Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
lượt xem 15
download
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (từ năm 2008 tới 2013), mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn, và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng hiệu quả hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KHẮC QUANG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS Đỗ Ngọc Quang HÀ NỘI – 2014
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................................3 1. Tính cấp thiết của đề tài......................................................................................................3 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài..........................................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn....................................................................................6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................................7 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu..........................................................................7 6. Các đóng góp mới của luận văn..........................................................................................7 7. Ý nghĩa của luận văn...........................................................................................................8 8. Kết cấu của luận văn...........................................................................................................8 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ........................................9 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ....................9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự . .................9 1.1.2. Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự ....................................................................12 1.1.3. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự ...........................................16 1.1.4. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự ..........................................................................19 1.2. NHẬN THỨC CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ.................................................................................................................20 1.2.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác phòng, chống tội phạm nói chung .........20 1.2.2. Trách nhiệm của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự ..................................23 1.2.3. Trách nhiệm của Viện Kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật về khởi tố vụ án hình sự......................................................................................................................27 1.2.4. Khái quát lịch sử các quy định pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự........................................................................ 30 Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ..................................................37 1
- 2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ................................37 2.1.1. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.....................................................37 2.1.2. Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam........................................ 41 2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ..............................................................................................................................53 2.2.1. Những kết quả đạt đƣợc.......................................................................................... 53 2.2.2. Những tồn tại, hạn chế về hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự ................................................................................. .........................................................59 2.3. NGUYÊN NHÂN NHỮNG HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ........................................................................63 2.3.1. Những bất cập trong các quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự.........................................................................................................63 2.3.2. Những vƣớng mắc trong tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự .................................................................................67 2.3.3. Những khó khăn về công tác cán bộ và đảm bảo cơ sở vật chất của ngành Kiểm sát ...........................................................................................................................................68 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONGKHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ............................................................70 3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ.............................................................71 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ.....................................................................................75 3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ......................................................................75 3.2.2. Giải pháp để thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ ...............................................80 3.2.3. Giải pháp về tăng cƣờng công tác tổ chức, quản lý và chỉ đạo điều hành ..............81 3.2.4. Giải pháp về công tác cán bộ của ngành Kiểm sát..................................................82 3.2.5. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất cho ngành kiểm sát ...........................................83 KẾT LUẬN..............................................................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................89 2
