Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề bảo đảm an ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng theo pháp luật quốc tế - Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
lượt xem 7
download
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề an ninh hàng không dân dụng; các quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình để từ đó có thể rút ra được một số bài học cho pháp luật Việt Nam. Hơn thế nữa, đề tài còn đi vào nghiên cứu sâu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam thông qua các vụ việc cụ thể làm sáng tỏ các quy định pháp luật Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề bảo đảm an ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng theo pháp luật quốc tế - Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM AN NINH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ. THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2012 1
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HÀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM AN NINH TRONG LĨNH VỰC HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG THEO PHÁP LUẬT QUỐC TẾ.THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Bá Diến Hà nội – 2012 2
- MỤC LỤC Trang Lời cam đoan 1 Mục lục 2 Mở đầu 4 Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN NINH HÀNG KHÔNG 6 DÂN DỤNG 1.1. Khái niệm về an ninh hàng không dân dụng 6 1.1.1. Khái niệm hàng không dân dụng 6 1.1.2. Khái niệm an ninh hàng không dân dụng 8 1.1.3. Khái niệm an toàn hàng không dân dụng 13 1.1.4. Mối liên hệ giữa an ninh và an toàn hàng không dân dụng 13 1.2. Vai trò của an ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng 14 1.3. Căn cứ pháp lý của việc bảo đảm an ninh hàng không dân dụng 16 1.3.1. Các điều ước quốc tế 16 1.3.2. Pháp luật quốc gia 18 Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM AN 20 NINH HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG THEO LUẬT PHÁP QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC ĐIỂN HÌNH TRÊN THẾ GIỚI 2.1. Pháp luật quốc tế 21 2.1.1. Các điều ước quốc tế đa phương 21 2.1.2. Các điều ước quốc tế song phương 29 2.2. Pháp luật quốc gia điển hình 36 2.2.1. Thực trạng pháp luật một số nước điển hình trên thế giới 36 2.2.1.1. Pháp luật hàng không dân dụng liên bang Nga 36 2.2.1.2. Pháp luật hàng không dân dụng cộng hòa dân chủ nhân dân Trung 41 Hoa 2.2.1.3. Pháp luật hàng không dân dụng Mỹ 42 Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ 51 AN NINH HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG TẠI VIỆT NAM 3.1. Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam 51 3
- 3.1.1. Các quy định chung của Pháp luật Việt Nam 51 3.1.2. Các quy định chuyên ngành của pháp luật Việt Nam 61 3.1.2.1. Các vấn đề liên quan đến tàu bay 63 3.1.2.1.1. Quốc tịch tàu bay 63 3.1.2.1.2. Tiêu chuẩn đủ điều kiện bay 66 3.1.2.1.3. Điều kiện hoạt động của tàu bay 67 3.1.2.2. Tiêu chí nguồn nhân lực 67 3.1.2.2.1. Tiêu chuẩn người khai thác tàu bay 67 3.1.2.2.2. Tiêu chuẩn nhân viên hàng không 78 3.1.2.3. Biện pháp an ninh phòng ngừa các hành vi can thiệp bất hợp pháp 85 3.1.2.3.1. Kiểm tra an ninh trước chuyến bay 85 3.1.2.3.2. Bảo đảm an ninh hàng không khi tàu bay đang bay 92 3.1.2.4. Quy định về thẻ, giấy phép kiểm soát an ninh hàng không 93 3.2. Thực trạng thực thi pháp luật 81 3.2.1. Sự đồng bộ của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế về an 81 ninh hàng không dân dụng. 3.2.2. Bài học cho pháp luật Việt Nam 102 3.2.3. Điểm bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam về an ninh hàng 117 không dân dụng. 3.3. Phương hướng hoàn thiện và giải pháp đề xuất 108 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 112 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 117 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngành hàng không dân dụng có lịch sử phát triển lâu dài. Ngày nay thì nó được sử dụng như một công cụ hỗ trợ việc đi lại, vận chuyển con người, hàng hóa một cách nhanh