Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
lượt xem 5
download
Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị trí, vai trò của Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM .............................................. 7 I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở Việt Nam............................................................................................................. 7 1.Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở nƣớc ta. ............................................................................................................... 7 2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. ........................... 13 3. Yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đối với Toà án. ............................................................................................................................ 33 4. Những yếu tố đảm bảo vị trí, vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. ........................................................................................................... 40 Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM ............... 47 I. Đánh giá vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam ............ 47 1. Xét xử hành vi phạm tội.......................................................................................... 48 2. Giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn trong lĩnh vực dân sự, kinh tế và lao động .......................................................................................................................................... 51 3. Kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nƣớc ....................................... 55 4. Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngƣời ........................................................... 59 II. Những phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam...................................................... 66 1. Phƣơng hƣớng cải cách toà án nhằm nâng cao vai trò của toà án trong Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam ......................................................................... 66 2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. ........................................................................................................... 71 4
- KẾT LUẬN ................................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 85 5
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương ASEM : Hội nghị thượng đỉnh Á Âu AFTA : Khu vực thương mại mậu dịch tự do CCTP : Cải cách tư pháp CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa XHCN : Xã hội chủ nghĩa ILO : Tổ chức lao động quốc tế TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao UBND : Ủy ban nhân dân WTO : Tổ chức thương mại thế giới WHO : Tổ chức y tế thế giới 1
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đảm bảo quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân công phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là định hướng cơ bản thực hiện công cuộc đổi mới hệ thống chính trị nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong ba nhánh quyền lực nói trên, thì nhánh quyền tư pháp là nhánh quyền được tổ chức để thực hiện họat động xét xử và những họat động phục vụ trực tiếp cho họat động xét xử như điều tra, công tố, bổ trợ tư pháp. Tòa án nhân dân là nơi biểu hiện tập trung nhất của quyền tư pháp, họat động xét xử của Tòa án cũng chính là họat động thể hiện chất lượng họat động và uy tín của hệ thống cơ quan tư pháp và toàn thể bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa đó, việc cải cách Tòa án ở nước ta phải được xây dựng trên cơ sở những quan điểm đúng đắn và đầy đủ về vị trí, vai trò của Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước, trong bộ máy nhà nước đặc biệt là trong quá trình tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Thời gian gần đây, cùng với quá trình đổi mới kinh tế, công tác lý luận về nhà nước và pháp luật của Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, để tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư pháp nói riêng nhằm đáp ứng năng lực phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc hiện nay thì chúng ta không thể không tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vị trí, vai trò của từng cơ quan tư pháp; mối quan hệ giữa lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) với tư pháp (Tòa án) trong cơ chế phân công phối hợp cùng thực hiện quyền lực nhà nước. 1
- Do vậy, cải cách tư pháp nói chung, cải cách Tòa án nói riêng là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã được quán triệt và khẳng định trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, như Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết trung ương 3 (Khóa 8), Nghị quyết trung ương 7 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ IX và lần thứ X, Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, đặc biệt là ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Theo đó, vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp lý, xây dựng chiến lược nguồn nhân lực, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, nguồn kinh phí phục vụ họat động xét xử nhằm đảm bảo Tòa án có vị trí và vai trò quan trọng trong nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đã được quán triệt là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Qua thực tiễn họat động của Tòa án cho thấy rằng, họat động xét xử của Tòa án trong thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng họat động xét xử được nâng cao, tình trạng xét xử sai, gây oan cho người vô tội đã giảm đi đáng kể; Tòa án đã xét xử nghiêm minh các vụ án lớn, nghiêm trọng. Vị trí, vai trò của Tòa án trong nhận thức, tâm thức của người dân đã và đang dần được cải thiện. Tuy nhiên, so với những yêu cầu đặt ra trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về vị trí, vai trò của Tòa án trong việc tổ chức thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền công dân, quyền con người và bảo đảm quyền tự do, dân chủ xã hội chủ nghĩa thì Tòa án ở nước ta cần phải tiếp tục được cải cách một cách mạnh mẽ, toàn diện từ nhận thức, vấn đề pháp lý, đến nguồn lực vật chất để phục vụ cho họat động xét xử. 2
- Mặc khác, trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, mặt trái của nền kinh tế thị trường nên tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, tính chất và hậu quả do hành vi tội phạm gây ra ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn phạm tôi tinh vi. Bên cạnh đó, các khiếu kiện về lao đông, hành chính, kinh tế, dân sự ngày càng tăng về số lượng, phức tạp và đa dạng hơn. Hơn nữa, do nhận thức người dân ngày càng cao nên đòi hỏi của người dân đối với hiệu quả và chất lượng xét xử của Tòa án cũng phải được nâng cao. Toà án phải thực sự là chổ dựa, công cụ, biểu tượng của công băng, bình đẳng, bảo vệ quyền con người. Xuất phát từ những vấn đề đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình với mong muốn là thông qua việc làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá vị trí, vai trò của Toà án ở nước ta trong thời gian qua. Qua đó, luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài. Từ khi những định hướng cải cách tư pháp mà trung tâm là cải cách Toà án được đề cập trong các văn kiện chính thức của Đảng, Toà án đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học ở nước ta, như đề tài cấp nhà nước do TS. Trịnh Hồng Dương làm chủ nhiệm hoàn thành năm 1996 “ Vị trí, vai trò và chức năng của Toà án nhân dân trong Bộ máy nhà nước ta qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam” MS: 95-98-048/ĐT, đề tài cấp nhà nước do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn thành năm 2006, “Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân”; luận án tiến sĩ của TS. Nguyễn Thanh Bình “Thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân trong giải quyết khiếu kiện hành chính”; luận án tiến sĩ của 3
- TS Tô Văn Hoà “Tính độc lập của Toà án- nghiên cứu pháp lý về khía cạnh lý luận, thực tiễn ở Đức, Mỹ, Pháp, Việt Nam và các kiến nghị đối với Việt Nam”. Toà án còn là đối tượng trung tâm của nhiều công trình khoa học đề cập đến lĩnh vực đổi mới cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, như Luận án tiến sĩ của TS. Trần Huy Liệu “Đổi mới và tổ chức hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam”. Ngoài ra có rất nhiều bài viết, nhiều ấn phẩm khoa học pháp lý, sách, tạp chí, báo… đã được xuất bản có nội dung đề cập đến toà án từ nhiều góc độ khác nhau. So với trước đây, những vấn đề lý luận về quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, vị trí, vai trò của Toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp, trong bộ máy nhà nước, mô hình tổ chức hệ thống toà án đã được kiến giải tương đối toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN vẫn chưa thật đầy đủ, còn nhiều vấn đề phải bàn luận tiếp. Do đó, trong thời gian tới cần được tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn nhằm góp phần tạo nên hệ thống lý luận đầy đủ và toàn diện về tư pháp, bảo đảm cho quyền tư pháp làm cơ sở phục vụ chiến lược cải cách tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết 49- NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. 3.Mục đích và nhiệm vụ của luận văn. * Mục đích nghiên cứu: Luận văn có mục đích là làm rõ một số vấn đề lý luận và đánh giá về vị trí, vai trò của Toà án ở nước ta kể từ năm 2002 đến nay. Trên cơ sở đó luận văn đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 4
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. Với mục đích nghiên cứu như trên, luận văn phải hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản sau đây: - Xác định nội hàm của quyền tư pháp trong nhà nước pháp quyền, những đặc điểm của quyền tư pháp, thực hiện quyền tư pháp, cơ quan tư pháp, vị trí trung tâm của toà án trong việc thực hiện quyền tư pháp. - Từ những tiền đề lý luận trên, Luận văn khẳng định một số vai trò quan trọng và nổi bất của toà án trong nhà nước pháp quyền. - Luận văn đồng thời phân tích một số quy định pháp lý về vị trí, vai trò của toà án; một số quy định của pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng toà án và pháp luật liên quan trực tiếp đến tổ chức và hoạt động xét xử của toà án và thực tiễn hoạt động xét xử của toà án trong thời gian từ năm 2002 đến nay. - Trên cơ sở những luận điểm đã nêu ra và những đánh giá vai trò của toàn án ở nước ta hiện nay, qua đó luân văn đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền Việt Nam. 4.Phạm vi nghiên cứu của luận văn. Luận văn chỉ đánh giá thực tiễn chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà án từ năm 2002 trở lại đây. Để có tính thuyết phục cho những quan điểm nêu ra, luận văn có sự so sánh với một số quan điểm có tính phổ biến ở các nước tư sản phát triển về vị trí, vai trò của quyền tư pháp, hoạt động xét xử của Toà án trong nhà nước pháp quyền. 5. Những điểm mới của luận văn. Luận văn là một đề tài nghiên cứu trực tiếp và có tính chất chuyên biệt về vai trò cơ bản của Toà án trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 5
- Đề tài sẽ đánh giá một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về thực tiễn chất lượng, hiệu quả hoạt động của Toà án nước ta từ năm 2002 trở lại đây. Luận văn sẽ đề xuất được một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao vai trò của toà án trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân 6.Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Phương pháp nghiên cứu chung có tính chất chủ đạo và nền tảng của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra để làm rõ những nội dung của quy định pháp luật, những luận điểm chưa phổ biến ở nước ta, luận văn đã sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp mô tả kết hợp với phương pháp so sánh. 7.Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm có 2 chương: Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM 6
- CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM I. Vị trí của Tòa án trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở Việt Nam. 1. Quyền tƣ pháp trong cơ chế phân công, phối hợp thực hiện quyền lực Nhà nƣớc ở nƣớc ta. “Tư pháp” là thuật ngữ Hán Việt có hai nghĩa chính: Thứ nhất là trông coi bảo vệ pháp luật; thứ hai, tư pháp là pháp đình theo pháp luật mà xét định các việc ở trong phạm vi pháp luật. Trong khoa học pháp lý phương Tây, tư pháp là xét xử hay là ý tưởng cao đẹp về một nền công lý. Trên phương diện tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước, tư pháp là một nhánh quyền lực độc lập với quyền lập pháp, quyền hành pháp và đồng nghĩa với quyền xét xử (tài phán) do Toà án thực hiện là quan niệm phổ biến ở nhiều nước tư sản phát triển. Ở Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc hiến định: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [1, tr.3] qua đó cho thấy quyền tư pháp luôn gắn bó chặt chẽ với quyền lập pháp và quyền hành pháp trong tổng thể của quyền lực Nhà nước thống nhất. Trong khi hoạt động chủ yếu của hành pháp và lập pháp là Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật để điều chỉnh hành vi của cá nhân tổ chức trong giới hạn tự do mà pháp luật xác lập. Tuy vậy, vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, hiện tượng xâm hại trật tư pháp luật và pháp luật luôn xuất hiện trong đời sống xã hội. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin khẳng định: “sẽ là không tưởng khi cho rằng pháp luật đương nhiên được tất cả mọi người tuân thủ”. Bảo vệ pháp luật, khôi phục trật tự 7
- pháp luật bị xâm hại là một đòi hỏi khách quan của Nhà nước, của xã hội và mọi người dân. Chính nhu cầu này đã hình thành nên hoạt động bảo vệ pháp luật là nội dung cơ bản của quyền tư pháp. Hoạt động xét xử của Toà án là lĩnh vực thể hiện tập trung nhất của quyền tư pháp. Nội dung của hoạt động xét xử của Toà án là so sánh các hành vi, tranh chấp pháp lý liên quan đến con người với các chuẩn mực pháp luật, phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của hành vi, tranh chấp. Trên cơ sở đó, Toà án nhân danh Nhà nước ra phán quyết bắt buộc mọi người phải thi hành, khôi phục lại các giá trị pháp luật bị vi phạm, bảo vệ và duy trì các giá trị văn minh của pháp luật. Thực tế đã chứng minh rằng, trong thực thể quyền lực Nhà nước thống nhất, quyền tư pháp có vị trí đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ quyền tư pháp vừa là bộ phận cùng với lập pháp và hành pháp hợp thành quyền lực Nhà nước vừa là thể chế bảo vệ quyền lực Nhà nước. Vị trí và vai trò đặc biệt của quyền tư pháp được được J.J. Russeau diễn đạt như sau: “luật đã mất thiêng thì mọi cái đều hết hy vọng. Luật không còn hiệu lực thì không một cái gì hợp lý có thể duy trì sức mạnh được nữa” Như vậy, có thể thấy rằng quyền tư pháp có nội dung là bảo vệ pháp luật. Hoạt động này được thực hiện tập trung nhất tại toà theo phương thức tài phán. Với nội hàm trên, quyền tư pháp có những đặc điểm cơ bản sau: - Quyền tư pháp là hoạt động áp dụng pháp luật của toà án theo phương thức tài phán. - Quyền tư pháp là một bộ phận của hệ thống kiểm tra, kiểm soát xã hội và chỉ được thực hiện khi có vi phạm pháp luật, tranh chấp pháp lý cần đến phán quyết của Nhà nước - Quyền tư pháp được thực hiện bằng nhiều hoạt động độc lập với các chức năng riêng, diễn ra liên tục theo một quy trình chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục nghiêm ngặt dựa trên phương thức đặc thù là tài phán, phục vụ hoạt động trung tâm là xét xử của toà án. [34, tr.26] 8
- Để những đặc trưng của quyền tư pháp được bảo đảm trong quá trình thực hiện quyền tư pháp, Nhà nước đã trao nhiệm vụ thực hiện quyền tư pháp cho nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội khác nhau cùng thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ, dân chủ và công khai, trong đó Toà án thực hiện hoạt động xét xử, cơ quan công tố (Viện kiểm sát nhân dân) thực hiện quyền truy tố, cơ quan điều tra thực hiện hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh một hành vi vi phạm pháp luật hình sự, cơ quan thi hành án thực hiện nhiệm vụ thi hành các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án; các cơ quan giám định tư pháp, công chứng, luật sư thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp nhằm mục đích phục vụ hoạt động xét xử khách quan, chính xác, đúng pháp luật, công bằng. Do đó, hệ thống cơ quan tư pháp bao gồm các cơ quan, thiết chế thực hiện chức năng chủ yếu là duy trì và bảo vệ công lý bằng các biện pháp và thủ tục đặc thù dựa trên nguyên tắc tài phán công bằng, công khai, cụ thể gồm cơ quan tài phán (Toà án) và các cơ quan khác có chức năng chủ yếu là phục vụ trực tiếp cho hoạt động tài phán. Như vậy, quyền tư pháp mà trọng tâm là quyền xét xử thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Bằng hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong đời sống xã hội, hệ thống các cơ quan tư pháp mà trung tâm là toà án ngày càng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong Nhà nước pháp quyền. Vị trí, vai trò của Tòa án được thể hiện ở chỗ: Toà án không chỉ là công cụ bảo vệ pháp luật mà còn là thiết chế bảo vệ, bảo đảm cho quyền con người được tôn trọng và thực hiện trong thực tiễn cuộc sống. A.Vị trí của Toà án trong bộ máy Nhà nƣớc Việt Nam. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước thì Toà án có vị trí đặc biệt so với các cơ quan Nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp khác nói riêng, thể hiện ở những khía cạnh sau: 9
- Một là, toà án xét xử nhân danh Nhà nước, căn cứ vào pháp luật của Nhà nước để đưa ra các phán quyết thể hiện trực tiếp thái độ của Nhà nước đối với từng vụ việc cụ thể. Thái độ đó được thể hiện bằng những quyết định giải quyết hợp pháp, hợp lý và áp dụng những chế tài thích hợp mà toà án áp dụng cho từng trường hợp cụ thể phù hợp với hành vi có lỗi và trái pháp luật trong mỗi bản án, quyết định của toà án. Như vậy, hoạt động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc nhất bản chất của Nhà nước. Hai là, bằng hoạt động xét xử, Toà án thực hiện chức năng kiểm tra hành vi pháp lý của các cơ quan Nhà nước, quyền công dân, quyền con người. Xa hơn là Toà án bảo vệ cho trật tự xã hội ổn định, an toàn và có môi trường phát triển lành mạnh, bền vững. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi mà vai trò pháp luật, sự tôn trọng, tuân thủ pháp luật ngày càng được nâng cao thì vai trò của Toà án lại càng được khẳng định. Bởi lẽ Toà án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp đặc biệt là hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của bộ máy nhà nước. Toà án thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước là một trong những nguyên lý cơ bản của nhà nước pháp quyền, là điều kiện tiên quyết đảm bảomục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta được thực thi trong thực tiễn đời sống xã hội. Ở nước ta, việc xác định Toà án có vị trí trung tâm trong việc tổ chức và thực hiện quyền tư pháp với chức năng tổ chức và tiến hành hoạt động xét xử là một trong những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cải cách tư pháp đã được khẳng định trong Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính Trị về chiến lược cải cách tư pháp nước ta đến năm 2020. Tuy nhiên, việc luật hoá quan niệm này vào pháp luật vẫn chưa được thực hiện triệt để. Trong pháp luật Việt Nam, vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước có những đặc điểm sau: 10
- Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002) và các văn bản pháp luật hịên hành có liên quan đến tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước thì địa vị pháp lý của toà án Việt Nam chịu sự tác động của nhóm quan hệ cơ bản sau: - Thứ nhất, quan hệ giữa Toà án với các cành quyền lực khác. Mối quan hệ giữa Tòa án với Quốc hội Trên cơ sở nguyên tắc hiến định “quyền lực Nhà nước thống nhất và thuộc về nhân dân” và nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất” [1, tr.3] thì Toà án ở nước ta có sự phụ thuộc khá nhiều vào Quốc hội. Tiến sĩ Tô Ngọc Hoà khẳng định: bản chất của mối quan hệ này là cấp trên và cấp dưới - trong đó Quốc hội là cấp trên và Tòa án là cấp dưới [27, tr. 419]. Điều này thể hiện rõ ở những điểm sau: Quốc hội có quyền ban hành tất cả các loại văn bản pháp luật liên quan đến tổ chức hoạt động của Toà án; các quy tắc tố tụng của Toà án. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật của toà án trái với Hiến Pháp, luật pháp hay Nghị quyết của mình. Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức chánh án TANDTC. Quốc hội có quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với vị trí này. Chánh án TANDTC phải báo cáo hàng năm trước Quốc hội; phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội nếu có yêu cầu của đại biểu Quốc hội. Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động hằng năm của Toà án. Mối quan hệ giữa Tòa án với Chủ tịch nước Hiến pháp xác định rõ Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia của Việt Nam. Trong mối quan hệ với Toà án, Chủ tịch nước có quyền giám sát, kiểm tra chất lượng hoạt động của Toà án thông qua báo cáo của chánh án TANDTC. Ngoài ra chủ tịch nước còn tham gia vào quá trình ra phán quyết của toà án thông qua cơ chế xét ân xá trong các vụ việc hình sự có tuyên án tử hình. 11
- Mối quan hệ giữa Tòa án với Chính phủ Theo quy định của pháp luật hiện hành, mối quan hệ giữa toà án và Chính phủ được xem là mối quan hệ phối hợp có tính điển hình đồng thời cũng là mối quan hệ mang tính rường cột trong hệ thống quyền lực nhà nước. Hai thiết chế này khá riêng biệt với nhau. Tuy vậy, do thực trạng toà án phải áp dụng các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ trong quá trình xét xử dẫn đến toà án có sự phụ thuộc nhất định vào Chính phủ. Mối quan hệ giữa Tòa án với cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực Nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện), toà án được tổ chức theo đơn vị hành chính và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Chánh án toà án nhân dân các cấp địa phương phải chịu trách nhiệm, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. - Thứ hai, quan hệ giữa toà án với các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan tư pháp. Như đã khẳng định ở trên, trong hệ thống các cơ quan tư pháp, toà án có vị trí trung tâm. Thông qua hoạt động xét xử toà án sẽ đánh giá tính đúng đắn các hành vi pháp lý của cơ quan điều tra, phán xử hành vi truy tố của Viện kiểm sát có đúng quy định pháp luật hay không và đưa ra phán quyết để cơ quan thi hành án thực hiện hoạt động thi hành án. Trong mối quan hệ bên trong này, xét xử là hoạt động trung tâm, là hoạt động thể hiện tập trung nhất bản chất của quyền tư pháp. Mặc khác, pháp luật trao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân thủ pháp luật của toà án trong quá trình diễn ra phiên toà. Chính quy định này đã có ảnh hưởng đến tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống cơ quan tư pháp. 12
- Như vậy, trong pháp luật nước ta, toà án có vị trí độc lập tương đối trong bộ máy Nhà nước. Qua phân tích cho thấy rằng: sự phụ thuộc của toà án vào hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) là tương đối lớn.Tính chất trung tâm của toà án trong hệ thống các cơ quan tư pháp chưa được bảo đảm do sự tác động từ phía Viện kiểm sát nhân dân thông qua quyền giám sát hoạt động xét xử tại phiên toà. Chính những đặc điểm này về vị trí của toà án trong bộ máy Nhà nước đã ảnh hưởng đến hoạt động của toà án, đặc biệt là yêu cầu có tính nguyên tắc hiến định của hoạt động tài phán- toà án phải độc lập chỉ tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử. 2. Vai trò của Tòa án trong Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam. a. Nhân danh Nhà nƣớc xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội Kiểm tra, kiểm soát xã hội là một trong những vai trò, chức năng cơ bản của Nhà nước. Nhà nước thực hiện hoạt động này bằng chuẩn mực pháp luật thông qua các cơ quan thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc phân công trong việc thực hiện quyền lực nhà nước đã trao cho cơ quan lập pháp thực hiện giám sát tối cao đối với việc thực thi pháp luật, cơ quan hành pháp tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội một cách thường xuyên. Khi có những hành vi, tranh chấp có nguy cơ đe doạ làm sai lệch tính hợp lý, công bằng của pháp luật, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, xâm hại đến trật tự, an toàn xã hội thì được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của toà án. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát xã hội của toà án có những đặc trưng cơ bản sau: - Chỉ diễn ra khi có hành vi vi phạm pháp luật hoặc mâu thuẫn, tranh chấp màcá nhân, tổ chức cũng như Nhà nước không thể giải quyết được bằng những cơ chế kiểm tra, giám sát khác. 13
- - Phải được thực hiện thông qua hoạt động tranh luận công khai, dân chủ và bình đẳng giữa các bên tại toà án. - Có quyền nhân danh Nhà nước, nhân danh công lý trong các phán quyết xử lý. So với nhánh quyền lập pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) và các hình thức kiểm tra xã hội khác, hoạt động xét xử của toà án được thực hiện theo quy trình tố tụng tư pháp chặt chẽ do luật định. Đây là một hình thức kiểm soát xã hội công khai, dân chủ, chính xác, khách quan và bảo đảm công bằng, bình đẳng xã hội. Chính vì bảo đảm được những giá trị dân chủ, công bằng và bình đẳng xã hội trong hoạt động xét xử, toà án trở thành cơ quan có vị trí tối cao và duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước khi xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp do người dân yêu cầu Nhà nước thực hiện. Ngoài ra, thông qua hoạt động xét xử, bằng các quyết định, bản án nghiêm minh, công bằng, toà án còn xác lập các chuẩn mực mới trong quan hệ xã hội, bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân trong hoạt động tư pháp, tạo dựng niềm tin vào công lý, vào bộ máy Nhà nước, chế độ và quyền lực nhà nước. Vì vậy, để bảo đảm những giá trị của pháp luật được thực thi trong thực tiễn, bảo vệ pháp luật không bị xâm hại, pháp luật đã trao cho toà án vị trí tối cao có quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội khi người dân, Nhà nước có nhu cầu. Qua đó thể hiện thái độ của nhà nước đối với những hành vi vi phạm pháp luật cụ thể. Còn trong nhận thức của người dân, toà án không chỉ là một cơ quan Nhà nước thông thường mà còn là biểu tượng của công lý, của lẽ phải. Khi phải đối mặt với quan toà nơi công đường, người dân chờ đợi sự công minh, 14
- sáng suốt: "Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân công lý" [34, tr.22]. Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, bản thân pháp luật đã mang tính công lý và toà án bằng hoạt động xét xử của mình thể hiện công lý, sự công minh, công bằng, không thiên lệch trong từng vụ án, từng phán quyết của toà án đối với từng hành vi, sự kiện pháp lý. Trong tinh thần đó có thể nói phán xét, phán quyết của toà án trực tiếp tác động đến niềm tin, lý tưởng, khát vọng công lý, công bằng xã hội, đến thái độ, cách nhìn của người dân đối với Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả chế độ chính trị đang tồn tại. Chính vì vậy, trong Nhà nước pháp quyền, chức năng quan trọng này của toà án ngày càng được khẳng định. Toà án là cơ quan có quyền nhân danh quyền lực Nhà nước để thể hiện thái độ của Nhà nước đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật kể cả hành vi vi phạm pháp luật của chính Nhà nước. Quyền này đã đựơc Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định tại Điều 127 " Toà án là cơ quan xét xử cao nhất của Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [1, tr.... ]. Xét xử là một chức năng đặc biệt quan trọng của Nhà nước, một hoạt động quyền lực Nhà nước đặc thù. GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng “hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xét xử, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật. Khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó”[62, tr.13]. Như vậy, từ bản chất dân chủ của hoạt động xét xử, vai trò đặc biệt của hoạt động xét xử, sự nhìn nhận của người dân đối với toà án, toà án đã trở thành cơ quan Nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước xét xử hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết những tranh chấp, mâu thuẫn trong đời sống xã hội. Thông qua đó thể hiện thái độ và trách nhiệm của Nhà nước đối với các hành vi vi phạm trong 15
- vụ án, quyết định cụ thể, đồng thời bảo vệ pháp luật, công bằng, bình đẳng xã hội, các quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người. b. Bảo vệ pháp luật Bảo vệ pháp luật là chức năng cơ bản của bộ máy Nhà nước. Toà án là thiết chế trung tâm của quyền tư pháp có vị trí và vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ pháp luật. Theo J.J. Rousseau, trong một nước, ý chí của toàn dân thể hiện qua hoạt động lập pháp do cơ quan đại diện nhân dân thực hiện, sức mạnh quốc gia thể hiện ở hoạt động hành pháp do Chính phủ thực hiện và tư pháp chính là cơ quan bảo vệ pháp luật do cơ quan quyền lực tối cao ban hành và do Chính phủ chấp hành [48, tr.43] Trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật chính là bảo vệ những giá trị công bằng, bình đẳng và dân chủ của xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là hệ thống những giá trị cao đẹp của xã hội dân chủ. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền luôn mang trong mình những nguyện vọng, quyền và lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nó là hệ thống những chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người phù hợp với trình độ văn minh của xã hội, để nhân dân tự điều chỉnh hành vi của mình trong đời sống sinh họat, trong giao lưu dân sự cũng như trong mối quan hệ với cơ quan công quyền, đồng thời thể hiện lợi ích và ý chí chung của toàn thể nhân dân lao động, của toàn thể xã hội và cùng với các quy phạm xã hội khác là một trong những phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội và điều hoà, phối hợp các lợi ích xã hội khác nhau. Ngoài ra, Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN, có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với sự phát triển, mở rộng, củng cố và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính tích cực về chính trị, tính sáng tạo và quyền làm chủ của nhân dân. Ngược lại, việc triển khai và mở rộng dân chủ trong mọi mặt đời sống xã hội lại củng cố cơ sở pháp luật và trật tự pháp luật, làm phong phú 16
- thêm các quyền tự do của công dân và bảo đảm thực hiện những quyền đó. Do vậy, dân chủ và pháp luật xã hội chủ nghĩa không thể tồn tại tách rời nhau. Dân chủ về chính trị và pháp luật chân chính thể hiện bản chất sâu xa của chế độ xã hội chủ nghĩa- tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Những hành vi xâm hại các chuẩn mực pháp luật trong xã hội pháp quyền bị coi là những hành vi xâm hại công lý, công bằng, bình đẳng xã hội, dân chủ XHCN. Vì thế, trong nhà nước pháp quyền, bảo vệ pháp luật không còn đơn thuần là phục vụ nhu cầu quản lý xã hội của nhà nước mà trở thành họat động quan trọng nhất, cao nhất và có tính cuối cùng để nhà nước và nhân dân bảo vệ các giá trị cao đẹp của nhà nước pháp quyền, bảo vệ công bằng, bình đẳng xã hội, quyền tự do dân chủ của công dân, quyền con người và dân chủ XHCN. Vai trò bảo vệ pháp luật của toà án được biểu hiện ở các khía cạnh sau: Toà án áp dụng pháp luật: Hoạt động áp dụng pháp luật của toà án là hình thức áp dụng pháp luật để bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm. Thông qua hoạt động xét xử, toà án đưa các hành vi tranh chấp pháp lý liên quan đến những con người cụ thể áp vào các chuẩn mực pháp luật, đối chiếu làm sáng tỏ mối tương quan giữa cái cá biệt là hành vi vi phạm, tranh chấp với cái khuôn chung là quy phạm pháp luật để đánh giá, phán xét bản chất pháp lý, tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi, tranh chấp, từ đó đi đến một phán quyết có tính bắt buộc thi hành đối với những người có quyền và lợi ích liên quan [34, tr.21]. Bằng việc ra các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước và bắt buộc thi hành, các giá trị pháp luật bị xâm hại, lệch lạc sẽ được khôi phục lại, công lý được duy trì, sự công bằng, lẽ phải của pháp luật được bảo vệ. Từ tính chất đặc biệt của việc áp dụng pháp luật theo phương thức tài phán công, toà án trở thành thiết chế đóng vai trò đặc biệt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn