của cá nhân và hoạt động bình thường của xã hội. Các quyền của công dân bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và các quyền tự do cá nhân. Trong các quyền công dân được Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận có quyền được bồi thường thiệt hại: "Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự" Thứ ba, mục đích của việc thiết lập trách nhiệm bồi thường nhà nước không chỉ là để bù đắp những thiệt hại về vật chất và tinh thần mà nhà nước đã gây ra cho tổ chức, cá nhân khi thi hành công vụ mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ mà còn nhằm tăng cường tinh thần trách nhiệm của công chức góp phần xây dựng một nền hành chính trong sạch vững mạnh. Quyền được bồi thường khi bị thiệt hại về tài sản, thân thể và danh dự do bị người khác xâm hại là quyền của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Bản chất pháp lý của quyền này là một quyền dân sự thông thường. Vì cái lý ở đời là khi một người bị người khác xâm phạm một cách vô lý và 14
- gây ra những thiệt hại về tài sản cũng như thân thể và danh dự thì người có hành vi xâm hại đó phải bù đắp những tổn thất mà mình đã gây ra cho người bị hại. Cái triết lý của sự công bằng đó dần trở thành chân lý của lẽ phải và được luật pháp thừa nhận và trở thành những chuẩn mực pháp lý chung. Vì vậy, xét trên khía cạnh pháp lý thì cái triết lý công bằng đó trở thành quyền (quyền được bồi thường) của người bị thiệt hại. Và trong pháp luật dân sự, quyền được bồi thường có thể là quyền trong hợp đồng hoặc quyền ngoài hợp đồng, không phân biệt người gây thiệt hại là ai, kể cả là nhà nước trong mối quan hệ giữa nhà nước với công dân. Bồi thường nhà nước còn giúp tăng cường tinh thần trách nhiệm của công chức. 1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp và ảnh hƣởng của chúng đối với việc xây dựng luật trách nhiệm bồi thƣờng nhà nƣớc 1.1.2.1. Đặc điểm của doanh nghiệp với tư cách là chủ thể được bồi thường Doanh nghiệp là một chủ thể cơ bản, có vai trò đặc biệt quan trọng và được coi là tế bào, là đơn vị sản xuất ra và trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường; thu hút chủ yếu nguồn lực của xã hội tạo ra thu nhập quốc dân. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh Từ định nghĩa trên có thể rút ra một số đặc điểm của doanh nghiệp có tác động đến việc bồi thường nhà nước như sau: Một là, doanh nghiệp là một chủ thể của pháp luật, nghĩa là doanh nghiệp cũng tham gia vào các quan hệ pháp luật nó có thể gây thiệt hại và bị gây thiệt hại như những chủ thể pháp luật khác. Khi bị người khác gây thiệt hại, doanh nghiệp cũng có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. 15
- Hai là, với tư cách chủ thể kinh doanh lấy hoạt động kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường nên nếu bị gây thiệt hại sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, một trong những yêu cầu khi xây dựng pháp luật về bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp phải chú ý tới đặc điểm này vì nếu gây thiệt hại cho doanh nghiệp sẽ trực tiếp tác động đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp, làm biến đổi tính chất quan hệ kinh doanh. Ba là, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật Là một chủ thể được thành lập thông qua thủ tục đăng ký kinh doanh nên các hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện thông qua người đại diện. Thông qua người đại diện ý chí của doanh nghiệp được thể hiện trên thực tế. Do đó, trong pháp luật về bồi thường thiệt hại cần phân biệt tư cách người bị thiệt hại, thẩm quyền yêu cầu đòi nhà nước phải bồi thường thiệt hại. 1.1.2.2. Một số quy định đặc thù trong chế định bồi thường nhà nước đối với doanh nghiệp Các quy định pháp luật về trách nhiệm tài sản của nhà nước thừa nhận quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường những thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp. Theo các quy định của pháp luật hiện hành, có thể tạm chia ra hai loại bồi thường nhà nước. Loại thứ nhất, có thể coi là bồi thường đặc biệt, là bồi thường cho những trường hợp bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17/03/2003 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (Nghị quyết 388). Nghị quyết 388 đã liệt kê chi tiết các trường hợp có quyền yêu cầu bồi thường. Theo quy định của Nghị quyết 388 Những người thuộc các trường hợp sau đây được bồi thường thiệt hại: a) Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự 16
- hủy bỏ quyết định tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; b) Người bị tạm giam mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội; c) Người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; d) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án ngoài các trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 388 mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội.. Những người thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này nếu có tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại thì được bồi thường Tương tự bồi thường theo Luật Đền bù hình sự của Nhật Bản, chỉ có cá nhân được yêu cầu bồi thường theo loại bồi thường đặc biệt này. Có thể coi bằng Nghị quyết 388, các nhà làm luật Việt Nam cũng đã tạo ra một cơ chế đặc biệt nhằm đẩy nhanh việc đền bù thiệt hại cho các nhân bị oan trong tố tụng hình sự giống như cơ chế bồi thường hình sự của Nhật Bản. Loại bồi thường nhà nước thứ hai, có thể gọi là bồi thường chung, chịu sự điều chỉnh của Điều 619 về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra và Điều 620 về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Bộ luật Dân sự 2005 và hướng dẫn thi hành tại Nghị định 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (Nghị định 47) và Thông tư số 54/1998/TT- BTCCBCP ngày 04 tháng 06 năm 1998 của Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (Thông tư 54). Nghị định 47 không có quy định đặc thù về người có quyền yêu cầu bồi thường, do đó, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự, cả cá nhân, cơ quan, tổ chức (trong đó có doanh nghiệp) có quyền yêu cầu đối với loại bồi thường này. Như vậy, về lý thuyết, quyền khởi kiện yêu cầu bồi 17
- thường nhà nước của doanh nghiệp tại Việt Nam đã được khẳng định, không có sự khác biệt với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Cũng trên lý thuyết, như vậy, quyền này được quy định rộng hơn so với pháp luật Trung Quốc. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại không thể thực thi quyền này trên thực tế vì các quy định trong Bộ luật Dân sự, Nghị định 47 và Thông tư 54 rất bất hợp lý, không thể tạo ra một cơ chế hữu hiệu thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước. Đồng thời, còn có cả nguyên nhân từ việc thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước và tòa án các cấp. Có thể đề cập ở đây hai điểm bất hợp lý chính về pháp luật và cơ chế thực thi đã khiến doanh nghiệp tuy có quyền khởi kiện mà không thể được thực thi hiệu quả: (i) Quy định về xác định cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường không rõ, dẫn đến nhiều trường hợp khi vụ việc gây thiệt hại có trách nhiệm liên đới của nhiều cơ quan nhà nước khác nhau thì các cơ quan đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, còn doanh nghiệp lúng túng không biết cần phải yêu cầu cơ quan nào bồi thường cho họ;. Chẳng hạn, Điều 3, Nghị định 47 chỉ quy định chung chung: "Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường cho mình thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình". (ii) Các quy định hiện hành rất chung chung, không đề cập cụ thể về căn cứ hình thành trách nhiệm bồi thường, phạm vi bồi thường (các trường hợp được bồi thường) và cách thức xác định thiệt hại Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn chỉ quy định nguyên tắc chung mà chưa xác định cụ thể (nnhưNghị quyết 388) trong khi đó các cơ quan nhà nước và tòa án các cấp ở Việt Nam phần vì năng lực kém, phần vì thiếu thiện chí với người bị thiệt hại và điều quan trọng nhất, vẫn duy trì một thói quen trì trệ là chỉ có thể quyết định, xét xử khi có các quy định thật cụ thể, rõ ràng. Hai nguyên nhân này đã dẫn đến một thực tế là kể từ khi Bộ luật Dân sự 1995 được ban hành đến nay, chưa có một doanh nghiệp bị thiệt hại do cán 18
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 171 | 44
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn