intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của hội đồng nhân dân trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (trên cơ sở các số liệu thực tiễn của địa bàn tỉnh Cà Mau)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

28
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của hội đồng nhân dân trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (trên cơ sở các số liệu thực tiễn của địa bàn tỉnh Cà Mau)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÝ MINH VỮNG VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ (Trên cơ sở các số liệu địa bàn tỉnh Cà Mau) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HỢP HÀ NỘI - 2013
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lý Minh Vững
  3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ .................... 5 1.1. Cơ sở lý luận về về vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS .......................................................................... 5 1.1.1. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS .............................................................................................. 5 1.1.2. Vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ..................................................................................................... 9 1.1.3. Nội dung, đối tượng, hình thức, căn cứ và các nguyên tắc cơ bản về giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS....... 10 1.2. Hậu quả của hoạt động giám sát .................................................................. 23 1.2.1. Kết luận giám sát và kiến nghị đến cơ quan được giám sát về việc thi hành kết luận giám sát .................................................................................. 23 1.2.2. Kiến nghị đến cơ quan cấp trên của cơ quan được giám sát về một số vấn đề có liên quan ....................................................................................... 24 1.3. Hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS qua các thời kỳ lịch sử ở Việt Nam ................................... 24 1.3.1. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 ..................................................... 24 1.3.2. Theo quy định của Hiến pháp 1980 ............................................................. 25 1.4. Pháp luật hiện hành về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ........................................................ 26
  4. 1.4.1. Quy định của Hiến pháp về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ................................................ 26 1.4.2. Quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ................. 26 1.4.3. Quy định của Luật TTHS về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ................................................ 27 1.4.4. Các quy định khác về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ........................................................ 28 Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ TẠI TỈNH CÀ MAU ..................... 29 2.1. Tình hình chung về thực tiễn giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ở tỉnh Cà Mau ......................................... 29 2.1.1. Giám sát của HĐND tỉnh đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ..... 29 2.1.2. Giám sát của HĐND cấp huyện đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ............................................................................................ 53 2.2. Đánh giá về những khiếm khuyết của cơ chế, pháp luật và thực tiễn việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS .......................... 58 2.2.1. Về mặt pháp luật .......................................................................................... 58 2.2.2. Cơ chế bảo đảm thực hiện ............................................................................ 59 2.2.3. Về thực tiễn việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS .................. 61 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ.......................................................... 64 3.1. Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS .................................... 64 3.2. Hoàn thiện một số quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS....... 65
  5. 3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định trong Hiến pháp 1992 có liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND đối với các cơ quan tiến hành TTHS ......... 65 3.2.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ...................... 66 3.2.3. Kiến nghị khác có liên quan ......................................................................... 67 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ........................................................................ 69 3.3.1. Đổi mới hình thức giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ................................................................................... 69 3.3.2. Đổi mới hình thức và nội dung chất vấn ...................................................... 70 3.3.3. Tăng cường thu thập và xử lý thông tin có liên quan đến hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ................................................................. 71 3.3.4. Hoạt động giám sát đối với các cơ quan tiến hành TTHS phải được tiến hành thường xuyên ................................................................................ 71 3.3.5. Nâng cao hiệu quả giám sát các cơ quan tiến hành TTHS tại kỳ họp của HĐND .................................................................................................... 72 3.3.6. Lựa chọn, cơ cấu Đại biểu, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng giám sát cho Đại biểu HĐND ...................................................................... 72 3.3.7. Tăng cường vai trò điều hòa, phối hợp hoạt động của Thường trực HĐND, các Ban HĐND ............................................................................... 73 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân VKSND: Viện kiểm sát nhân dân TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đã gần bảy mươi năm kể từ khi ra đời, vai trò của HĐND các cấp ở nước ta ngày càng được khẳng định và củng cố. Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức xúc hiện nay. Giám sát là một trong hai chức năng quan trọng của HĐND, trong đó có việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Thông qua hoạt động giám sát, chúng ta có thể kiểm chứng lại tính đúng đắn, sự phù hợp về các quy định của pháp luật đã, đang được áp dụng trong cuộc sống và những chủ trương biện pháp mà HĐND đã quyết nghị; giúp chúng ta phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc mà kịp thời có những giải pháp tháo gỡ, để thực hiện nhiệm vụ một cách chủ động; cũng qua hoạt động giám sát còn là cơ sở cho việc thực hiện công tác thẩm tra và đi đến quyết định vấn đề một cách chính xác, đảm bảo các Nghị quyết ban hành có chiều sâu, sát thực tiễn, phù hợp với tâm tư nguyện vọng của cử tri và phù hợp quy định với quy định của pháp luật. Song trong thực tế, hoạt động giám sát nói chung, việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS nói riêng trong thời gian qua tuy có chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa mang lại hiệu quả cao, thường bộc lộ một số hạn chế chủ yếu sau: Công tác giám sát chưa đều, chủ yếu do Thường trực và các Ban HĐND tiến hành; việc tham gia hoạt động giám sát của các Đại biểu còn hạn chế, chủ yếu mới giám sát tại kỳ họp. Giám sát của HĐND đôi khi còn mang tính hình thức: nội dung giám sát có lúc chưa sâu, chưa tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa 1
  8. phương, những vấn đề mà nhiều cử tri quan tâm. Kết luận của Đoàn giám sát đôi lúc chưa sâu, chưa chỉ đúng căn nguyên, đúng trọng tâm vấn đề đề cập… Cũng có trường hợp kết luận của đoàn giám sát chưa được coi trọng, sự tiếp thu, khắc phục còn hạn chế. Ngoài ra, trong thực hiện giám sát vẫn còn có sự né tránh, nể nang, ngại va chạm… nên hiệu lực và hiệu quả giám sát của HĐND chưa cao. Nguyên nhân của những hạn chế trên là: 1) có sự hạn chế trong nhận thức (chưa nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, chức năng, vai trò, trách nhiệm của HĐND); 2) thiếu sự tự tin và chưa quyết liệt của một bộ phận Đại biểu (còn nể nang, ngại va chạm v.v…); 3) chưa có quy định ràng buộc trách nhiệm pháp lý nếu không thực hiện đúng kết luận giám sát; 4) thêm nữa, tính hình thức trong hoạt động của HĐND, cơ chế cho hoạt động giám sát chưa rõ ràng (làm cho một số Đại biểu HĐND thiếu tự tin vào hoạt động); 5) sự hạn chế về năng lực, trình độ; 6) thiếu thông tin lẫn thời gian thỏa đáng dành cho hoạt động thực hiện nhiệm vụ Đại biểu… Đây chính là một vấn đề bức xúc cần được nghiên cứu, hoàn thiện; trên cơ sở đó, tìm ra những giải pháp phù hợp góp phần khắc phục những vướng mắc, bất cập trong hoạt động giám sát của HĐND như đã nói ở trên, để hoạt động này ngày càng hiệu quả. Đó là lý do tác giả chọn đề tài: Vai trò của HĐND trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS (trên cơ sở các số liệu thực tiễn của địa bàn tỉnh Cà Mau) làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Thời gian qua đã có một số bài viết nghiên cứu về hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS trên các tạp chí, sách chuyên khảo nhưng vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, quan điểm của các tác giả vẫn còn nhiều nội dung chưa đạt đến sự đồng thuận, vì vậy vấn đề này cần phải được tiếp tục nghiên cứu. 2
  9. Tuy nhiên, ở các khía cạnh khác của hoạt động giám sát của HĐND cũng có một số công trình nghiên cứu, bài viết quan trọng như: - Sách chuyên khảo: „„Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh đồng chủ biên; „„Một số vấn đề cơ bản về hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997 do GS.TS Nguyễn Duy Gia làm chủ biên; „„HĐND trong hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước”. Nxb Pháp lý, 1998, do PTS. Nguyễn Đăng Dung chủ biên; „„HĐND và UBND theo Hiến pháp 1992” và „„Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994”. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996, của Phùng Văn Tửu. - Luận án tiến sĩ có liên quan: „„Nâng cao hiệu lực hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1998 của Vũ Mạnh Thông. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng nghiên cứu đề tài: 3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS, luận văn đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 3.2. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của Hiến pháp 1992, Luật tổ chức HĐND năm 2003, Bộ luật TTHS năm 2003 có liên quan đến hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các qui định của pháp luật liên quan đến giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Số liệu thống kê phục vụ cho việc nghiên cứu, so sánh, đối chiếu trong đề tài được viện dẫn từ các báo cáo giám sát, báo cáo năm của Hội đồng nhân dân tỉnh Cà Mau, của Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND tỉnh và các huyện, thành phố trong tỉnh. 3
  10. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp; đồng thời, dựa trên cơ sở các bài viết, các đề tài khoa học của các nhà nghiên cứu lý luận về vai trò, nhiệm vụ, hình thức hoạt động giám sát của HĐND, các hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Các phương pháp nghiên cứu được tác giả vận dụng gồm: phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê hình sự. 5. Điểm mới của luận văn Điểm mới của luận văn gồm: - Làm sáng tỏ hơn các quy định của pháp luật hiện hành về giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS, chỉ ra những vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận - pháp lý về vai trò của HĐND trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS tại tỉnh Cà Mau. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 4
  11. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Cơ sở lý luận về vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 1.1.1. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS 1.1.1.1. Khái niệm giám sát nói chung Có nhiều định nghĩa giám sát khác nhau được đưa ra tùy theo phạm vi rộng, hẹp của nội dung nghiên cứu. Theo Từ điển Tiếng Việt, cách hiểu chung nhất, giám sát là “theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ”. Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn trong Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính lại coi giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh [15]. Còn TS. Đặng Đình Tân cho rằng giám sát là “sự theo dõi, quan sát hoạt động của một chủ thể quyền lực mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để bắt buộc và hướng hoạt động của các tổ chức quyền lực chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, đúng quy chế nhằm giới hạn quyền lực, đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ nghiêm minh” [30]. Quan điểm này gần giống với quan điểm của Mai Hữu Khuê, Bùi Văn Nhơn, có chăng chỉ bổ sung thêm một số điểm về chủ thể có quyền lực. 5
  12. Ban Công tác lập pháp thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (hiện Ban này đã được giải thể) có đưa ra khái niệm “giám sát dưới góc độ ngôn ngữ thông thường được hiểu là: việc theo dõi, xem xét, kiểm tra của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác để qua đó có được nhận định về hoạt động của chủ thể này” [1]. Cả bốn quan điểm trên đều thống nhất về cách thức tiến hành hoạt động giám sát, đó là việc theo dõi, xem xét, kiểm tra. Đây cũng là cách hiểu mang tính cơ bản trong quan điểm thứ nhất. Riêng quan điểm của TS. Đặng Đình Tân và Ban Công tác lập pháp bổ sung thêm “chủ thể có quyền lực”. Đây là yếu tố rất quan trọng bởi giám sát thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể giám sát với đối tượng giám sát. Mối quan hệ giữa chúng phải được xây dựng trên cơ sở mối quan hệ quyền lực, chủ thể giám sát phải có quyền với đối tượng giám sát. Quyền ở đây phải là quyền quyết định, quyền tác động đến đối tượng bị giám sát, ví dụ: quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm, quyền hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật, phê bình, kỷ luật… Nói cách khác, đối tượng bị giám sát phải biết “sợ” chủ thể giám sát. Đây chính là tiền đề dẫn đến việc chủ thể giám sát sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế. Các biện pháp tác động tới đối tượng giám sát như việc Quốc hội, HĐND bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật; hoặc định hướng hoạt động của đối tượng giám sát như việc Quốc hội, HĐND ban hành nghị quyết về chất vấn, trả lời chất vấn, các kiến nghị từ hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Ban của Quốc hội hay Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… Các kiến nghị này không có giá trị bắt buộc thi hành nhưng sẽ tác động tới hành vi của đối tượng bị giám sát. Việc xác định chủ thể tiến hành giám sát và đối tượng bị giám sát là 6
  13. cần thiết nhằm làm rõ hoạt động giám sát với hoạt động có tính chất gần tương tự là kiểm tra, xem xét, theo dõi. Theo đó, giám sát là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể nằm bên ngoài tổ chức, hệ thống. Tức là cá nhân, tổ chức, cơ quan này giám sát cá nhân, tổ chức, cơ quan khác trong việc thực hiện nhiệm vụ của nó. Khi phân biệt hoạt động giám sát với thanh tra, TS. Đặng Đình Tân và nhóm tác giả cũng đưa ra quan điểm tương tự “Giám sát là một hoạt động kiểm soát quyền lực nhưng là sự kiểm soát từ bên ngoài đối với các nhánh quyền lực Nhà nước”. Theo đó, hoạt động theo dõi, kiểm tra chỉ có thể coi là hoạt động giám sát nếu chủ thể và đối tượng giám sát nằm trong hai hệ thống độc lập (một cách tương đối) với nhau. Như vậy, giám sát là sự theo dõi, quan sát, kiểm tra hoạt động của chủ thể có quyền đối với chủ thể khác để biết được đối tượng bị giám sát có thực thi đúng, đủ theo quy định hay không và quy định về hành vi đối tượng giám sát phải và được làm có phù hợp với điều kiện thực tiễn hay không và làm rõ được nguyên nhân của sự vi phạm, sự không phù hợp này. Theo khái niệm này thì một trong những căn cứ quan trọng để xác định đối tượng giám sát của HĐND là có mối quan hệ mang tính quyền lực giữa HĐND và đối tượng bị giám sát. Đối tượng bị giám sát phải chịu trách nhiệm trước HĐND, HĐND có quyền tác động trực tiếp tới đối tượng bị giám sát. Theo Từ điển luật học thì giám sát là sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động, thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực, để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã được thực hiện từ trước, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Giám sát có những hình thức mang tính kỹ thuật, là sự quan sát, theo dõi quy trình, quy phạm trong quá trình sản xuất hay trong đầu tư xây dựng, quản lý môi trường… theo những tiêu chuẩn và quy phạm kỹ thuật nghiêm 7
  14. ngặt. Nhưng cũng có hình thức giám sát mang tính chất kinh tế - chính trị - xã hội - pháp luật, là sự quan sát, theo dõi về việc thực hiện các chế độ chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các hình thức giám sát trên có quan hệ mật thiết với nhau nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển. 1.1.1.2. Khái niệm giám sát của HĐND HĐND nước ta là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có nhiệm vụ ban hành các nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương như kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, về ngân sách, quốc phòng, an ninh ở địa phương và các biện pháp nhằm ổ định và nâng cao đời sống của người dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước; thực hiện quyền giám sát đối với các cơ quan Nhà nước ở địa phương.Giám sát là một trong những nhiệm vụ hiến định của HĐND. Giám sát của HĐND là thực hiện sự ủy quyền của nhân dân để giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước, là một hình thức thực hiện quyền giám sát của nhân dân được thực hiện bằng pháp luật, thông qua cơ quan quyền lực Nhà nước là HĐND các cấp. Từ các khái niệm chung về giám sát trên, căn cứ đối tượng giám sát của HĐND, có thể hiểu khái niệm giám sát của HĐND như sau: Giám sát của HĐND là hoạt động có mục đích, thường xuyên, liên tục của HĐND nhằm quan sát, theo dõi, kiểm tra, phát hiện, uốn nắn việc tuân theo pháp luật, chấp hành Nghị quyết HĐND đối với Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương theo quy định của pháp luật. Như vậy, giám sát của HĐND thực chất là hoạt động nhằm kiểm soát thực thi quyền lực Nhà nước. Giám sát chứa đựng những yếu tố thuộc tính 8
  15. của công tác kiểm tra, kiểm soát và thanh tra. Trong quá trình giám sát, chủ thể giám sát có quyền tiếp cận mọi đối tượng, mọi văn bản, hồ sơ theo yêu cầu giám sát. 1.1.1.3. Khái niệm giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS Căn cứ vào khái niệm giám sát nói chung và các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật khác, giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS có thể được hiểu như sau: giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS là tổng thể các hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban HĐND và Đại biểu HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS trong việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, từ đó đưa ra các kết luận và kiến nghị về các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, phát huy những mặt ưu điểm trong quá trình hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 1.1.2. Vai trò giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS Giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS được thực hiện thông qua nhiều phương thức hoạt động của HĐND như xem xét báo cáo công tác, xem xét việc trả lời chất vấn, xem xét văn bản quy phạm pháp luật, thành lập Đoàn giám sát... trong đó xem xét báo cáo công tác thường được coi là phương thức phổ biến và có hiệu quả nhất của hoạt động giám sát. Luật Tổ chức và Quy chế hoạt động của HĐND đã quy định khá cụ thể về quyền hạn của các chủ thể tiến hành giám sát và nghĩa vụ của các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc đáp ứng các yêu cầu giám sát của HĐND; về chương trình giám sát và phân công, điều hòa phối hợp hoạt 9
  16. động giám sát; về trình tự thủ tục các bước công việc cần tiến hành, những yêu cầu đối với hoạt động giám sát, trách nhiệm theo dõi kết quả thực hiện kiến nghị sau giám sát… Hoạt động giám sát có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện chức năng quyết định của HĐND, không những cung cấp thêm thông tin để HĐND cân nhắc khi quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, mà còn là một biện pháp để thúc đẩy việc thực hiện nghị quyết của HĐND và đánh giá tính phù hợp, khả thi của nghị quyết trong thực tế. Qua giám sát công tác giám sát giúp cho HĐND có thể phát hiện kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật của những người tiến hành tố tụng tại các cơ quan tiến hành TTHS. Từ đó, HĐND có kết luận về những mặt làm được, chưa được và đề ra biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Mặt khác, từ kết quả giám sát cũng nhằm kịp thời biểu dương những việc làm tốt; đảm bảo cho pháp luật của Nhà nước được thực hiện đúng đắn và thống nhất; củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, mà trước tiên là hoạt động tiến hành tố tụng của các cơ quan tiến hành TTHS. Chính vì vậy, giám sát có vị trí, vai trò rất quan trọng trong hoạt động của HĐND, tác động tích cực đến chất lượng hoạt động của HĐND và tình hình phát triển của địa phương. 1.1.3. Nội dung, đối tượng, hình thức, căn cứ và các nguyên tắc cơ bản về giám sát của HĐND đối với hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS. 1.1.3.1. Nội dung, đối tượng giám sát 1) Giám sát hoạt động khởi tố, điều tra của cơ quan điều tra thuộc lực lượng cảnh sát nhân dân Điều tra là giai đoạn TTHS, trong đó cơ quan có thẩm quyền áp dung mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. 10
  17. Hoạt động điều tra là cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự. Thiếu hoạt động điều tra, Tòa án không có cơ sở để giải quyết vụ án. Tòa án muốn xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, giai đoạn điều tra phải thu thập được những chứng cứ cơ bản, bao gồm cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, cũng như xác định các tình tiết khác của vụ án. Việc giám sát của HĐND đối với hoạt động khởi tố - Điều tra vụ án hình sự của Cơ quan điều tra thể hiện qua các nội dung cơ bản như: - Giám sát để xác định việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không; có để lọt tội phạm và người phạm tội cũng như có làm oan cho người vô tội hay không. - Giám sát hoạt động bắt, giam, giữ có đúng pháp luật không; có trường hợp oan, sai trong bắt, giữ người không. - Giám sát công tác thi hành các bản án hình sự có hiệu luật pháp luật của Tòa án. - Giám sát để từ đó đánh giá thực tiễn hoạt động khởi tố, điều tra đã đáp ứng được yêu cầu góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa hay không. 2) Giám sát việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Hiện nay, công cuộc cải cách bô ̣ máy nhà nước , trong đó có cải cách tư pháp đã và đang đă ̣t ra hàng loa ̣t vấ n đề lý luâ ̣n và thực tiễn cầ n tiế p tu ̣c đươ ̣c nghiên cứu và giải quyế t . Viê ̣n kiể m sát nhân dân , mô ̣t thiết chế trong hê ̣ thố ng quyề n lực nhà nước cần được đổi mới theo yêu cầu của cải cách tư pháp. Nghị quyế t số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lươ ̣c cải cách tư pháp đế n năm 2020” đã xác đinh ̣ rõ : “Trước mắ t , Viê ̣n kiể m sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố 11
  18. và kiểm sát hoạt động tư pháp, tăng cường trách nhiê ̣m của công tố trong hoa ̣t đô ̣ng điề u tra”. Ở Việt Nam, cụm từ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng của VKSND tại Điều 138, và được nhắc lại ở các Điều 1 và 3 Luật tổ chức VKSND năm 1981. Kể từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc cải cách tư pháp. Khái niệm “thực hành quyền công tố” cũng như nội dung, phạm vi của nó còn ít được đề cập và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài ngành Kiểm sát nhân dân thời gian qua cho thấy, khi đề cập đến thực hành quyền công tố thì hoặc mới chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử hình sự, kiểm sát thi hành án…; hoặc gắn việc thực hành quyền công tố với việc thực hiện những nhiệm vụ khác của Công tố viên trong TTHS; hoặc lại mở rộng phạm vi quyền công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn TTHS bao gồm cả điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Hoặc chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: lập cáo trạng và luận tội trước phiên toà sơ thẩm hình sự và coi đó là thực hành quyền công tố, thậm chí còn cho rằng, thực hành quyền công tố chỉ là sự buộc tội trước phiên toà sơ thẩm. Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, nên thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật TTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Tuy vậy, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực 12
  19. hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố. Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Với mục tiêu mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện và xử lý theo pháp luật của TTHS, nên về mặt nguyên tắc, cứ có tội phạm xảy ra là đòi hỏi quyền công tố phải được phát động. Khi quyền công tố được phát động thì đồng nghĩa với hoạt động thực hành quyền công tố được triển khai và khi quyền công tố không còn thì hoạt động thực hành quyền công tố cũng được kết thúc. Vì vậy, phạm vi thực hành quyền công tố được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị, hoặc vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS. Để buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, pháp luật đã quy định hàng loạt các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đã thực hiện hành vi phạm tội, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan điểm truy tố. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các hoạt động tố tụng này chính là nội dung của thực hành quyền công tố. Nội dung giám sát của HĐND đối với hoạt động của VKS biểu hiện trên các phương diện sau đây: a) Giám sát các hoạt động thuộc về quyền công tố: - Trong giai đoạn khởi tố - điều tra: HĐND cần kiểm tra xem xét để làm rõ: Viện kiểm sát có chủ động tham gia phối hợp với Cơ quan điều tra trong nắm bắt, xử lý tin báo, tố giác tội phạm hay không; việc áp dụng pháp luật trong giai đoạn này của Viện kiểm sát có đúng pháp luật hay không.Việc đánh giá các tài liệu vụ án do Cơ quan điều tra chuyển đến có khách quan, 13
  20. toàn diện không; việc trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra điều tra bổ sung có đúng quy định không; việc truy tố bị can ra xét xử tại Tòa án có đảm bảo các căn cứ theo quy định của pháp luật không, có đúng người, đúng tội không; có để lọt tội phạm và người phạm tội không. - Trong giai đoạn xét xử: Việc đọc cáo trạng, thực hiện luận tội bị cáo tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm có thể hiện đúng chức năng, vai trò không; việc phát biểu quan điểm giải quyết vụ án tại các phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm như thế nào; kháng nghị các quyết định, bản án của Tòa án có đúng quy trình hay không. b) Giám sát việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp: - Kiểm sát hoạt động khởi tố - điều tra vụ án hình sự: Việc thực hiện vai trò của Viện kiểm sát như thế nào khi phát hiện quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra không có căn cứ; việc kiểm sát hoạt động khởi tố - điều tra của Cơ quan điều tra có đúng thực chất hay chỉ chung chung; khi đưa ra các yêu cầu đối với Cơ quan điều tra có phù hợp thực tế và các quy định của pháp luật không. - Kiểm sát hoạt động xét xử của TAND: Việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND, trong tham gia tố tụng của những người tham gia tố tụng thực hiện như thế nào; việc kháng nghị đối với bản án của Tòa án có đảm bảo đúng trình tự, nội dung không, có phản ánh đúng thực chất vấn đề không. Qua công tác giám sát nhằm đánh giá những mặt làm được và chưa được đối với hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong thời gian tới. 3) Giám sát hoạt động xét xử của cơ quan Tòa án Trong hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam, Toà án được xác định là khâu trung tâm và việc nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của Tòa án 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2