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Đảng và Nhà nƣớc ta. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN thì việc cải cách tổ chức và nâng cao chất lƣợng hoạt động của các cơ quan tƣ pháp, trong đó có VKS là một đòi hỏi mang tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Là cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, những quyết định áp dụng pháp luật khách quan, nghiêm minh, thống nhất của Viện kiểm sát (VKS) đã đóng góp tích cực và công cuộc đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu:Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng làm nhiệm vụ... 1 Trong những năm qua, thực hiện chỉ đạo của VKS nhân dân tối cao, các VKS địa phƣơng trong cả nƣớc đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của ngành, nâng cao tỉ lệ phát hiện tội phạm, hạn chế bỏ lọt tội phạm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt đƣợc vẫn còn có những hạn chế nhƣ: Tình trạng hồ sơ vụ án phải trả để điểu tra bổ sung nhiều, năm 2011 VKS đã trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra 1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 3
- (CQĐT) để điều tra bổ sung 1.257 vụ, Tòa án trả cho VKS là 1.398 vụ, năm 2012 VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung 1.216 vụ, Tòa án trả cho VKS 1.570 vụ. Vẫn còn nhiều ngƣời bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai. Theo số liệu thống kê của VKS nhân dân tối cao trong trong năm 2011 CQĐT và VKS đã phải đình chỉ miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 25 BLHS 1.055 bị can, đình chỉ 94 bị can do không phạm tội; năm 2012 CQĐT và VKS đã phải đình chỉ 561 vụ và 1.286 bị can. Trong số các bị cáo Tòa án đã xét xử năm 2011 có 13 bị cáo và năm 2012 có 16 bị cáo Toà án tuyên không phạm tội2. Những hạn chế đó đã gây ra những hậu quả về danh dự, nhân phẩm cũng nhƣ vật chất đối với những ngƣời bị bắt, khởi tố, điều tra oan, sai, làm ảnh hƣởng không nhỏ đến uy tín của ngành Kiểm sát nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung trƣớc quần chúng nhân dân và dƣ luận xã hội. Trong tố tụng hình sự, khởi tố là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Giai đoạn này có nhiệm vụ xác định có sự việc xảy ra hay không, nếu xảy ra thì có hay không dấu hiệu của tội phạm để khởi tố hoặc không khởi tố vụ án, nhằm xử lý kịp thời nghiêm minh các hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan sai ngƣời vô tội, góp phần bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ.Kết thúc giai đoạn này, khi đã khởi tố vụ án CQĐT đƣợc tiến hành các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cƣỡng chế tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngƣời phạm tội. Vì vậy, nếu các hoạt động tố tụng không thực hiện đúng trình tự thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định ở giai đoạn này, rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, làm oan sai ngƣời vô tội. Trong các cơ quan tiến hành tố tụng, VKS là cơ quan tham gia vào tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự. Trong giai đoạn khởi tố, VKS thực hành quyền 2 Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Báo cáo tổng kết công tác năm 2011, Hà Nội. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2012), Báo cáo tổng kết công tác năm 2012, Hà Nội. 4
- công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm mọi tội phạm đƣợc phát hiện đều phải đƣợc khởi tố, việc khởi tố có căn cứ và hợp pháp đảm bảo sự nhanh chóng và chính xác.Với những lý do nêu trên cho thấy, giai đoạn khởi tố vụ án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, mang tính tiên quyết và trong giai đoạn này VKS có vị trí, vai trò rất quan trọng. Vì vậy tác giả quyết định chọn vấn đề: “Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự” làm đề tài cho luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong những năm qua, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, qua nghiên cứu tìm hiểu cho thấy, các công trình khoa học tập trung nghiên cứu theo những khía cạnh sau: Nghiên cứu chung về việc đổi mới tổ chức, hoạt động của VKS nhân dân. Điển hình nhƣ: tác giả Khuất Văn Nga với bài viết: Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp và tổ chức hoạt động của VKS nhân dân trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Kiểm sát, số 7/2005, 2005; Tác giả Đỗ Văn Đƣơng với bài viết: Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, Tạp chí Kiểm sát số 4/2006; Tác giả Nguyễn Minh Đức với bài viết: “Về chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 9/2006; Tác giả Lê Hữu Thể với bài viết: “Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ của VKS trong tiến trình cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2008... Nghiên cứu về quyền công tố và thực hành quyền công tố trên một số lĩnh vực cụ thể, nhƣ các tác phẩm nhóm tác giả do TS. Lê Hữu Thể (Chủ biên): Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra (Sách tham khảo), Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2005; Tác giả Lê Thị Tuyết Hoa với Luận án tiến sỹ: Quyền công tố ở Việt Nam, Khoa Luật - Đại học Quốc 5
- gia Hà Nội năm 2002; Tác giả Phạm Mạnh Hùng với bài viết: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quan hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, số 2/2007.... Những công trình khoa học, những bài viết trên đây đã tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của VKSND nói chung, có một số công trình, bài viết nghiên cứu về chức năng hoạt động của VKS trên một số lĩnh vực cụ thể. Về vấn đề “Vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự”, cũng đã có một số công trình đề cập đến vấn đề này nhƣng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện hoặc chƣa nghiên cứu dƣới góc độ coi khởi tố vụ án là một giai đoạn tố tụng độc lập mà vẫn gắn liền với giai đoạn điều tra, đồng thời cũng chƣa có nghiên cứu nào tìm hiểu một cách sâu sắc về vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây là những tài liệu tham khảo rất có giá trị để nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn pháp luật, thực trạng hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự (từ năm 2008 tới 2013), mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ vị trí, vai trò, nhiệm vụ quyền hạn, và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng hiệu quả hoạt động của VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tƣ pháp ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự; - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự những năm gần đây, rút ra đƣợc những ƣu điểm, hạn chế và nguyên 6
- nhân của những hạn chế đó để từ đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động nhằm đánh giá về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là về vấn đề vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 đến nay. Đồng thời luận văn cũng nghiên cứu về thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự trong 6 năm (từ năm 2008 đến năm 2013). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật VKS biện chứng và duy vật lịch sử Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc và pháp luật nói chung và tổ chức, hoạt động của VKS nhân dân nói riêng, đặc biệt là quan điểm của Đảng trong giai đoạn hiện nay về cải cách tƣ pháp. Trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu truyền thồng của khoa học xã hội nhƣ: Lý luận – thực tiễn, Phân tích – tổng hợp, Lịch sử - cụ thể; kết hợp với các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: So sánh luật học, thống kê... 6. Các đóng góp mới của luận văn Luận văn là tài liệu chuyên khảo nghiên cứu tƣơng đối có hệ thống và toàn diện về vài trò VKS trong khởi tố vụ án hình sự, cụ thể là: - Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự, góp phần xây dựng một cách nhìn toàn diện về vị trí và 7
- chức năng của VKS trong giai đoạn khởi tố. Qua đó thấy đƣợc vai trò quan trọng của VKS trong công tác phòng, chống tội phạm. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở đó chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự. Luận văn góp phần làm phong phú thêm tri thức về pháp luật tố tụng hình sự, đấu tranh chống tội phạm và phòng ngữa tội phạm trên thực tiễn, nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng nhƣ làm tài liệu cho các cán bộ Kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình, bên cạnh đó luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề liên quan đến vai trò của VKS trong khởi tố vụ án hình sự trong các trƣờng đại học, cao đẳng, các trƣờng bồi dƣỡng nghiệp vụ tƣ pháp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự và vai trò của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự Chương 2: Quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự Chương 3:Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong khởi tố vụ án hình sự 8
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhiệm vụ của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự Do tính chất phức tạp của tội phạm, việc giải quyết vụ án hình sự không giống với trình tự giải quyết các vụ án dân sự, vụ án hành chính, kinh tế, lao động. Quá trình tố tụng hình sự đƣợc chia thành các giai đoạn khác nhau, gắn liền với những hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhất định. Ở nƣớc ta, quá trình giải quyết các vụ án hình sự đƣợc bắt đầu kể từ khi nhận đƣợc các thông tin về tội phạm cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đƣợc đƣa vào thi hành. Mỗi giai đoạn tố tụng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể của quá trình tố tụng. Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự, song hầu hết các quan điểm đều thừa nhận “khởi tố vụ án là một giai đoạn tố tụng” có vị trí đặc biệt và có vai trò riêng trong quá trình tố tụng hình sự. Nó đƣợc coi là một giai đoạn khởi động quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự. Theo Từ điển luật học thì khởi tố vụ án hình sự là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng xác định có sự việc phạm tội để tiến hành điều tra phát hiện tội phạm. Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng độc lập, mở đầu các hoạt động điều tra. Trong giai đoạn này, cơ quan có thẩm quyền khởi tố tiến hành các hoạt động để xác định dấu hiệu của tội phạm.3 Theo tác giả Lê Cảm thì giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự đầu tiên mà trong đó cơ quan tƣ pháp hình sự có thẩm quyền căn 3 Bộ Tƣ pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr 429 9
- cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, tiến hành việc xác định có (hau không) các dấu hiệu của tội phạm trong hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đƣợc thực hiện, đồng thời ban hành quyết định về việc khởi tố vụ án (hoặc không khởi tố) vụ án hình sự liên quan đến hành vi đó.4 Do vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của trình tự giải quyết vụ án, có nhiệm vụ xác định một sự việc xảy ra trong thực tế có hay không có dấu hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đƣợc tiến hành trƣớc các giai đoạn tố tụng tiếp theo nhƣ: điều tra, truy tố, xét xử... . Do đó giai đoạn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, xác lập cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, ngƣời phạm tội, lập hồ sơ vụ án, đề nghị truy tố ngƣời phạm tội ra trƣớc Tòa án để xét xử. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền có nhiệm vụ sử dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để xác định có hay không có đấu hiệu tội phạm, trên cơ sở đó các cơ quan này sẽ ra một trong hai quyết định đó là: quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. 5 Tƣơng tự nhƣ thế, trong giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội có viết: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu của tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.6 Các quan điểm nêu trên tuy đƣợc diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhƣng đều thể hiện sự thống nhất đó là coi khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu của tố tụng hình sự, là giai đoạn khởi động quá trình tố tụng hình sự, có vai trò làm căn cứ pháp lý cho các giai đoạn tiếp theo. 4 Lê Cảm (2004), Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát, (2). tr 26 5 Nguyễn Ngọc Chí (Chủ biên) (2001) Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr 64 6 Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội., tr 231 10
- Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự đƣợc tiến hành trong một khoảng thời gian cụ thể, có nhiệm vụ riêng, có chủ thể và các hoạt động tố tụng độc lập với các giai đoạn tố tụng khác. Khởi tố vụ án hình sự đƣợc coi là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự. Do đó, theo chúng tôi, khái niệm khởi tố vụ án hình sự có thể đƣợc hiểu nhƣ sau: Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng hình sự, mở đầu cho quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó các cơ quan có thẩm quyền sử dụng các biện pháp mà pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự có các nhiệm vụ cơ bản nhƣ sau. Thứ nhất, phát hiện và tiếp nhận các thông tin về tội phạm kịp thời, chính xác.Phát hiện và tiếp nhận các thông tin về tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức khác đƣợc pháp luật về tố tụng hình sự quy đinh. Thông tin về tội phạm có thể đƣợc thu thập từ các nguồn khác nhau nhƣ tố giác của công dân; tin báo về tội phạm của các cơ quan, tổ chức; ngƣời phạm tội tự thú... và đƣợc coi là cơ sở để cơ quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh nhằm xác định dấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự quy định trong phạm vi trách nhiệm của mình các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan, tổ chức khác phải kịp thời phát hiện và tiếp nhận mọi nguồn tin về tội phạm với các hình thức phù hợp, bảo đảm chính xác Thứ hai, sử dụng mọi biện pháp luật định tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh nhằm nhanh chóng xác định các dấu hiệu của tội phạm. Sau khi tiếp nhận thông tin về tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để xác định xem có sự việc phạm tội xảy ra hay không, nếu có thì sự việc đó có hay không có dấu hiệu tội phạm? Hoạt động kiểm tra, xác minh thông tin về tội phạm đƣợc tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau trong một khoảng thời gian theo luật định, tùy thuộc vào tính chất đơn giản, hay 11
- phức tạp của vụ án để xác định dấu hiệu tội phạm một cách nhanh chóng và chính xác. Dấu hiệu tội phạm chính là căn cứ cần và đủ đƣợc pháp luật quy định để cơ quan có thẩm quyền có thể dựa vào đó để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đây là nhiệm vụ chính của giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Thứ ba, ra quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp. Cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự sau khi xác định đƣợc dấu hiệu tội phạm. Quyết định khởi tố vụ án là văn bản pháp lý làm cơ sở để CQĐT tiến hành các hoạt động điều tra. Trong trƣờng hợp, nếu xác định không có dấu hiệu tội phạm thì ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Việc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự là quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và một số cơ quan khác đƣợc pháp luật quy định. Quyết định khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự phải do ngƣời có thẩm quyền ra mới hợp pháp. Trong một số trƣờng hợp, khi xác định hành vi tuy có dấu hiệu phạm tội nhƣng tính chất nguy hiểm cho xác hội không đáng kể theo quy định tại khoản 4 Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) thì không khởi tố vụ án hình sự mà có thể áp dụng các biện pháp xử lý khác để đảm bảo tính hài hòa. 1.1.2. Cơ sở và căn cứ khởi tố vụ án hình sự Theo quy định tại điều 100 BLTTHS 2003 về căn cứ khởi tố vụ án thì “chỉ đƣợc khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định đƣợc dấu hiệu tội phạm”. Từ đó, có thể hiểu dấu hiệu tội phạm đã xác định chính là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Dấu hiệu tội phạm thƣờng đƣợc phản ánh qua tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội, có thể chƣa phải là tài liệu để chứng minh, xác định ngƣời phạm tội nào cụ thể. Các dấu hiệu của tội phạm thƣờng đƣợc thể hiện qua các tình tiết đã đƣợc xác định nhƣ: Có hành vi nguy hiểm cho xã hội thực tế xảy ra; hành vi đó bị pháp luật cấm và đƣợc BLHS quy định là tội phạm, hành vi đó đã gây ra hậu 12
- quả nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết khách quan chứng tỏ ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi... Trƣớc khi quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, CQĐT phải xác định đƣợc hành vi bị khởi tố không thuộc một trong những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 BLTTHS, đó là các căn cứ: Không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; ngƣời thực hiện hành vi chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã đƣợc đại xá; ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ trƣờng hợp cần tái thẩm đối với ngƣời khác. Sau khi đã xác định dấu hiệu tội phạm đƣợc quy định trong BLHS và hành vi thực hiện không thuộc một trong các trƣờng hợp không đƣợc khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án cần xem xét đến khả năng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện có thuộc trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị hại theo quy định tại Điều 105 BLTTHS hay không? Nếu hành vi đƣợc phát hiện thuộc một trong các trƣờng hợp khởi tố theo yêu cầu của ngƣời bị hại hoặc ngƣời đại diện hợp pháp của ngƣời bị hại là ngƣời chƣa thành niên, ngƣời có nhƣợc điểm về thể chất hoặc tâm thần thì phải có yêu cầu khởi tố của ngƣời bị hại bằng đơn hoặc có biên bản đƣợc thiết lập trong trƣờng hợp ngƣời bị hại không thể viết đơn vì các lý do khác nhau. Dấu hiệu tội phạm đƣợc xác định dựa trên kết quả, xác minh thông tin về tội phạm. Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhƣng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể theo khoản 4 Điều 8 BLHS thì không phải là tội phạm nên không khởi tố vụ án hình sự mà có thể áp dụng các biện pháp khác. Cơ sở để xác định căn cứ khởi tố vụ án là những nguồn tin và những sự việc đƣợc phát hiện mà dựa vào đó cơ quan có thẩm quyền khởi tố xác định dấu 13
- hiệu tội phạm. Điều 100 BLTTHS quy định các nguồn tin và sự việc đƣợc phát hiện làm cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm bao gồm: - Tố giác của công dân. Tố giác của công dân là việc công dân tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của một ngƣời nào đó mà họ cho rằng hành vi đó là tội phạm. Chủ thể của hành vi tố giác tội phạm là công dân. Tố giác của công dân là cơ sở khởi tố vụ án hình sự phổ biến nhất, bởi lẽ, công dân có quyền và nghĩa vụ tố giác những hành vi vi phạm pháp luật hình sự với cơ quan, tổ chức trong những trƣờng hợp do pháp luật quy định và công dân cũng thƣờng là đối tƣợng đầu tiên phát hiện ra hành vi có dấu hiệu tội phạm. - Tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức. Tin báo của các cơ quan, tổ chức là những thông tin về tội phạm do các cơ quan, tổ chức trực tiếp phát hiện hoặc nhận đƣợc tố giác của công dân và báo cáo bằng văn bản với CQĐT. Cũng giống nhƣ đối với tố giác của công dân, cơ quan, tổ chức là những đơn vị có quyền và nghĩa vụ báo tin cho CQĐT có thẩm quyền khi phát hiện ra các tin tức về tội phạm nhằm nhanh chóng phát hiện tội phạm. BLTTHS 2003 quy định chủ thể của tin báo về tội phạm có thể là bất kỳ cơ quan, tổ chức nào. Khái niệm này đƣợc hiểu rộng hơn so với quy định chủ thể của tin báo về tội phạm trong BLTTHS 1988 đó là “cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội”. Khác với tố giác của công dân, sau khi phát hiện tội phạm hoặc tiếp nhận tố giác của công dân, các cơ quan, tổ chức phải báo tin đến CQĐT dƣới hình thức văn bản. Tin báo về tội phạm của cơ quan, tổ chức là một trong những hình thức tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm phát hiện, tố giác tội phạm của các cơ quan, tổ chức trong việc góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. - Tin báo trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Ngày nay, phƣơng tiện thông tin đại chúng hết sức đa dạng và phổ biến, đóng vai trò to lớn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tin báo trên các phƣơng tiện thông tin 14
- đại chúng nhƣ các sự việc đƣợc phản ánh qua báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình... là một trong những cơ sở khởi tố vụ án hình sự đƣợc pháp luật quy định giúp cho các cơ quan có thẩm quyền xác định đƣợc dấu hiệu của tội phạm. Vì vậy, khi có tin báo về tội phạm trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng, các cơ quan có thẩm quyền trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành xem xét, xác minh tin báo đó, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý tội phạm. - Cơ quan có thẩm quyền khởi tố trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm. Cơ quan điều tra, VKS, Tòa án là những cơ quan có chức năng chính trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của mình, các cơ quan này có nhiều điều kiện để có thể trực tiếp phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan khác nhƣ Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lƣợng Cảnh sát biển và các cơ quan khác trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân mặc dù chức năng chính là quản lý nhà nƣớc trong những lĩnh vực nhất định nhƣng do đặc thù công tác nên đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, vì bằng các hoạt động theo chức năng của mình các cơ quan này cũng có điều kiện phát hiện sự việc phạm tội. Chính vì vậy, các cơ quan này khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội thì việc phát hiện đó đƣợc coi là cơ sở khởi tố vụ án hình sự. - Ngƣời phạm tội tự thú. Tự thú là việc ngƣời đã thực hiện hành vi phạm tội tự nguyện trình diện và khai nhận đầy đủ về hành vi phạm tội của mình, mặc dù tội phạm này chƣa bị phát hiện. Theo quy định tại Điều 102 BLTTHS 2003 thì: “Khi ngƣời phạm tội đến tự thú, cơ quan tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời khai của ngƣời tự thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận ngƣời phạm tội tự thú có trách nhiệm báo ngay cho CQĐT, VKS”. Các cơ quan này phải kiểm tra, xác minh nhân thân của ngƣời tự 15
- thú; giải thích cho ngƣời tự thú biết rằng tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm là những tình tiết có thể đƣợc sử dụng làm căn cứ miễn trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 25 BLHS hoặc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đƣợc quy định tại Điều 46 BLHS. Lời khai của ngƣời tự thú phải đƣợc kiểm tra, đánh giá để phòng ngừa họ cố ý đƣa ra lời khai giả mạo, ngụy tạo để che giấu tội phạm khác nghiêm trọng hơn hoặc vì mục đích che giấu đồng phạm hay mục đích khác. 1.1.3. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục khởi tố vụ án hình sự Các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ ángồm có CQĐT, các cơ quan khác đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS và Tòa án. CQĐT khởi tố vụ án là chủ yếu hầu hết các vụ án hình sự. Các cơ quan khác đƣợc giao tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ khởi tố đối với những hành vi trong lĩnh vực quản lý của mình. VKS chỉ ra quyết định khởi tố vụ án trong trƣờng hợp hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT và trong trƣờng hợp khi có yêu cầu của Hội đồng xét xử (Điều 104). Hội đồng xét xử chỉ khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa phát hiện đƣợc tội phạm hoặc ngƣời phạm tội mới cần đƣợc điều tra. Trình tự khởi tố vụ án hình sự. căn cứ khởi tố vụ án hình sự là dấu hiệu của tội phạm đƣợc xác định, khi đã xác định đƣợc dấu hiệu của tội phạm cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khi đã khởi tố vụ án hình sự CQĐT đƣợc tiến hành các biện pháp điều tra, kể cả các biện pháp cƣỡng chế tố tụng để nhanh chóng phát hiện tội phạm và ngƣời phạm tội. Nhƣng khi chƣa xác định đƣợc rõ dấu hiệu của tội phạm, mọi hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cƣỡng chế đối với ngƣời bị nghi là thực hiện tội phạm đều có thể dẫn đến oan sai, vi phạm quyền dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo vệ. Vì 16
- vậy trình tự thủ tục tiến hành các hoạt động trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự phải đƣợc tiến hành một cách thống nhất và tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Trình tự thủ tục khởi tố vụ án hình sự đƣợc tiến hành nhƣ sau: - Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.Một trong những nguồn thông tin về tội phạm đó là tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố của các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nƣớc và của mọi công dân. Thông tin về tội phạm là yếu tố không thể thiếu cho việc phát hiện, xử lý tội phạm, vì vậy nguồn thông tin về tội phạm đóng góp một phần rất quan trọng trong công tác đấu tranh chống tội phạm. Đấu tranh chống tội phạm là cuộc đấu tranh mang tính chất xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của toàn xã hội, công tác này đạt đƣợc kết quả cao hay không phụ thuộc vào ý thức, trách nhiệm tham gia cung cấp các thông tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Pháp luật tố tụng hình sự nƣớc ta quy định trách nhiệm phát hiện và tố giác tội phạm là của mọi cơ quan nhà nƣớc, mọi tổ chức và công dân (Điều 25 BLTTHS 2003). Nhiệm vụ giải quyết tin báo tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố đƣợc quy định cụ thể tại Điều 103 BLTTHS 2003: “CQĐT, VKS có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nƣớc chuyển đến. VKS có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu liên quan đã tiếp nhận cho CQĐT có thẩm quyền.” CQĐT và VKS là những cơ quan chính có nhiệm vụ tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do cá nhân, cơ quan, tổ chức chuyển đến. Viện kiểm sát khi tiếp nhận các tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố phải chuyển ngay hồ sơ kèm theo các tài liệu liên quan đến CQĐT có thẩm quyền để tiến hành xác minh. CQĐT là đầu mối quản lý toàn bộ các tố giác, tin báo về tội phạm (nguồn để khởi tố).Sau khi tiếp nhận tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố, CQĐT tiến hành kiểm tra, xác minh. 17
- - Kiểm tra, xác minh các tin tức về tội phạm.Thời hạn và nhiệm vụ xác minh thông tin về tội phạm đƣợc quy định tại Điều 103 BLTTHS 2003. Theo quy định của bộ luật thì chỉ có CQĐT mới đƣợc xác minh, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm. Trong thời hạn hai mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhƣng không quá hai tháng,CQĐT có nhiệm vụ khẩn trƣơng chủ động áp dụng các biện pháp do luật định để xác minh, kiểm tra nguồn tin, xem xét có hay không dấu hiệu của tội phạm để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Tất cả các thông tin về tội phạm đều phải đƣợc xem xét một cách kĩ càng để xác định căn cứ khởi tố, tùy từng sự việc mà áp dụng những biện pháp thích hợp để kiểm tra xác minh, nhƣng trong mọi trƣờng hợp phải chấp hành triệt để những quy định của pháp luật. - Quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án hình sự là kết quả của quá trình tiếp nhận, kiểm tra xác minh các tin tức về tội phạm, là những văn bản pháp lý do cơ quan có thẩm quyền ban hành để xác định có hay không sự việc phạm tội. Các quyết định này là cơ sở để bắt đầu một giai đoạn tố tụng mới hoặc kết thúc quá trình tố tụng. Quyết định khởi tố vụ án hình sự là cơ sở để CQĐT tiến hành những biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật. Quyết định khởi tố vụ án hình sự đƣợc quy định cụ thể tại Điều 104 BLTTHS năm 2003. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lý xác định nguồn thông tin về tội phạm hoặc sự việc nào đó không có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự đƣợc thực hiện khi có một trong những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 107 BLTTHS năm 2003. Những căn cứ không đƣợc khởi tố vụ án hình sự bao gồm: Không có sự việc phạm tội; Hành vi không cấu thành tội phạm; Ngƣời thực hiện 18
- hành vi nguy hiểm cho xã hội chƣa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; Ngƣời mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã đƣợc đại xá; Ngƣời thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trƣờng hợp cần tái thẩm đối với ngƣời khác. Nhƣ vậy, để tránh bỏ lọt tội phạm, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định rất cụ thể những căn cứ không khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền chỉ đƣợc ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ luật định. 1.1.4. Ý nghĩa của khởi tố vụ án hình sự Khởi tố vụ án hình sự đảm bảo cho việc phát hiện nhanh chóng mọi hành vi phạm tội. Nếu các hoạt động tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án không đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời đúng quy định của pháp luật sẽ không phát hiện đƣợc đầy đủ dấu vết của tội phạm dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc oan sai, hơn nữa việc thu thập thông tin ban đầu trong giai đoạn khởi tố không đầy đủ sẽ gây ra khó khăn cho các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu, là một giai đoạn tố tụng độc lập, chƣa khởi tố vụ án thì chƣa đƣợc tiến hành các hoạt động điều tra. Giai đoạn khởi tố nếu xác định không đúng tội danh, hành vi phạm tội, điều khoản BLHS quy định sẽ ảnh hƣởng rất nhiều đến quá trình tố tụng tiếp theo cũng nhƣ việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo. Khởi tố vụ án hình sự góp phần đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân đƣợc pháp luật bảo hộ. Nếu không thực hiện đầy đủ các hoạt động tiếp nhận, kiểm tra xác minh các nguồn thông tin về tội phạm một cách đầy đủ đúng quy định của pháp luật mà tiến hành ngay các hoạt động điều tra, áp dụng các biện pháp cƣỡng chế tố tụng sẽ dẫn đến tình trạng quyền tự do dân chủ của công dân bị xâm phạm. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 236 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn