Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
lượt xem 7
download
- Nghiên cứu những quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, về pháp luật và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên cơ sở đó chỉ ra được tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức cũng như việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VƯƠNG THANH HUYỀN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2009
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, xã hội Việt Nam đang có những bước chuyển lớn. Sự giao thoa của nhiều nền văn hoá trong thời kỳ hội nhập đã làm cho nền tảng đạo đức truyền thống bị lung lay và có nguy có bị lãng quên trước “cơn lốc” thị trường. Bên cạnh đó, nhu cầu làm giàu đã khiến không ít người vượt qua ranh giới của pháp luật nhằm thu lợi bất chính. Tình hình phạm tội luôn là điểm nóng trong những năm vừa qua đặc biệt là bộ phận thanh thiếu niên - thế hệ tương lai của đất nước và trong đội ngũ công chức - những người nắm trong tay quyền lực nhà nước. Thực tế đó đã gióng lên hồi chuông báo động về sự xuống cấp về mặt đạo đức và ý thức pháp luật trong đại bộ phận dân chúng Việt Nam. Bác Hồ đã từng nói: con người là tài nguyên của đất nước. Để xây dựng một nước Việt Nam : “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh thì phải có những con người mang trong mình ý thức pháp luật của thời đại và nền tảng đạo đức cách mạng truyền thống của dân tộc”. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết. Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội tham gia vào việc điều chỉnh hành vi con người và được nhà nước sử dụng trong hoạt động quản lý xã hội. Trước Hồ Chí Minh đã có rất nhiều những nhà tư tưởng đề cập đến vấn đề đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, những quan điểm này thường tuyệt đối hóa một bên đạo đức hoặc một bên pháp luật mà chưa nhận thấy được vai trò của sự kết hợp giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm và hạn chế của pháp luật và đạo đức, Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật và đạo đức từ đó Người
- chủ trương phải kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc điều chỉnh hành vi con người và quản lý xã hội. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã và đang có nhiều chủ trương nhằm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện đó, tác giả mạnh dạn chọn nghiên cứu đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức” nhằm góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về pháp luật và đạo đức. 2. Tình hình nghiên cứu: Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm về nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội được xây dựng trên cơ sở sự tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê Nin và thành tự khoa học xã hội trên thế giới. Vấn đề pháp luật và đạo đức chiếm một vị trí quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Từ trước đến nay đã có rất nhiều những đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và pháp luật trong nhà nước pháp quyền. Trong giai đoạn phát triển nền kinh tế hiện nay, sự xuống cấp về ý thức đạo đức đã gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng hỗn loạn, phức tạp của xã hội trong tương lai. Điều này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Ngày càng xuất hiện nhiều đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Nhà nước ta cũng đã và đang đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là những nguồn tư liệu quý giá phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. 3. Mục đích của đề tài: - Nghiên cứu những quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức, về pháp luật và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội. Trên 2
- cơ sở đó chỉ ra được tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức cũng như việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Chỉ ra thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về mặt đạo đức trong xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới. - Đưa ra những giải pháp mới góp phần vận dụng một cách có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữ pháp luật và đạo đức. 4. Nhiệm vụ của đề tài: Trên cơ sở mục đích của đề tài nêu trên, đề tài nghiên cứu cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những sự kiện lịch, những mẩu chuyện về Hồ Chí Minh nhằm chỉ ra tư tưởng của Người về pháp luật, về đạo và mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. Thông qua những câu chuyện đó nhằm đưa ra những nhận định và đánh giá của Người về tầm quan trọng của pháp luật và đạo đức trong việc quản lý đất nước và sự cần thiết phải vận dụng mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong thực tế - Tìm hiểu và đánh giá thực trạng thực thi pháp luật và sự xuống cấp về đạo đức trong từng tầng lớp nhân dân từ đó tìm ra nguyên nhân của thực trạng đó. - Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị để vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong thự tế 5. Phạm vi nghiên cứu: Với mục đích nhằm nghiên cứu về Tư tưởng Hồ Chí Minh mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức về pháp luật cũng như mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. 3
- Nghiên cứu thực trạng đạo đức và thực thi pháp luật ở Việt Nam trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và hội nhập khu vực, quốc tế. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn có sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: - Phương pháp thu thập tài liệu ghi nhận các sự kiện lịch sử liên quan đến hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh. - Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm phân tích các sự kiện lịch sử liên quan đến tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật - Tham khảo các tài liệu chuyên khảo về Hồ Chí Minh bổ sung cho việc phân tích và đưa ra nhận định về tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. 7. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật và đạo đức. Chương 2: Thực trạng đạo đức và pháp luật ở nước ta hiện Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. nước pháp quyền, bảo vệ, phát huy các giá trị đạo đức truyền thống. 4
- Chương 1 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC 1.1. KHÁI QUÁT VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC. 1.1.1 Vị trí, vai trò của pháp luật và đạo đức trong hệ thống các quy phạm điều chỉnh xã hội: Lịch sử nhà nước và pháp luật đã chững minh rằng, hoạt động quản lý xã hội là một nhu cầu tất yếu, điều này phát sinh từ sự đa dạng và phức tạp của mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội. Sự hỗn loạn, mất phương hướng của các quan hệ xã hội sẽ nhanh chóng khiến xã hội đó đi đến chỗ diệt vong. Trong xã hội có nhà nước, việc điều hòa, ổn định các mối quan hệ xã hội theo một trật tự nhất định là chức năng chính của nhà nước. Hoạt động điều chỉnh xã hội được thực hiện thông qua hệ thống phương tiện điều chỉnh xã hội – các loại quy phạm xã hội. “Quy phạm xã hội là những hiện tượng không thể thiếu được trong đời sống xã hội, là những phương tiện của quản lý xã hội, phương tiện để điều hòa, phối hợp ý chí và quy tụ các hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ lại nhằm đạt được những lợi ích và mục đích chung của xã hội” [18]. Các loại quy phạm xã hội bao gồm: các quy phạm pháp luật; các quy phạm đạo đức; các quy phạm tập quán, phong tục, luật tục; các quy tắc cộng đồng; các quy phạm của các tổ chức xã hội, tổ chức tôn giáo. Tập quán là cách ứng xử hằng ngày của con người được lặp đi lặp lại và trở thành thói quen của cộng đồng hoặc toàn xã hội. Tập quán bao gồm những thói quen về suy nghĩ, thói quen trong sinh hoạt hàng ngày, trong lao động. Tập quán có phạm vi điều chỉnh hẹp và được bảo đảm bằng dư luận xã hội. Những hành vi được coi là trái với tập quán sẽ bị dư luận lên án, đả kích. Chế 5
- tài của tập quán được xem là không “nặng nề lắm” [18] và có sự thể hiện tính dao động “giữa tình trạng bắt buộc với rất đáng làm theo” [18]. Tuy nhiên dư luận của cộng đồng, xã hội được là thứ quyền lực xã hội có tính truyền thống và đôi khi nó còn mạnh mẽ và dai dẳng hơn pháp luật. Phong tục là một loại của tập quán, nhưng được lan rộng và ăn sâu vào đời sống xã hội từ rất lâu đời. So với tập quán, phong tục có tính chất bắt buộc cao hơn, mang tính phổ biến rộng rãi hơn, nó chứa đựng những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, khoa học mang đậm bản sắc dân tộc và màu sắc tâm linh, tôn giáo. Phạm vi điều chỉnh của phong tục rộng hơn tập quán, nó ràng buộc, chi phối hành vi của con người, buộc con người phải có sự lựa chọn cho mình một cách ứng xử cho phù hợp. Luật tục là những tập quán, phong tục tồn tại dưới hình thức không thành văn được truyền miệng từ đời này sang đời khác chứa đựng những quy tắc xử sự điều chỉnh nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Luật tục không bao gồm tất cả những phong tục, tập quán thông thường mà chỉ là những phong tục, tập quán điều chỉnh hành vi của cá nhân trong cộng đồng và mối quan hệ giữa những cộng đồng dân cư với nhau, mang tính bắt buộc chung, được bảo đảm thực hiện bằng những hình thức xử phạt và khen thưởng. Hương ước của cộng đồng làng xã là một hình thức của luật tục bao gồm những quy tắc ứng xử có nội dung phù hợp tương đối với pháp luật và đạo đức truyền thống của dân tộc. Hương ước có vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định, trật tự của cộng đồng làng xã Việt Nam. Cho đến nay nhiều bản Hương ước vẫn còn được bảo tồn nguyên vẹn trong các làng xã. Hiện nay, Nhà nước đang có chính sách phục hồi những bản Hương ước cổ để kết hợp sử dụng trong hoạt động quản xã hội đồng thời đó cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. 6
- “Trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội, pháp luật và đạo đức chiếm vị trí trung tâm, và có vai trò quan trọng nhất” [18]. Điều này xuất phát từ những đặc tính ưu việt của pháp luật và đạo đức. Cả pháp luật và đạo đức đều có phạm vi điều chỉnh rộng và được đảm bảo thực hiện bằng những cơ chế có tính bắt buộc mạnh mẽ. Đạo đức được hình thành trong dân gian từ rất lâu đời và được thể hiện trong chính những phong tục, tập quán, luật tục. Đạo đức là sự tổng hợp những nguyên tắc, quan niệm, chuẩn mực xã hội về cái thiện, cái ác, về lẽ công bằng, về lòng trung thực, về lương tâm con người…Yếu tố đạo đức luôn xuất hiện trong mọi mối quan hệ xã hội và là chuẩn mực mà các chủ thể luôn hướng tới. Hành vi của con người được nhìn nhận và đánh giá dưới hai góc độ pháp luật và đạo đức. Trong điều kiện phát triển hiện nay, đạo đức càng thể hiện được vai trò của mình trong việc định hướng hành vi con người phù hợp với những nguyên tắc của pháp luật. Yếu tố đạo đức giúp con người vượt qua mọi cám dỗ để có một phương cách ứng xử phù hợp nhất với những chuẩn mực của xã hội. Mặt khác khi xã hội càng phát triển, đạo đức và những giá trị nhân văn trong mỗi con người càng được đề cao. Nói đến đạo đức là nói đến lĩnh vực thực sự người, và con người chính là cái đích của mọi hoạt động xã hội. Trong xã hội tồn tại nhà nước, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ đạo chiếm vị trí quan trọng số một trong hệ thống điều chỉnh quan hệ xã hội. Pháp luật chính là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật được bảo đảm thực hiện bằng con đường nhà nước. Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật thực hiện hoạt động quản lý xã hội, hướng các quan hệ xã hội theo một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Mặt khác, với thuộc tính xã hội, ở một góc độ nào đó pháp luật ghi nhận, bảo vệ lợi ích của những giai cấp khác trong xã hội. Sử dụng pháp luật là công cụ quản lý xã hội một mặt giai cấp thống trị bảo vệ được sự thống trị của mình mặt khác có thể dung hòa được lợi ích của 7
- những giai cấp khác trong xã hội. Pháp luật không thuần túy chỉ là sản phẩm của Nhà nước mà còn là sự kết tinh của các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống thông qua việc luật hóa những niệm chuẩn mực đạo đức, những phong tục, tập quán tiến bộ trong dân gian. Với những đặc tính ưu việt như vậy, pháp luật đóng vai trò là công cụ hữu hiệu được nhà nước sử dụng nhằm bảo đảm sự ổn định, sự phát triển bình thường của xã hội. Tuy nhiên pháp luật không thể thực hiện được vai trò của mình nếu không có sự hỗ trợ của các quy phạm xã hội khác. Không phải lúc nào và ở đâu pháp luật cũng có thể điều chỉnh được hết thảy những lĩnh vực, những mối quan hệ trong đời sống xã hội. Mỗi quy phạm xã hội đều có những ưu thế và hạn chế riêng, có thể ở những mối quan hệ mà pháp luật không thể vươn tới điều chỉnh được lại là phạm vi điều chỉnh của phong tục, tập quán... Bên cạnh những điểm hạn chế, lạc hậu, chưa phù hợp với cuộc sống hiện đại, các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán vẫn có những quan niệm tích cực, tiến bộ có hiệu quả điều chỉnh như pháp luật. Vì vậy, việc sử dụng các quy phạm đạo đức, cũng như những quy phạm xã hội khác là một điều cần thiết trong hoạt động quản lý của nhà nước bên cạnh các quy phạm pháp luật. 1.1.2 Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức 1.1.2.1. Sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội thuộc thượng tầng kiến trúc, giữa pháp luật và đạo đức tồn tại nhiều điểm chung, tương đồng, chúng bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong hoạt động điều chỉnh xã hội của nhà nước. Cả pháp luật và đạo đức đều có chức năng, mục đích là điều chỉnh hành vi con người xã hội. Mục đích chung mà cả pháp luật và đạo đức đều hướng tới đó là nhằm xác lập, củng cố trạng thái ổn định của các mối quan hệ xã hội dựa trên quan niệm về cái thiện, cái tốt, cái có ích. Cả pháp luật và đạo đức đều 8
- được sinh ra, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định, chịu sự chi phối của các điều kiện chính trị, văn hóa, tư tưởng. Điều này đã tạo nên sự thống nhất giữa pháp luật và đạo đức. Giữa pháp luật của nhà nước và đạo đức truyền thống không có sự đối lập, cả hai đều hướng tới mục tiêu vì sự công bằng và lẽ phải, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là đối tượng bảo vệ, nhằm thiết lập nên những mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội. Nếu như đạo đức truyền thống đưa ra những quan niệm về tình yêu thương giữa con người với con người, về cái thiện cái ác, về lòng vị tha, sự trung thành … thì pháp luật của Nhà nước lại thể hiện tính nhân dân, nhân đạo sâu sắc, là đại lượng của sự công bằng và lẽ phải. Pháp luật thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi thông qua việc quy định địa vị pháp lý cho các chủ thể trong xã hội (bao gồm các quyền và nghĩa vụ đối với nhà nước) những điều được phép làm, những điều bị ngăn cấm và những hành vi được sự khuyến khích của Nhà nước. Trong một giới hạn nhất định, pháp luật đã đưa ra những sự lựa chọn nhằm định hướng hành vi con người theo những chuẩn mực do nhà nước đặt ra. Hoạt động điều chỉnh của pháp luật được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Không giống như pháp luật, đạo đức thực hiện sự điều chỉnh xã hội thông qua dư luận xã hội và lương tâm con người. Đạo đức cũng đưa ra những chuẩn mực mà theo đó con người được phép làm những gì, không được phép làm những gì, có những hành vi bị ngăn cấm và có những hành vi nhận được sự cổ vũ khuyến khích. Tuy nhiên, đạo đức thực hiện điều chỉnh hành vi con người thông qua việc tạo dư luận xã hội, dư luận cộng đồng nhằm lên án, bài trừ cái ác, cái xấu, khuyến khích cái thiện và bằng việc việc khơi dậy ý thức tự giác, tự nguyện trong mỗi người. Như vậy, có thể nhận thấy giữa pháp luật và đạo đức có sự tương đồng về cách thức điều chỉnh hành vi con người. Cả pháp luật và đạo đức đều xác định cho các chủ thể những hành vi được phép làm, bắt buộc phải làm và 9
- những hành vi cấm không được làm. Xét cho đến cùng thì những điều mà pháp luật cấm cũng là những điều mà đạo đức cấm và cần có sự lên án của xã hội. Giữa pháp luật và đạo đức tồn tại mối quan hệ hữu cơ, hỗ trợ, bổ sung cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật và đạo đức trực tiếp tác động lên hành vi của con người, định hướng, đánh giá hành vi của con người dựa trên những tiêu chí nhất định. Hiện nay, với việc đề cao cả pháp luật và đạo đức, hành vi của con người thường được nhìn nhận và đánh giá dưới hai góc độ pháp luật và đạo đức. Thực tế cho thấy, không ít những hành vi vi phạm đạo đức được che đậy dưới cái vỏ bọc hợp pháp. Vì vậy, để nhìn nhận thấu đáo bản chất của hành vi chúng ta cần đánh giá cả về phương diện đạo đức và phương diện pháp luật trên những tiêu chí cụ thể. Về mức độ đánh giá giữa pháp luật và đạo đức cũng có sự tương đồng. Trong điều kiện nhà nước pháp quyền, giữa pháp luật của nhà nước và đạo đức truyền thống luôn có sự thống nhất, do vậy khi một hành vi chịu sự đánh giá của đạo đức cũng có nghĩa hành vi đó có thể chịu sự đánh giá của pháp luật. Như đối với hành vi gian dối trong kinh doanh đều chịu sự điều chỉnh, đánh giá của cả pháp luật và đạo đức. Bản thân người thực hiện hành vi đó sẽ bị dư luận xã hội lên án, đả kích đồng thời lương tâm của người đó cũng bị cắn rứt không yên. Còn trước pháp luật, người đó sẽ phải nhận hình phạt tương xứng với những hậu quả đã gây ra cho người khác và xã hội. Biện pháp cưỡng chế của pháp luật và đạo đức đều có sức mạnh như nhau trong việc điều chỉnh hành vi tuy nhiên, với đạo đức bằng việc tác động, đánh vào lương tâm, ý thức con người dường như nó có sức mạnh thẩm thấu và dai dẳng hơn cả pháp luật. Sự lên án của xã hội có tác dụng đánh thức lương tâm, trách nhiệm đối với cộng đồng trong mỗi con người. Hình phạt của pháp luật có thể ngay lập tức làm chấm dứt hành vi nguy hiểm cho xã hội tuy nhiên để ngăn ngừa hành vi tái phạm thì cần đến sự tác động của đạo đức thông qua 10
- công tác giáo dục, cảm hóa con người. Do vậy, pháp luật muốn phát huy hiệu quả sức mạnh cần có sự hỗ trợ của của đạo đức với những tác động tâm tâm lý, tinh thần đối với con người nếu không pháp luật sẽ có nguy cơ thành vô hiệu. Pháp luật và đạo đức còn có sự tương đồng về thái độ, sự cảm nhận, cách đánh giá đối với hành vi của con người. Pháp luật và đạo đức đều có thái độ, hoan nghênh, ủng hộ những hướng xử sự tích cực, mang lại lợi ích cho bản thân, cộng đồng, xã hội như đối với hành vi tự thú của người phạm tội cả pháp luật và đạo đức đều có sự đánh giá cao, hoan nghênh hành vi đó. Cách xử lý đối với những hành vi này cũng thể hiện sâu sắc tính nhân đạo, nhân văn vốn có của đạo đức và pháp luật. Trong dân gian thường có câu: “đánh kẻ chạy đi ai đánh người chạy lại” điều này thể hiện sự vị tha của xã hội đối với những người lầm đường lạc lối nhưng biết quay đầu lại. Cũng như vậy, trong pháp luật có chính sách cho người tự đầu thú được hưởng lượng khoan hồng. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ (Luật hình sự) cũng là một trong những biểu hiện chính sách nhân đạo của nhà nước đối với người phạm tội… 1.1.2.2 Sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức Pháp luật và đạo đức là hai công cụ điều chỉnh có vị trí, vai trò trung tâm trong hệ thống điều chỉnh xã hội. Giữa pháp luật và đạo đức tồn tại nhiều điểm tương đồng, bổ sung hỗ trợ cho nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người cũng như các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, với tư cách là những phương tiện điều chỉnh độc lập, giữa pháp luật và đạo đức cũng tồn tại những điểm khác biệt cơ bản. Đó là sự khác biệt về nguồn gốc hình thành, về phạm vi điều chỉnh, hình thức thể hiện và các biện pháp bảo đảm thực hiện. Về nguồn gốc hình thành. Về sự hình thành của đạo đức đã có rất nhiều quan điểm thuộc nhiều trường phái khác nhau đưa ra nhằm giải thích sự ra đời của đạo đức. Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác – Lê nin đã khẳng định nguồn gốc xã hội của đạo đức. Đạo đức được hình 11
- thành xuất phát từ nhu cầu duy trì trật tự xã hội cũng như trật tự của các mối quan hệ giữa con người với con người. Đạo đức xuất hiện ngay từ buổi bình minh sơ khai của loài người, nhờ có đạo đức mà con người có thể tồn tại, phát triển trong sự ràng buộc, gắn kết giữa lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng cùng với những quan niệm, chuẩn mực trong cách hành xử. Được sinh ra từ đời sống xã hội do vậy đạo đức phải phù hợp với xã hội và không ngừng thay đổi cùng sự vận động của xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước dựa trên những điều kiện nhất đinh đó là sự hình thành chế độ tư hữu, sự phân hóa, đấu tranh giai cấp trong xã hội. Pháp luật được ra đời một mặt nhằm thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị nhưng mặt khác nó cũng đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, xác lập, một trật tự xã hội ổn định mà nếu thiếu nó xã hội không thể tồn tại được. Pháp luật được hình thành trên cơ sở những quan niệm, chuẩn mực đạo đức, phong tục tập quán tồn tại trong xã hội chưa có giai cấp. Như vậy pháp luật là một hiện tượng xã hội được hình thành trên những điều kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định, cơ sở hình thành của pháp luật chính là những quy phạm xã hội đã có từ xã hội nguyên thủy. Về phạm vi điều chỉnh Mặc dù pháp luật và đạo đức đều thực hiện hoạt động điều chỉnh đối với hành vi của con người cũng như những mối quan hệ của con người trong xã hội. Tuy nhiên phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức không hoàn toàn trùng nhau. Có những mối quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của đạo đức và ngược lại. Phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng lớn hơn phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật không thể điều chỉnh hết thảy những mối quan hệ trong xã hội mà chỉ điều chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng ít nhiều mang tính chất quốc 12
- gia…Đạo đức điều chỉnh những mối quan hệ không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật, những mối quan hệ trực tiếp thể hiện tính chất hành vi của con người, có thể nhìn nhận, đánh giá từ phương diện đạo đức như tình cảm bạn bè, tình yêu đôi lứa…Trên thực tế, phạm vi điều chỉnh của pháp luật rất rộng, bao quát hầu hết những mối quan hệ trong xã hội chỉ để lại một số ít những quan hệ xã hội mang tính tình cảm là phạm vi tác động thuần túy của đạo đức. Tuy nhiên, có thể thấy trong mọi lĩnh vực, mọi mối quan hệ xã hội đều có sự tham gia điều chỉnh của đạo đức.Vì vậy mà sự khác biệt giữa pháp luật và đạo đức chỉ mang tính tương đối, về cơ bản, pháp luật và đạo đức cùng thực hiện sự điều chỉnh ở những mức độ nhất định lên hành vi và những mối quan hệ xã hội của con người. Trong hệ thống pháp luật có những quy phạm mang tính pháp lý – kỹ thuật, những quy pham quy định trình tự, thủ tục pháp lý…xét về mặt hình thức không hề liên quan đến đạo đức. Tuy nhiên xét về bản chất, việc thực hiện những quy phạm đó lại cần đến sự đánh giá từ phương diện đạo đức. Như vậy có thể nói, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn phạm vi điều chỉnh của pháp luật, nó bao trùm lên mọi mối quan hệ, mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong thực tế, không có một lĩnh vực, một mối quan hệ nào lại không có sự liên quan ít nhiều đến đạo đức, không chịu sự đánh giá từ phương diện đạo đức. Về hình thức, mức độ thể hiện Pháp luật được thể hiện dưới hình thức thành văn trong những văn bản quy phạm pháp luật, nội dung của pháp luật được thể hiện thành những quy định về các quyền và nghĩa vụ cùng những biện pháp xử lý vi phạm. Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện theo những quy trình nghiêm ngặt, từng câu từng chữ được lựa chọn, cân nhắc kỹ càng. Do vậy, mức độ thể hiện của pháp luật luôn cụ thể, chi tiết hơn đạo đức. So với pháp 13
- luật, đạo đức có mức độ thể hiện phổ quát, đa dạng hơn bao gồm những chuẩn mực, quy tắc ứng xử, những quan niệm, cảm xúc… được thể hiện dưới hình thức bất thành văn tồn tại trong phong tục, tập quán, luật tục, trong ca dao, tục ngữ, trong hương ước, được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác. Ca dao, tục ngữ là những hình thức thể hiện rất đặc sắc của đạo đức, rất mộc mạc, ngắn gọn nhưng chứa đựng những triết lý về cuộc sống rất sâu sắc như câu ca dao nói về cách ứng xử sao cho được lòng mọi người: “Ở sao cho vừa lòng người Ở rộng người cười, ở hẹp người chê” [18] Đạo đức điều chỉnh hành vi con người dựa trên những cảm xúc, quan niệm, chuẩn mực, những nguyên tắc chung chung, còn pháp luật lại điều chỉnh bằng việc đưa ra những tiêu chí cụ thể nhằm đánh giá hành vi con người. Ví dụ cùng điều chỉnh về hành vi cứu giúp người trong lúc hoạn nạn nhưng giữa đạo đức và pháp luật có những cách điều chỉnh khác nhau. Đạo đức chỉ khuyên con người nên sống “tắt lửa tối đèn có nhau” [18] nhưng pháp luật lại điều chỉnh một cách cụ thể hơn bằng việc quy định dấu hiệu cấu thành tội không cứu giúp người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng ở Bộ luật Hình sự Việt Nam. Sự khác biệt về phương thức bảo đảm thực hiện Đạo đức được bảo đảm thực hiện bằng những cơ chế tác động bên trong đó là lương tâm con người và bên ngoài chính là sức mạnh của dư luận xã hội. Trong khi đó pháp luật được bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, bằng hoạt động giáo dục, thuyết phục và bằng cả sự tự giác thực hiện của các chủ thể pháp luật trên cơ sở sự tự nhận thức về pháp luật. Các phương thức bảo đảm của cả pháp luật và đạo đức đều có sức mạnh cưỡng chế đối với hành vi con người, tuy nhiên xét về tính chất và mức độ thì những phương thức bảo đảm của pháp luật mang tính cưỡng chế mạnh hơn với những biện pháp xử lý nghiêm khắc hơn. Như vậy, không có nghĩa các phương thức bảo đảm của đạo 14
- đức do không có sức mạnh cưỡng chế như pháp luật mà kém hiệu quả hơn pháp luật. Cơ chế tác động bằng lương tâm và dư luận xã hội của đạo đức có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tác động đến ý thức và hành vi con người. Bởi các biện pháp xử lý của pháp luật thì có giới hạn về thời hiệu, thời hạn còn với đạo đức sự lên án của xã hội, của lương tâm là vô thời hạn thậm chí kéo suốt cuộc đời của một con người . Người xưa đã có câu: “Trăm năm bia đá vẫn còn Trăm năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” [18] Xét về mức độ tác động đến nhận thức, tình cảm của con người thì dường như các phương thức bảo đảm của đạo đức chiếm ưu thế hơn pháp luật bằng sự dai dẳng, âm ỉ qua không gian và thời gian. Con người sống ở bất cứ đâu thường rất trọng danh dự và phẩm giá bằng cơ chế tạo tin đồn, hạ thấp uy tín của một con người, thậm chí một dòng họ chính là những bảo đảm cho sự ổn định, trật tự trong cộng đồng dân cư. Sự lên án của dư luận, sự ám ảnh tội lỗi khiến con người phải lựa chon, cân nhắc khi thực hiện hành vi đặc biệt nó có tác dụng ngăn chặn hành vi tái phạm. Hành vi đạo đức thường được thực hiện ở hai mức độ trong hai trường hợp khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, hành vi đạo đức được thực hiện xuất phát từ lương tâm, từ sự nhận thức phải hành động thế nào cho đúng trong những tình huống nhất định. Thực chất tại thời điểm đó, ở mỗi người đã diễn ra sự đấu tranh quyết liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa cái đúng và cái sai, cuối cùng sự thôi thúc của lương tâm đã khiến họ thực hiện một hành vi hợp đạo đức ví như hành vi cứu sống một người đã từng là kẻ thù của mình, hành vi thú tội của kẻ phạm tội….Trong trường hợp thứ hai, hành vi đạo đức được thực hiện bởi sự tác động của nhân tố bên ngoài đó là dư luận xã hội. Vì sợ bị dư luận lên án mà một người bắt buộc phải thực hiện một hành vi đạo đức. Cũng có trường hợp hành vi đạo đức được thực hiện do thói quen hàng ngày. Mặc dù 15
- vậy sự phân định thành hai mức độ thực hiện hành vi đạo đức chỉ mang tính chât tương đối. Sự khác biệt giữa vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, được thực hiện bởi những chủ thể có năng lực hành vi và có lỗi. Vi phạm đạo đức có thể xem là hành vi đi ngược với những quan điểm, chuẩn mực, nguyên tắc của đạo đức xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được đạo đức bảo vệ, do các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện một cách cố ý. Vi phạm pháp luật phải được thể hiện thành hành vi có thể là hành động hoặc không hành động. Pháp luật không điều chỉnh những suy nghĩ bên trong con người. Do vậy, việc phạm tội mới nằm trong ý tưởng sẽ không bị truy cứu trách nhiệm pháp luật (trừ tội những tội xâm hại an ninh quốc gia). Với đạo đức, vi phạm đạo đức không chỉ được thể hiện thành hành vi mà còn là những suy nghĩ , nhận định, ý kiến của một người về một vấn đề. Giữa vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức còn có sự khác nhau về khách thể, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi…Khách thể của đạo đức rộng hơn khách thể của pháp luật, có những quan hệ xã hội pháp luật không thể điều chỉnh hết, nhưng trong mọi mối quan hệ đều có sự xuất hiện của đạo đức. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm đạo đức thường ít hơn so với hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt là vi phạm pháp luật hình sự. Hậu quả mà vi phạm đạo đức gây ra thường là những tổn hại mang tính chất tâm lý tình cảm, danh dự nhân phẩm. Đối với đạo đức, cho dù hành vi vi phạm có gây hậu quả hay không, hậu quả gây ra dù nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng đều chịu sự lên án của dư luận xã hội, của lương tâm. Còn với pháp luật, việc truy cứu trách nhiệm đối với một người phải được xem xét dưới nhiều góc độ, hành vi đó phải thỏa mãn 16
- những dấu hiệu của cấu thành tội phạm tính, phải đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội…Một người chỉ được xem là có tội nếu có sự phán xét của tòa án bằng một bản án có hiệu lực. 1.1.2.3. Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức Sự tác động qua lại giữa pháp luật và đạo đức được quy định bởi sự thống nhất và khác biệt tương đối giữa pháp luật và đạo đức, thể hiện ở vai trò của pháp luật đối với đạo đức và đạo đức đối với pháp luật. Pháp luật là một hiện tượng xã hội xuất hiện nhằm thỏa mãn nhu cầu quản lý xã hội, thể hiện ý chí và bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị. Pháp luật có nguồn gốc từ đạo đức, được xây dựng trên cở sở một nền tảng đạo đức nhất định. Pháp luật với sức mạnh riêng của mình có những tác đông mạnh mẽ đến đạo đức xã hội thông qua việc ghi nhận và tạo cơ chế bảo đảm cho sự tồn tại của những quan niệm, chuẩn mực đạo đức tiến bộ, đồng thời cũng có thể hạn chế, loại bỏ ra khỏi xã hội những quan niệm chuẩn mực đạo đức tiêu cực, phản tiến bộ, không phù hợp với pháp luật của nhà nước. Các giá trị đạo đức luôn vận động và biến đổi không ngừng cùng với sự phát triển của xã hội. Pháp luật không tạo ra các giá trị đạo đức mới mà chỉ đóng vai trò thúc đẩy, hỗ trợ việc cho việc xuất hiện của những giá trị đạo đức đó đồng thời loại bỏ những giá trị chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời. Bằng việc thể chế hóa những quan niệm, chuẩn mực đạo đức tiến bộ, pháp luật đã thực hiện chức năng bảo vệ, phát huy những giá trị tốt đẹp của đạo đức đồng thời biến chúng trở thành thói quen ứng xử hàng ngày. Những nguyên tắc chuẩn mực của đạo đức được đưa vào nội dung của pháp luật trở thành quy tắc ứng xử chung bắt buộc mọi chủ thể phải tuân theo và được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Pháp luật ghi nhận những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức theo nhiều cách thức khác nhau, có thể là ghi nhận một cách trực tiếp vào các điều luật như những quy định của lĩnh vực luật dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam quy 17
- định “Con cái có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình” (Điều 3). Đạo đức cũng có thể được ghi nhận gián tiếp thông qua việc quy định những dấu hiệu của hành vi vi phạm pháp luật chủ yếu trong pháp luật hình sự ví dụ pháp luật Hình sự Việt Nam tại điều 110 đã quy định rõ ràng đối tượng của tội hành hạ người khác là người già, trẻ em, phụ nữ có thai, người tàn tật hoặc hành vi được thực hiện với nhiều người. Như vậy, đạo đức không chỉ còn tồn tại như những chuẩn mực, những quan niệm chung chung mà được cụ thể hóa trong pháp luật và có được sức mạnh như pháp luật, cùng pháp luật thực hiện việc điều chỉnh hành vi con người cùng những mối quan hệ xã hội của họ. Đưa các chuẩn mực đạo đức tiến bộ vào các quy định của pháp luật một mặt khẳng định vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức mặt khác cũng thể hiện sự đánh của Nhà nước đối với vai trò của đạo đức trong xã hội. Trong mối tương quan giữa pháp luật và đạo đức, đạo đức đóng vai trò là cơ sở, là môi trường thuận lợi để con người tiếp thu, cảm nhận và thực hiện pháp luật. Đạo đức là một lĩnh vực thực sự người, những nguyên tắc chuẩn mực của đạo đức giúp con người sống có nhân, có nghĩa hướng tới cái thiện nhiều hơn. Trong hoạt động thực hiện pháp luật, những giá trị đạo đức là điều kiện cần thiết để con người có được tình cảm, thái độ tốt đối với pháp luật. Một người sống không có nhận thức đầy đủ những giá trị đạo đức thì ắt hẳn không thể là người có thái độ thực hiện pháp luật tốt. Khi thực hiện bất cứ một hành vi nào con người cũng cần phải xuất phát từ cái tâm. Trong mọi trường hợp, yếu tố đạo đức luôn đi đầu trong việc điều chỉnh hành vi con người sau đó mới đến yếu tố pháp luật. Do vậy, đạo đức là môi trường, là nội lực thúc đẩy con người muốn hành động phù hợp với pháp luật từ đó hình thành ý thức, thói quen xử xử theo pháp luật. Các nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức cũng đóng 18
- vai trò quan trọng trong hoạt động giải thích, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật. Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức, xuất phát từ những giá trị đạo đức tốt đẹp. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật chỉ có thể đạt hiệu quả cao nếu kết hợp tốt việc nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục đạo đức. Trong hoạt động xây dựng pháp luật. Để có được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, phát huy hiệu quả điều chỉnh trên thực tế cần phải phù hợp với thực tế và những chuẩn mực đạo đức xã hội. Nhận thức được điều này, khi xây dựng pháp luật các nhà làm luật luôn xuất phát từ quan điểm bảo đảm sự phù hợp của các quy phạm pháp luật với đạo đức xã hội trong từng thời kỳ lịch sử. Pháp luật và đạo đức là hai hình thái ý thức xã hội do con người sáng tạo nên nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết lập và duy trì sự ổn định trật tự của xã hội. Mặc dù còn tồn tại những điểm khác biệt nhưng về cơ bản pháp luật và đạo đức thống nhất với nhau trong việc điều chỉnh hành vi con người. Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh xã hội. Lịch sử nhà nước và pháp luật đã có nhiều những hệ thống tư tưởng đề cao pháp luật và đạo đức trong hoạt động quản lý xã hội của nhà nước. Pháp luật và đạo đức đã được sử dụng như những công cụ điều chỉnh hữu hiệu nhằm duy trì địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền trong xã hội. Chỉ đến xã hội xã hội chủ nghĩa pháp luật và đạo đức mới được sử dụng là công cụ bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của con người. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa pháp luật và đạo đức xét đến cùng đều vì con người. 1.2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁP LUẬT VÀ ĐẠO ĐỨC. 1.2.1 Cơ sở lý luận quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn