intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm các vụ án hình sự

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:118

40
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn có nêu rõ một số khái niệm khoa học pháp lý về chức năng của Viện kiểm sát, vai trò của Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm các vụ án hình sự

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ HỒNG NHUNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ Chuyên ngành: Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí Tác giả Hà Nội – 2012 1
  2. MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM 1.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. 9 Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc 1.1.1. 9 thẩm. Các khía cạnh thể hiện vai trò của Viện kiểm sát trong thủ 1.1.2. 14 tục giám đốc thẩm. Vai trò của cơ quan công tố (Viện kiểm sát) trong thủ tục 1.2. 30 giám đốc thẩm một số nước trên thế giới Vai trò của Viện công tố trong thủ tục giám đốc thẩm hình 1.2.1. sự theo pháp luật liên bang Hoa Kỳ - quốc gia theo truyền 30 thống luật án lệ (common law) Vai trò của Viện Công tố trong thủ tục giám đốc thẩm (thủ 1.2.2. 31 tục phá án) theo pháp luật của Cộng hòa Pháp Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm theo 1.2.3. 33 pháp luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc 1.2.4 thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa 36 nhân dân Trung Hoa Một số bài học kinh nghiệm Việt Nam có thể vận dụng đê 1.2.5 hoàn thiện và nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong thủ 39 tục giám đốc thẩm Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm ở 1.3. 42 Việt Nam từ năm 1945 đến nay 1.3.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm 42 2
  3. trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về 1.3.2. 47 vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm Chƣơng 2: THỰC TIẾN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM Thực trạng áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát trong thủ 2.1. 54 tục giám đốc thẩm Vai trò của Viện kiểm sát trong việc phát hiện những bản 2.1.1. án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có dấu 54 hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng Vai trò của Viện kiểm sát trong công tác tổ chức, nghiên 2.1.2. cứu và giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc 69 thẩm Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại 2.1.3. 72 phiên tòa giám đốc thẩm Những vướng mắc trong việc thụ lý, giải quyết các trường 2.2. 74 hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm vụ án hình sự Tình trạng quá tải trong việc giải quyết án giám đốc thẩm 2.2.1. 74 hình sự ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao Quy định của pháp luật liên quan đến việc xử lý, giải quyết 2.2.2. các trường hợp đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm còn 75 những điểm bất cập 2.2.3. Một số khó khăn khác 76 Nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình thụ lý, giải 2.3. 76 quyết vụ án hình sư theo thủ tục giám đốc thẩm 2.3.1. Nguyên nhân chủ quan 76 2.3.2. Nguyên nhân khách quan 79 Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM 3.1. Cơ sở, nguyên tắc hoàn thiện các quy định về vai trò của 81 3
  4. Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm Cơ sở hoàn thiện các quy định về vai trò của Viện kiểm sát 3.1.1. 81 trong thủ tục giám đốc thẩm Nguyên tắc hoàn thiện các quy định về vai trò của Viện 3.1.2. 86 kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm 3.2. Một số kiến nghị cụ thể 89 Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ 3.2.1. 89 tục giám đốc thẩm Một số giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong 3.2.2. 100 thủ tục giám đốc thẩm KẾT LUẬN 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109 4
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự KSXXHS : Kiểm sát xét xử hình sự TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TAND : Tòa án nhân dân THQCT : Thực hành quyền công tố VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa 5
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Số ký hiệu Tên bảng Trang Kết quả thụ lý, giải quyết đơn đề nghị kháng nghị 2.1 giám đốc thẩm vụ án hình sự trong phạm vi cả nước 57 (từ 1/12/2006 đến 30/11/2011) Kết quả thụ lý giải quyết đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của các Viện kiểm sát địa phương 2.1 60 và 3 Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm (từ 1/12/2006 đến 30/11/2011) Kết quả thụ lý, giải quyết án theo thủ tục kháng nghị 2.3 giám đốc thẩm vụ án hình sự (từ 1/12/2006 đến 70 30/11/2011) Kết quả xét xử giám đốc thẩm vụ án hình sự (từ 2.4 71 1/12/2006 đến 30/11/2011) 6
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong thời gian qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân đất nước ta đã vượt qua những khó khăn, thử thách; nền kinh tế tiếp tục có những chuyển biến tích cực, quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự xã hội ổn định, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng nâng cao. Trong tình hình chung đó, dưới sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta đối với ngành Kiểm sát nhân dân vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống các cơ quan Nhà nước tiếp tục được khẳng định. Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp được nâng lên một bước; góp phần tích cực vào việc phát hiện, điều tra, xử lý đúng người, đúng tội, hạn chế tỷ lệ oan sai trong tố tụng hình sự, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; theo đúng tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp [13, tr133]”. Là một thiết chế trong nhánh quyền tư pháp, quyền công tố ở Việt Nam được giao cho Viện kiểm sát đảm trách. Có thể nói đây là quyền năng đặc thù của Viện Kiểm sát nhưng cũng gắn với đó là trách nhiệm nặng nề nhằm đảm bảo cho việc truy tố được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng oan sai và bỏ lọt tội phạm. Thực hành quyền công tố là một hoạt động mấu chốt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, nó được tiến hành từ khi người thực hiện hành vi phạm tội bị khởi tố cho đến khi thi hành phán quyết của Tòa án về hành vi phạm tội đó. Tuy nhiên, qua thực tiễn tố tụng cho thấy các phán quyết của Tòa án qua các bản án, quyết định không phải khi nào cũng đúng mà có không ít bản 7
  8. án, quyết định sai phạm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc sai lầm trong áp dụng luật hình sự xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đòi hỏi tất yếu cho thấy việc khắc phục những sai lầm, vi phạm đó là hết sức cần thiết, nhằm một mặt bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án hoặc người có liên quan đến vụ án, mặt khác để đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ một cách triệt để. Đó là những yêu cầu thiết yếu cần phải có thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình sự để xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Đây là một chế định quan trọng của luật tố tụng hình sự và là một thủ tục đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều 272 Bộ luật tố tụng hình sự quy định “Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án” [3, tr 199]. Thực tiễn khẳng định, kháng nghị giám đốc thẩm chính là một biện pháp, một công cụ hữu hiệu để kiểm tra lại tính hợp pháp của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, qua tổng kết hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế nhất là trong lĩnh vực giám đốc thẩm vụ án hình sự: tình trạng đơn yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm tăng nhanh vượt quá khả năng giải quyết của Tòa án và Viện kiểm sát, tiến độ giải quyết đơn chậm, kéo dài; tình trạng kháng nghị giám đốc thẩm nhiều nhưng không được Hội đồng xét xử chấp nhận; đặc biệt là tình trạng bản án kháng nghị chưa mang ý nghĩa là chuẩn mực trong việc áp dụng pháp luật để hướng dẫn, chỉ đạo rút kinh nghiệm đối với cấp dưới. Điều này do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của công tác kháng nghị giám đốc thẩm trong việc thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, cho đến trình độ năng lực, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, 8
  9. Kiểm sát viên làm công tác giám đốc thẩm còn hạn chế cũng như chưa có hệ thống các văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự... Một tình trạng nổi bật và phổ biến ở nước ta là trong một thời gian dài vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân hầu như chỉ được đề cập và quan tâm nhiều trong các lĩnh vực Kiểm sát điều tra, Kiểm sát xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà không chú ý đầy đủ công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hình sự. Thêm vào đó, công tác nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực mang tính thời sự ở giai đoạn đầu của quá trình tố tụng hình sự mà chưa đi sâu vào nghiên cứu lĩnh vực hoạt động trong giai đoạn giám đốc thẩm, mặc dù đây cũng là một giai đoạn hết sức cần thiết và quan trọng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự cụ thể. Với mong muốn đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề này trên phương diện lý luận và thực tiễn, để xây dựng những luận cứ khoa học, góp phần tìm ra giải pháp nâng cao trách nhiệm, thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân mà cụ thể là nâng cao hiệu quả công tác Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm; vì vậy, việc nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về “Vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm các vụ án hình sự”, là cần thiết trong thời điểm hiện nay. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Công tác giải quyết án hình sự trong giai đoạn xét xử nói chung và giai đoạn giám đốc thẩm nói riêng đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu của các học giả, các cuốn sách, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài viết trên các tạp chí …Có thể thống kê một số công trình sau: 9
  10. - TS. Dương Thanh Biểu (2010),“Kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm”, Nhà xuất bản tư pháp; - Đinh Văn Quế (1997),“Giám đốc thẩm, tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia; - Tôn Thiện Phương (2002), “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong xét xử vụ án hình sự”, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội; - Chuyên đề (2008), "Một số vấn đề rút ra từ các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị giám đốc thẩm hủy đề điều tra lại hoặc xét xử lại", Vụ 3, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Chuyên đề (2006), “Nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, công tác kiểm tra giám đốc thẩm hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay”, Vụ 3, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; - Đỗ Văn Đương (2006), “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, Hà Nội; Tuy vậy, các nghiên cứu, bài viết và chuyên đề nêu trên đều đề cập một cách toàn diện, hệ thống thủ tục giám đốc thẩm hoặc vai trò của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng. Còn luận văn tập trung đến vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn góp phần giải quyết một số vấn đề pháp lý, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát ở giai đoạn giám đốc thẩm, tăng cường vị trí, vai trò cũng như trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hệ thống cơ quan Nhà nước, bảo đảm pháp chế trong xét xử hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu 10
  11. Về mặt lý luận: Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến chế định Giám đốc thẩm; vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục Giám đốc thẩm theo Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong tiến trình cải cách tư pháp trên tinh thần của Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị nhằm xây dựng hệ thống tố tụng hoàn chỉnh, tiến bộ và vì con người. Về mặt thực tiễn: Thứ nhất, trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng tình hình giải quyết các vụ án hình sự theo thủ tục giám đốc thẩm ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao qua đó đánh giá vị trí, trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân ở giai đoạn này, góp phần hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm như Nghị quyết 49 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đã nêu: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Thứ hai, nghiên cứu để tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tăng cường trách nhiệm tố tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn giám đốc thẩm. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: 11
  12. Một là, phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về vai trò, trách nhiệm, quyền hạn, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. Hai là, chỉ rõ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tố tụng hình sự hiện hành gây ra khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình ở giai đoạn giám đốc thẩm trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011. Ba là, đề xuất các quan điểm luận chứng, một số tiêu chí hoàn thiện các quy định về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: là những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò, của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc thẩm hình sự ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Do điều kiện có hạn, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm cũng như vai trò của Viện kiểm sát nhân dân (trừ Viện kiểm sát quân sự) theo thủ tục giám đốc thẩm đối với các bản án hình sự. Luận văn không nghiên cứu thủ tục này đối với các bản án dân sự, hành chính, kinh tế, lao động... 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận: Để phù hợp với nội dung nghiên cứu và giải quyết được các nhiệm vụ mà đề tài đặt ra; Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Đường lối quan điểm của Đảng thực hiện cải cách tư pháp về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công 12
  13. dân; về vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn trực tiếp sử dụng các phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phân tích, tổng hợp cụ thể. Ngoài ra, luận văn có sử dụng một số phương pháp chuyên ngành như tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, quy nạp và diễn dịch. Đặc biệt, phương pháp khảo sát thực tế, thăm dò ý kiến của những người làm công tác thực tiễn được sử dụng ở mức độ đáng kể trong quá trình nghiên cứu luận văn. 6. Đóng góp khoa học của luận văn Luận văn là một công trình nghiên cứu chuyên khảo, đề cập một cách trực tiếp và khá toàn diện về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự. Luận văn có nêu rõ một số khái niệm khoa học pháp lý về chức năng của Viện kiểm sát, vai trò của Kiểm sát viên trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm các vụ án hình sự. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giải đáp về mặt lý luận và thực tiễn những vấn đề liên quan đến vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn giám đốc thẩm. Luận văn có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các nhà hoạch định chính sách, xây dựng luật và những ai quan tâm đến vấn đề này. 13
  14. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Chương 2: Thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM 1.1. VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM 1.1.1. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm Cũng như thông lệ quốc tế, các hoạt động tố tụng hình sự trong pháp luật Việt Nam đều nhằm phát hiện và xử lý chính xác, kịp thời và công minh mọi hành vi phạm tội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân. Để đạt được 14
  15. mục đích đó, Bộ luật tố tụng hình sự quy định các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau, có lúc, có nơi việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng còn để lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xét xử quá nặng, quá nhẹ hoặc có những vi phạm pháp luật cần khắc phục, sửa chữa. Quá trình tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó giai đoạn trước là tiền đề cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn sau, giai đoạn sau lại là sự kiểm nghiệm kết quả của giai đoạn trước. Chính vì vậy, một mặt để đảm bảo nguyên tắc của luật tố tụng hình sự Việt Nam là thực hiện chế độ hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, đồng thời vẫn bảo đảm quyền con người được bảo vệ ở mức cao nhất với phương châm mọi oan sai trong vụ án đều được khắc phục bởi các thủ tục tố tụng công khai, dân chủ, Bộ luật tố tụng hình sự quy định một thủ tục tố tụng đặc biệt - thủ tục giám đốc thẩm "là xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án", bởi lẽ: Một là, giám đốc thẩm không phải là việc xét xử lại vụ án mà là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật khi phát hiện bản án, quyết định đó có vi phạm nghiêm trọng, bị kháng nghị; Hai là, không phải bất cứ trường hợp nào bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có vi phạm cũng được tiến hành xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, mà phải là các trường hợp bản án, quyết định đó của Toà án có vi phạm nghiêm trọng mới được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; Ba là, việc đặt ra thủ tục giám đốc thẩm không phải là phổ biến đối với mọi vụ án hoặc phần lớn số vụ án mà chỉ là trường hợp thật đặc biệt mới đặt ra, cho nên nó chỉ là hãn hữu, là rất ít. 15
  16. Để đưa một bản án hay quyết định của Tòa án ra xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm cần phải có đủ các điều kiện sau: - Một là, chỉ thực hiện đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Theo quy định tại khoản 1, Điều 255 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, những bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật bao gồm: (1) những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; (2) những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; (3) những quyết định của Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. - Hai là, có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. - Ba là, có kháng nghị của người có thẩm quyền. Là một thủ tục tố tụng đặc biệt, xong ở mỗi hệ thống pháp luật khác nhau mà quan niệm về thủ tục giám đốc thẩm cũng có sự khác nhau. Trong hệ thống pháp luật của một số quốc gia trên thế giới theo truyền thống luật án lệ thường không quy định thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án mà việc kháng cáo được tiến hành theo thủ tục tố tụng tại Tòa kháng cáo với nhiều loại thủ tục khác nhau như pháp luật Australia hay pháp luật Hoa Kỳ. Theo hệ thống pháp luật của những nước này thì đều coi các bản án, quyết định đã tuyên của Tòa án cấp thứ nhất (tòa sơ thẩm) là phán quyết cuối cùng và có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án; tuy nhiên các cấp tòa án cao hơn vẫn có thể xem xét lại các bản án, quyết định đã tuyên của tòa án cấp thấp hơn nếu bị kháng cáo hay kháng nghị. Việc xem xét lại các phán quyết cuối cùng này cùng có phần tương tự như thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật hoặc lời kết tội của quy chế Rôma về Tòa hình sự quốc tế (ICC). Điều 84, quy chế Rôma: "Người bị kết án hoặc nếu người đó chết thì vợ hoặc chồng, con, cha, mẹ hoặc một người đang sống vào thời điểm bị cáo chết mà được người đó chỉ dẫn rõ ràng bằng văn bản việc đệ đơn khiếu nại, hoặc Trưởng công tố 16
  17. có quyền đề nghị Hội đồng Phúc thẩm xét lại phán quyết cuối cùng về lời buộc tội hoặc bản án". Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng việc các chủ thể "khiếu nại" hay "đề nghị" hoặc "kháng cáo" hay "kháng nghị" đều là căn cứ để bắt đầu thủ tục tố tụng kháng cáo và có cùng nội dung là yêu cầu Hội đồng Phúc thẩm xét lại lời kết tội hay bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trái lại, ở những quốc gia theo truyền thống luật lục địa (luật dân sự), thường thực hiện chế độ "hai cấp xét xử" thì lại có sự quy định cụ thể thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án như pháp luật Cộng hòa Pháp, pháp luật Liên bang Nga, pháp luật Trung Hoa…Theo đó, sau khi vụ án được xét xử theo thủ tục sơ thẩm, bản án, quyết định sơ thẩm không có hiệu lực ngay mà có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay sau khi tuyên án. Mặc dù vậy, ngay cả khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật nhưng nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng trong quá trình tiến hành tố tụng thì Tòa án cấp trên vẫn có quyền xét lại bản án theo một thủ tục đặc biệt gọi là thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án. Pháp luật Việt Nam vừa có những nét tương đồng với pháp luật thế giới để phù hợp với bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay, lại có những đặc thù riêng đáp ứng nhu cầu về tình hình trị an, đặc điểm văn hóa xã hội trong nước. Việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt và có những đặc thù so với xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và tái thẩm. Thủ tục giám đốc thẩm được hiểu là việc "xét lại bản án, quyết định" có hiệu lực pháp luật khi bản án, quyết định đó bị kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án chứ không phải là thủ tục "xét xử lại vụ án". Và do vậy, chỉ khi có một trong những căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định tại Điều 273 BLTTHS năm 2003 thì người có thẩm quyền kháng nghị mới được thực hiện quyền kháng nghị và Tòa án mới tiến hành xét lại bản án theo thủ tục giám 17
  18. đốc thẩm. Trong thủ tục giám đốc thẩm, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân là không thể thiếu: vừa là chủ thể có trách nhiệm phát hiện ra những thiếu sót, sai lầm trong bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật đồng thời thực hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm để sửa chữa, khắc phục những sai lầm đó; vừa là chủ thể đảm bảo cho hoạt động xét xử giám đốc thẩm được tiến hành đúng quy định của pháp luật. Theo quy định của Hiến pháp hiện hành thì Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thuộc nhánh quyền tư pháp trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hai chức năng hiến định của Viện kiểm sát. Do đặc thù của từng giai đoạn, từng thủ tục tố tụng mà hình thức thể hiện các dạng quyền năng tương ứng với từng giai đoạn như quyền truy tố, xét hỏi, tranh luận, luận tội, phát biểu ý kiến, kết luận kháng nghị… cũng khác nhau. Ở giai đoạn này, chức năng công tố của Viện kiểm sát vẫn tiếp tục được duy trì, quyền công tố thể hiện rõ nét nhất chính là quyền kháng nghị giám đốc thẩm, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật cũng xoay quanh việc kháng nghị hay không kháng nghị giám đốc thẩm. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát là căn cứ giúp cho Hội đồng giám đốc thẩm quyết định việc chấp nhận hay bác bỏ các nội dung kháng nghị cho rằng bản án đã có hiệu lực pháp luật có sai lầm nghiêm trọng. Qua đó đảm bảo việc đưa bản án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành đúng đắn, phù hợp với chân lý khách quan, góp phần bảo vệ quyền con người xét trên cả hai góc độ: bảo vệ công dân trước sự xâm hại của các loại tội phạm và bảo đảm quyền và lợi ích của người bị kết án. Để hoàn thành vai trò quan trọng của mình, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện thủ tục giám đốc thẩm vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân cũng có những quyền hạn nhất định gắn liền với trách nhiệm, nhiệm vụ cụ thể tương ứng và phù hợp với chức năng của ngành kiểm sát nhân dân. Cụ thể: quyền kháng nghị theo thủ tục 18
  19. giám đốc thẩm; quyền hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án; quyền tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án cùng với nhiều quy định liên quan. Các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS năm 2003 được xây dựng đã tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao hơn nữa chất lượng giám đốc thẩm, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người dân, đồng thời khẳng định sự hiện diện của Viện kiểm sát trong quá trình tố tụng là để góp phần sửa chữa, khắc phục những thiếu sót, sai lầm trong việc điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự đảm bảo việc truy tố, xét xử, thi hành án, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm các nguyên tắc tố tụng hình sự được thực hiện một cách chính xác, triệt để. Từ những nội dung phân tích trên, tác giả xin đưa ra khái niệm "vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm là những hoạt động của Viện kiểm sát thể hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kết án hoặc người có liên quan đến vụ án và đảm bảo cho pháp luật được tuân thủ một cách triệt để". 1.1.2. Các khía cạnh thể hiện vai trò của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. 1.1.2.1. Chức năng của Viện kiểm sát trong thủ tục giám đốc thẩm. Kể từ Hiến pháp năm 1959, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân được quy định là một cơ quan độc lập, tổ chức và hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; chức năng của Viện kiểm sát tuy có sự thay đổi về nội dung qua các thời kỳ lịch sử khác nhau xong chức 19
  20. năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật vẫn là hai chức năng hiến định của ngành, thể hiện: Hiến pháp năm 1959, ngoài chức năng công tố còn thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát nhưng chức năng công tố vẫn giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm. Đến Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát nhân dân có hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" vẫn khẳng định: "Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp" [15, tr 5]. Riêng ở giai đoạn giám đốc thẩm, vẫn là chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với các chủ thể, nhưng có những điểm khác biệt đối với thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các giai đoạn khác của tố tụng hình sự. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn giám đốc thẩm chỉ có thể phát sinh khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án [3, tr 199]. Trong quá trình thực hành quyền công tố ở giai đoạn giám đốc thẩm, thì Kiểm sát viên, Kiểm tra viên Viện kiểm sát là những người trực tiếp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Thực hành quyền công tố thể hiện rõ nét nhất ở giai đoạn này chính là quyền kháng nghị Giám đốc thẩm, quyền tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2