nhất. Song song với nhu cầu vận chuyển con người, hàng hóa và hành lý của họ thì một vấn đề được đặt ra và đóng vai trò vô cùng quan trọng là vấn đề bảo đảm an ninh hàng không. Sở dĩ đặt ra vấn đề này vì nó xuất phát từ việc bảo đảm trực tiếp tính mạng cho con người, hành lý, hàng hóa của họ trên tàu bay. Không giống các hình thức vận chuyển khác như vận chuyển đường biển, vận chuyển đường bộ là trong trường hợp khẩn cấp xảy ra tai nạn thì còn có thể nói đến cơ hội sống sót của một trong những hành khách trên tàu thủy, trên xe ô tô… nhưng đối với những hành khách sử dụng dịch vụ vận chuyển bằng đường hàng không thì có thể nói rằng tính mạng của họ hoàn toàn không thể được bảo toàn vì hầu hết các tai nạn máy bay xảy ra thường bị thiêu trụi hoặc rơi xuống đất từ độ cao hàng ngàn km. Do vậy, để vững tâm cho những người bỏ ra một khoản tiền đủ lớn để sử dụng dịch vụ vận chuyển bằng đường hàng không thì vấn đề an ninh hàng không càng phải được thắt chặt chặt chẽ giữa các khâu với nhau không chỉ bằng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp pháp trên không mà còn cả dưới mặt đất để bảo đảm rằng từ thời điểm tàu bay cất cánh mọi công việc phải đảm bảo an toàn an ninh cho tàu bay và hành khách. Xuất phát từ tình hình thực tế và tính cấp thiết của vấn đề, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Vấn đề bảo đảm an ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng theo pháp luật quốc tế. Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu về đề tài Hiện tại cũng có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực hàng không dân dụng, tuy nhiên đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo đảm an ninh hàng không dân dụng thì chiếm tỷ lệ ít hoặc có nghiên cứu thì cũng không đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá chi tiết vào các biện pháp ngăn ngừa, đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp 5
- pháp tại Việt Nam và thực trạng các quy định của pháp luật quốc tế. Thực tế, đây là một đề tài tương đối mới mẻ và có nhiều khía cạnh để phân tích và khai thác. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề an ninh hàng không dân dụng; các quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình để từ đó có thể rút ra được một số bài học cho pháp luật Việt Nam. Hơn thế nữa, đề tài còn đi vào nghiên cứu sâu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam thông qua các vụ việc cụ thể làm sáng tỏ các quy định pháp luật Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn tìm ra các điểm bất cập trong việc áp dụng vào thực tế các quy định pháp luật Việt Nam. Đồng thời đưa ra một số giải pháp đề xuất nhằm phát triển ngành hàng không dân dụng. - Nhiệm vụ: + Tìm hiểu một cách cụ thể các quy định về an ninh hàng không dân dụng trong pháp luật quốc tế thể hiện tại các điều ước quốc tế, các nghị quyết, quyết định của ICAO….và trong pháp luật Việt Nam. + Đánh giá đúng đắn và toàn diện về hệ thống bảo đảm an ninh hàng không dân dụng. + Với mục đích hoàn thiện các quy định đề ra các phương hướng hoàn thiện pháp luật để tạo niềm tin vững tâm cho các hành khách khi tham gia sử dụng dịch vụ vận chuyển bằng đường hàng không. 4. Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi luận văn này, tôi chỉ đề cập tới các vấn đề có liên quan: + Các vấn đề chung về an ninh hàng không dân dụng và mối liên hệ mật thiết của an ninh hàng không với an toàn hàng không và ngành hàng không dân dụng nói chung. + Hệ thống các văn bản pháp luật quốc tế về an ninh hàng không dân dụng và nội dung cụ thể của các văn bản này. Nghiên cứu quy định pháp luật của một số quốc gia điển hình để từ đó có thể đánh giá, rút ra bài học cho pháp luật Việt Nam. 6
- + Thực tiễn bảo đảm an ninh hàng không tại Việt Nam thông qua các quy định cụ thể thực hiện trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam về an ninh hàng không. Đồng thời đưa ra các kiến nghị, giải pháp đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về an ninh hàng không dân dụng. + Đưa ra các phương hướng và giải pháp khắc phục trong thời gian tới. 5. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được vận dụng trong luận văn là các phương pháp: diễn dịch, quy nạp, so sánh, lịch sử, khảo sát, thống kê. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 3 chương với cấu trúc như sau: Chương 1: Lý luận chung về an ninh hàng không dân dụng Chương 2: Các quy định về vấn đề bảo đảm an ninh hàng không dân dụng theo pháp luật quốc tế và pháp luật một số nước điển hình trên thế giới. Chương 3: Thực trạng áp dụng các quy định về an ninh hàng không dân dụng tại Việt Nam. 7. Đóng góp của luận văn + Luận văn đã đi vào phân tích, so sánh giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước điển hình trên thế giới và rút ra một số bài học cho pháp luật Việt Nam. + Luận văn tìm ra một số điểm còn bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật về an ninh hàng không dân dụng. + Tác giả luận văn cũng đề xuất một số giải pháp góp phần vào công tác bảo đảm an ninh hàng không dân dụng Việt Nam. 7
- Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ AN NINH HÀNG KHÔNG DÂN DỤNG 1.1. Định nghĩa An ninh hàng không dân dụng 1.1.1. Khái niệm hàng không dân dụng Hàng không dân dụng là một trong hai lĩnh vực của hoạt động bay bao gồm cả hoạt động bay thương mại và tư nhân, không bao gồm hoạt động bay quân sự. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều là thành viên của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) và cùng nhau làm việc để thiết lập các tiêu chuẩn thông thường và tiêu chuẩn thực hành cho ngành hàng không dân dụng. Ngành hàng không dân dụng gồm hai vấn đề chính: - Hàng không nhằm mục đích thương mại bao gồm hầu hết hoặc tất cả các tàu bay là để cho thuê đặc biệt là dịch vụ phục vụ các hãng hàng không. - Hàng không mang tính chất tư nhân bao gồm các phi công thực hiện chuyến bay cho mục đích của chính họ (vui chơi, giải trí, các cuộc họp…) mà không được nhận thù lao dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả việc vận chuyển hàng không là thương mại nhưng nói chung đó là hoạt động hàng không nhằm mục đích thương mại và tư nhân. Thông thường thì phi công, tàu bay và điều hành khai thác cảng phải được phép thực hiện các hoạt động thương mại thông qua việc cấp phép thương mại riêng biệt về đăng ký và phải có giấy chứng nhận hoạt động [43]. 1.1.2. Khái niệm an ninh hàng không dân dụng An ninh là sự kết hợp những biện pháp và nguồn nhân vật lực để bảo vệ hàng không dân dụng chống lại các hành vi can thiệp bất hợp pháp[36,17]. An ninh hàng không là việc sử dụng kết hợp các biện pháp, nguồn nhân lực, trang bị, thiết bị để phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng, bảo vệ an toàn cho tàu bay, hành khách, tổ bay và những người dưới mặt đất[6,190]. 8
- Như vậy, Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 cũng được xây dựng trên cơ sở những khuyến cáo của ICAO trong phụ lục 17. Theo đó thì An ninh hàng không có các đặc điểm như sau: Thứ nhất là việc sử dụng các biện pháp an ninh phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó. Thứ hai là việc sử dụng nguồn nhân lực: lực lượng lao động làm việc tại các sân bay, cảng hàng không và các lực lượng khác có liên quan. Thứ ba là việc chuẩn bị, đầu tư các trang thiết bị: máy móc, phương tiện, nhà ga… Mục đích của bảo đảm an ninh hàng không dân dụng là ưu tiên hàng đầu bảo vệ hành khách, tổ bay, những người dưới mặt đất và bảo vệ an toàn cho tàu bay trong mọi điều kiện. Cụm từ “Hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng” là hành vi có khả năng uy hiếp an toàn hoạt động hàng không dân dụng, bao gồm một trong các hành vi sau đây: + Chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay đang bay; + Chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay trên mặt đất; + Sử dụng tàu bay như một vũ khí; + Bắt giữ con tin trong tàu bay hoặc tại cảng hàng không, sân bay; + Xâm nhập trái pháp luật vào tàu bay, cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng; + Đưa vật phẩm nguy hiểm vào tàu bay, vào cảng hàng không, sân bay và khu vực hạn chế khác trái pháp luật. Vật phẩm nguy hiểm bao gồm vũ khí, đạn dược, chất cháy, chất nổ, chất phóng xạ và các vật hoặc chất khác có khả năng gây nguy hiểm hoặc được dùng để gây nguy hiểm cho sức khoẻ, tính mạng của con người, sự an toàn của chuyến bay: có thể giấu trong người, hành lý, chậu cây cảnh… + Cung cấp các thông tin sai đến mức uy hiếp an toàn của tàu bay đang bay hoặc trên mặt đất; an toàn của hành khách, tổ bay, nhân viên mặt đất hoặc người tại cảng hàng không, sân bay và công trình, trang bị, thiết bị hàng không dân dụng: cung cấp thông tin có bom trên tàu bay… 9
- Khi có các hành vi can thiệp bất hợp pháp xảy ra thì lực lượng chỉ huy, đối phó trực tiếp tại hiện trường được quyền nổ súng cảnh cáo để uy hiếp đối tượng thực hiện hành vi can thiệp bất hợp pháp hoặc nổ súng gây thương tích để ngăn chặn khi phần tử xấu đang đột nhập vào máy bay, vào các khu vực hạn chế khác. Đây là một trong những phương án khẩn nguy tổng thể đối phó với hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng do Thủ tướng vừa ban hành. Theo đó, 4 nguyên tắc tại chỗ khi xảy ra tình huống can thiệp bất hợp pháp đối với hàng không dân dụng được phép thực hiện, gồm phương án đối phó tại chỗ, lực lượng tại chỗ, trang thiết bị tại chỗ và hậu cần tại chỗ. Căn cứ vào tính chất nghiêm trọng của hành vi can thiệp bất hợp pháp, lực lượng chỉ huy, lực lượng đối phó trực tiếp tại hiện trường được quyền nổ súng cảnh cáo để uy hiếp đối tượng; nổ súng gây thương tích để ngăn chặn khi phần tử xấu đang đột nhập vào tàu bay, sân bay và nổ súng tiêu diệt để ngăn chặn kẻ địch, phần tử xấu đang tấn công hoặc chuẩn bị tấn công vũ trang vào tàu bay... Khi có tình huống bất lợi xảy ra đối với tàu bay đang bay thì cơ sở cung cấp dịch vụ không lưu là đơn vị đối phó ban đầu. Người chỉ huy cần triển khai phương án điều hành bay bị can thiệp bất hợp pháp, thực hiện các các biện pháp ưu tiên trợ giúp cho tàu bay về điều hành bay đồng thời báo cáo ngay cho Hệ thống quản lý vùng trời - quản lý bay, Bộ Quốc phòng để chuẩn bị tiếp nhận chỉ huy đối phó. Người chỉ huy khẩn cấp thông báo ngay cho các Cảng hàng không Việt Nam và nước ngoài, trung tâm tìm kiếm cứu nạn liên quan chuẩn bị phương án khẩn nguy, cứu nạn. Ngoài ra, nhằm đảm bảo an toàn cho các chuyến bay, tại mỗi cảng hàng không, sân bay dân dụng phải thiết lập một Trung tâm Khẩn nguy, trong đó có chức năng phục vụ cho việc chỉ đạo, điều hành đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp pháp. Mỗi cảng hàng không, sân bay phải bố trí các khu vực đỗ biệt lập dành cho tàu bay bị can thiệp bất hợp pháp để ưu tiên sử dụng khi có thể. Các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào ngành hàng không phân thành 3 cấp độ gồm: Cấp độ 1 (chiếm đoạt bất hợp pháp tàu bay, tấn công vũ trang trên tàu bay, tấn 10
- công có tổ chức vũ trang tại các cảng hàng không, sân bay, chiếm đoạt gây bạo loạn khủng bố tại cảng hàng không, bắt giữ con tin trên tàu bay). Cấp độ 2 (đưa bom, mìn, súng, đạn vào tàu bay, cảng hàng không, tấn công bằng vũ khí vào Lực lượng an ninh hàng không, bắt giữ con tin tại Cảng hàng không, đe dọa đặt bom, mìn, vũ khí sinh học, hóa học trên tàu bay đang bay). Cấp độ 3 (đưa chất cháy, nổ, vũ khí thô sơ và các vật phẩm nguy hiểm khác vào tàu bay và cảng hàng không, đe dọa đặt bom, mìn tại cảng hàng không, có hành vi phá hoại tàu bay, cảng hàng không, tấn công lực lượng an ninh hàng không và lực lượng bảo vệ để xâm nhập trái phép vào tàu bay, sân bay)[18]. Để tìm hiểu rõ hơn chúng ta đi vào nghiên cứu về an ninh trong lĩnh vực hàng hải. Theo Bộ luật hàng hải Việt Nam năm 2005 có quy định: - “ Tàu biển Việt Nam chỉ được sử dụng vào mục đích đã đăng ký trong Sổ đăng ký tàu biển quốc gia Việt Nam khi cấu trúc, trang thiết bị, các giấy chứng nhận và tài liệu của tàu biển, định biên và khả năng chuyên môn của thuyền bộ phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường. - Tàu biển khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam phải chấp hành quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về an toàn hàng hải, an ninh hàng hải và phòng ngừa ô nhiễm môi trường. - Tàu biển, tàu quân sự, tàu công vụ, tàu cá, phương tiện thủy nội địa và thủy phi cơ khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam phải tuân theo chỉ dẫn của các báo hiệu hàng hải và chấp nhận quy tắc phòng ngừa đâm va theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Báo hiệu hàng hải bao gồm các báo hiệu nhận biết bằng hình ảnh, ánh sáng, âm thanh và tín hiệu vô tuyến được thiết lập để hướng dẫn cho hoạt động của tàu biển. 11
- - Trong luồng hàng hải, tại các vị trí cần thiết ven bờ biển, trên các đảo, tại vùng nước có chướng ngại vật và các công trình khác trên biển và vùng nước cảng biển mà tàu biển được phép hoạt động, phải thiết lập các báo hiệu hàng hải theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Luồng hàng hải là phần giới hạn vùng nước được xác định bởi hệ thống báo hiệu hàng hải và các công trình phụ trợ khác để bảo đảm an toàn cho hoạt động của tàu biển và các phương tiện thủy khác. Luồng hàng hải bao gồm luồng cảng biển và luồng hàng hải khác. - Tàu biển chuyên dùng để vận chuyển dầu mỏ, chế phẩm từ dầu mỏ hoặc các hàng hóa nguy hiểm khác bắt buộc phải có bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu về ô nhiễm môi trường khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam. - Tàu biển nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu vận chuyển chất phóng xạ chỉ được vào hoạt động trong vùng nước cảng biển, nội thủy và lãnh hải Việt Nam sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép[3]. Như vậy, an ninh hàng không và an ninh hàng hải có nhiều điểm tương đồng giống nhau. Ngành hàng không cũng giống như ngành hàng hải, để đảm bảo an ninh an toàn đối với tàu bay và tàu biển thì đều phải thiết lập các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi can thiệp bất hợp pháp xảy ra. Đối với an ninh hàng hải thì tàu biển, tàu quân sự, tàu công vụ, tàu cá, phương tiện thủy nội địa và thủy phi cơ khi hoạt động trong vùng nước cảng biển và vùng biển Việt Nam phải tuân theo chỉ dẫn của các báo hiệu hàng hải và chấp hành quy tắc phòng ngừa đâm va theo quy định của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Đối với an ninh hàng không thì tàu bay hoạt động trong địa phận vùng trời Việt Nam cũng phải tuân theo các quy định về đường bay, vùng trời bay của Việt Nam. Đường hàng không là khu vực trên không có giới hạn xác định về độ cao, chiều rộng và được kiểm soát. Đường hàng không quốc tế được sử dụng cho chuyến bay quốc tế và chuyến bay nội địa, còn đường bay nội địa chỉ được sử dụng cho các chuyến bay nội địa. Tàu bay Việt Nam, tàu bay nước ngoài thực hiện các chuyến 12
- bay quốc tế chỉ được phép cất cánh, hạ cánh tại cảng hàng không quốc tế, trong trường hợp cất cánh, hạ cánh tại cảng hàng không, sân bay nội địa phải được phép của Thủ tướng Chính phủ[13]. Hiện nay ở nước ta có hai vùng thông báo bay (Flight Information Center) nhằm mục đích để mô tả một không gian khí quyển với những kích thước được xác định cụ thể mà máy bay qua vùng đó được cung cấp dịch vụ thông tin bay và dịch vụ báo động khi cần thiết. Đây là một phân chia không gian khí quyển lớn nhất được sử dụng hiện nay trên thế giới. Dịch vụ thông tin và dịch vụ báo động là những mức dịch vụ cơ bản cho máy bay nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho việc điều hành những chuyến bay một cách an toàn và hiệu quả, cũng như để báo động cho các cơ quan có trách nhiệm khi một máy bay cần cứu trợ hay bị tai nạn để tìm kiếm cứu nạn. Ngày nay bất cứ một phần không gian nào của bầu khí quyển cũng được phân định thuộc về một FIR cụ thể. Trong một số trường hợp, không gian khí quyển của nhiều nước nhỏ được gộp trong một FIR, mặt khác không gian khí quyển của những nước lớn lại được chia nhỏ ra nhiều FIR. Không có một tiêu chuẩn nào về kích cỡ của FIR, mà chỉ do thuận tiện về quản lý của các nước liên hệ. FIR mang tên của Trung tâm Thông tin bay hay Trung tâm Quản lý bay (Flight Information Center) chính của vùng chứ không mang tên quốc gia và do đó không mang ý nghĩa về chủ quyền quốc gia cả. FIR Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm cả vùng hải phận quốc tế cũng như cả một phần vùng trời Lào và một phần vùng trời Campuchia. 1.1.3. Khái niệm an toàn hàng không dân dụng Nói đến an toàn hàng không là nói đến các tiêu chuẩn đủ điều kiện bay, khai thác tàu bay, tiêu chuẩn chuyên môn của nhân viên trong lĩnh vực khai thác, bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay, cơ sở y tế giám định sức khỏe cho nhân viên hàng không[19]. Việc ban hành, thừa nhận tiêu chuẩn đủ điều kiện bay áp dụng đối với tàu bay, động cơ và thiết bị lắp trên tàu bay; ban hành, thừa nhận yêu cầu tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng đối với thiết bị, vật tư tiêu chuẩn, vật tư tiêu hao (consumable parts) phục vụ công tác sửa chữa, bảo dưỡng tàu bay; điều kiện, trình tự, thủ tục cấp, công nhận giấy chứng nhận loại đối với tàu bay, động cơ và cánh 13
- quạt tàu bay; điều kiện, trình tự, thủ tục phê chuẩn thiết bị lắp trên tàu bay, thiết bị, vật tư tiêu chuẩn, vật tư tiêu hao phục vụ công tác sửa chữa, bảo dưỡng tàu bay: khi được thiết kế, chế tạo, thử nghiệm tại Việt Nam; được nhập khẩu và khai thác lần đầu hoặc được sản xuất tại Việt Nam. Quy chế an toàn hàng không đã xiết chặt hơn các tiêu chuẩn an toàn bằng việc bắt buộc các hãng phải có hệ thống quản lý an toàn và phân tích dữ liệu bay, có tần số thiết bị khẩn nguy, ngôn ngữ thoại. Hơn nữa, từng nhiệm vụ cụ thể của đội bay được làm rõ. Ví dụ như tiếp viên trưởng không được cho phép hành khách ngồi tại ghế gần lối thoát hiểm nếu thấy khách đó có thể không hiểu và không đủ năng lực mở cửa thoát ra khỏi tàu bay khi được yêu cầu. Quy chế an toàn cho phép các phi công được thực hiện 1000h bay mỗi năm tăng hơn 100h so với hiện nay. Đây là điều kiện rất tốt cho Việt Nam để tận dụng nguồn nhân lực hiện có trong điều kiện luôn thiếu phi công. 1.1.4. Mối liên hệ giữa an ninh và an toàn hàng không dân dụng Để xác định được giữa an ninh hàng không dân dụng và an toàn hàng không dân dụng có mối quan hệ như thế nào thì vấn đề đầu tiên chúng ta cần giải quyết là xem xét chúng có sự giống và khác nhau như thế nào? An ninh và an toàn hàng không dân dụng là hai vấn đề quan trọng cốt lõi trong hệ thống hàng không dân dụng Việt Nam. Đây là hai vấn đề tuy khác nhau nhưng lại đan xen, xen kẽ không thể tách rời. Trong yếu tố an ninh lại có an toàn và ngược lại. An ninh và an toàn đều nhằm mục đích bảo vệ tính mạng cho con người, hành khách, tổ bay và hàng hóa, hành lý của họ. Tuy nhiên, an ninh và an toàn hàng không không phải là một, chúng cũng có những điểm khác biệt. + Các sự cố liên quan đến an ninh hàng không như để lọt các vật phẩm nguy hiểm lên tàu bay; cho người không có nhiệm vụ vào khu vực hạn chế, các tình huống xử lý vũ khí, đạn dược trong quá trình vận chuyển… Sự cố về an toàn hàng không: động cơ hỏng hóc, máy bay chệch đường băng, các chướng ngại vật hàng không (trâu bò để đi lạc vào đường băng, tàu bay bị 14
- đe dọa bất hợp pháp, chim thả trên không, khói rạ vào vụ mùa của các khu vực lân cận….) tất cả những điều đó có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an toàn của tàu bay, có thể làm tàu bay mất phương hướng, không hạ, cất cánh được. + Kinh phí để thực hiện các dự án bảo đảm an toàn hàng không thường tốn kém hơn và mất nhiều thời gian hơn về bảo đảm an ninh hàng không. Ví dụ như kinh phí bỏ ra để xây dựng hệ thống đường băng theo tiêu chuẩn của ICAO đặt ra thì thực sự không phải là công việc một sớm một chiều và đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn, còn đối với công tác bảo đảm an ninh thì có thể mua hệ thống máy soi chiếu, đầu tư xây dựng khu vực hàng rào bảo vệ khu vực hạn chế cũng sẽ ít tốn kém hơn. + Hệ thống trang thiết bị trang bị nhằm bảo đảm an toàn hàng không thường tốn kém và phải trang bị nhiều hơn so với việc trang bị các phương tiện, trang thiết bị bảo đảm an ninh hàng không. Tuy nhiên, an ninh hàng không và an toàn hàng không là hai vấn đề không thể tách rời, có liên quan mật thiết với nhau. 1.2. Vai trò của An ninh trong lĩnh vực hàng không dân dụng Để tìm hiểu rõ về vai trò của an ninh trong lĩnh vực hàng không thì điều trước tiên chúng ta phải đi tìm hiểu về vai trò của ngành hàng không nói chung. Để phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng cao của con người đòi hỏi phải xuất hiện một phương tiện vận tải đảm bảo tính cơ động, nhanh chóng. Chính vì vậy mà ngành hàng không ra đời với mục đích thương mại đầu tiên là vận chuyển hành khách từ vùng này đến vùng kia trong cùng 1 quốc gia. Sau đó là sự mở rộng ra là vận chuyển hành khách từ quốc gia này sang quốc gia kia. Do vậy nó đã có sự liên kết giữa các quốc gia với nhau trong quá trình vận chuyển. Mục đích không chỉ dừng lại ở việc vận chuyển hành khách mà còn phục vụ vận chuyển hàng hóa, làm các công tác xã hội như cứu nạn máy bay dùng để phục vụ nông nghiệp: vận chuyển phân bón….Nhưng có một điều chúng ta cũng phải đề cập là bên cạnh những ưu điểm của nó còn còn những nhược điểm là các quốc gia xâm lược ngày trước đã lợi dụng chức năng của ngành hàng không để thực hiện vào mục đích quân sự phi nhân đạo như vận chuyển vũ khí, đạn dược trong chiến tranh để xâm chiếm các quốc gia khác. Tuy nhiên trong 15
- thời đại hiện nay thì cũng vẫn còn tình trạng lạm dụng máy bay để vận chuyển vũ khí trái phép như trường hợp xảy ra mới đây nhất là vụ việc ngày 12/12/2009, một chiếc máy bay vận tải Ilyushin 76 (được sản xuất từ thời Liên Xô) được đăng ký mã tại Grudia. Trong quá trình vận chuyển đã xin hạ cánh khẩn cấp xuống phi trường Don Muang tại Bangkok vì sắp hết nhiên liệu. Theo tờ báo AP của Thái Lan đưa tin, sau khi nó đáp xuống sân bay cảnh sát khám xét và tìm thấy khoảng 35 tấn vũ khí trên máy bay, trong đó có lựu đạn, các thành phần của tên lửa đất đối không, thuốc nổ và nhiều thứ khác. Như vậy, qua vụ việc trên chúng ta thấy có những trường hợp lợi dụng chức năng vận chuyển bằng đường hàng không để thực hiện những công việc phi nhân đạo. Điều đáng chú ý ở đây là, song song với việc tìm hiểu về vai trò, chức năng của ngành hàng không thì chúng ta phải đề cập đến vấn đề cốt lõi đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển ngành hàng không, đó chính là vấn đề bảo đảm an ninh hàng không. Nhắc đến an ninh chúng ta cũng có thể hiểu được một phần nào sự quan trọng của nó. An ninh hiểu theo nghĩa đen đó là sự bảo vệ. An ninh hàng không ở đây chính là sự kết hợp nguồn nhân lực, trang thiết bị và các biện pháp để phòng ngừa, ngăn chặn và đối phó với các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào hoạt động hàng không dân dụng nhằm bảo vệ tính mạng con người, tổ bay và hàng hóa của họ. Chỉ có một cụm từ “an ninh” mà nó bao hàm rất nhiều vấn đề bên trong. Do đó, để có những chuyến bay thành công tốt đẹp, hài lòng hành khách sử dụng dịch vụ này thì vấn đề an ninh phải được thắt chặt tất cả các khâu, các mục tiêu, nó là yếu tố quan trọng đóng vai trò quyết định sự an toàn của hành khách, thành viên tổ bay, hành lý, hàng hóa…. Việc bảo đảm an ninh hàng không nhằm phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi can thiệp bất hợp pháp vào ngành hàng không dân dụng. Ví dụ như: Tại sân bay quốc tế Nội Bài, hành khách muốn thực hiện các chuyến bay xuất phát tại Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, trước khi lên máy bay hành khách phải chịu sự kiểm soát, thực hiện nghiêm ngặt các quy định đảm bảo an ninh, an toàn hàng không như: Hành lý ký gửi được kiểm tra, soi chiếu chặt chẽ trên màn 16
- hình. Trường hợp nghi ngờ thì kiểm tra trực quan hành lý ký gửi đó. Sau khi hoàn thành thủ tục gửi hành lý ký gửi, hành khách qua điểm kiểm tra an ninh. Tại đây, hành khách phải xuất trình các giấy tờ tùy thân hợp lệ để nhân viên an ninh kiểm tra đầy đủ các thông tin và ra quyết định được tiếp tục đi tiếp hay không? Sau đó, hành lý xách tay của hành khách được đưa qua máy soi tia X để phân tích, xác định có vật phẩm nguy hiểm hay không? Nếu không có gì nghi ngờ thì lúc đó hành khách mới được ra tàu bay dưới sự giám sát liên tục của nhân viên an ninh cho đến khi ra đến cửa tàu bay. Trên đây là quy trình kiểm tra đơn giản đảm bảo an ninh hàng không dân dụng. Như vậy, ngành hàng không càng ngày càng phát triển đòi hỏi vấn đề bảo đảm an ninh càng ngày càng phải thắt chặt, nghiêm ngặt hơn. 1.3. Căn cứ pháp lý của việc bảo đảm an ninh hàng không dân dụng 1.3.1. Các điều ước quốc tế + Các công ước có liên quan đến việc bảo đảm an ninh hàng không dân dụng Ngay từ khi công ước Chicago được kí kết năm 1944 đã có một phụ lục riêng biệt về lĩnh vực bảo đảm an ninh nhằm chống lại các hành vi can thiệp bất hợp pháp trong lĩnh vực hàng không dân dụng. Đây chính là nền tảng để các quốc gia có thể ký kết, tham gia vào các công ước có liên quan sau này. Tuy nhiên, ngay từ năm 1929 đã có Công ước Vacsava 1929 về thống nhất một số quy định trong vận chuyển hàng không dân dụng quốc tế là điều ước quốc tế có vị trí quan trọng nhất trong lĩnh vực dân sự hàng không quốc tế, đó là văn bản đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành hàng không. Công ước này đã bổ sung, sửa đổi bằng các Nghị định thư Lahaye 1955, Công ước Guadalara 1961, Nghị định thư Goatêmala 1971, bốn Nghị định thư Montreal 1975 tạo ra hệ thống công ước Vacsava 1929 về vận chuyển hàng không dân dụng quốc tế. Thêm vào đó còn có Công ước Rome 1952 về bồi thường thiệt hại do tàu bay nước ngoài gây ra cho người thứ ba ở dưới mặt đất, Nghị định thư Montreal 1978 về việc sửa đổi, bổ sung công ước về bồi thường thiệt hại do tàu bay nước ngoài gây ra cho người thứ ba ở 17
- dưới mặt đất, Công ước Rome 1933 về thống nhất một số quy tắc về bắt giữ phòng ngừa tàu bay. Đặc biệt liên quan đến an ninh hàng không dân dụng có các công ước như: Công ước Tokyo ngày 14/9/1963 về các hành vi phạm tội và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay. Công ước Lahay 1970 về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay. Công ước Montreal 1971 về ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hoạt động hàng không dân dụng (23/9/1971). Công ước Montreal 1991 về việc đánh dấu chất nổ dẻo. Ngoài ra các quy định về an ninh hàng không còn được thể hiện ở 61 hiệp định vận chuyển song phương giữa Việt Nam và các nước khác và một số công ước khác có liên quan. Công ước chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin. Công ước Viên năm 1979 về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân. Nghị định thư Montreal năm 1988 về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại cảng hàng không dân dụng quốc tế. Công ước Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải. Nghị định thư Rome năm 1988 về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình cố định trên thềm lục địa. Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom. Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ cho khủng bố. Công ước Viên năm 2005 (sửa đổi Công ước Viên năm 1980) về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân. Công ước New York năm 2005 về ngăn ngừa các hành vi khủng bố bằng hạt nhân. Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành vi phi pháp chống lại an toàn hàng hải. 18
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình trên thềm lục địa kí tại London ngày 14/10/2005. + Các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc, Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc, các vụ việc có liên quan đến an ninh hàng không dân dụng, phán quyết của tòa án quốc gia. Nghị quyết 1373 của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về phong tỏa, tịch thu tài sản của các phần tử khủng bố và tài trợ cho khủng bố. 1.3.2. Pháp luật quốc gia Để các điều ước quốc tế đi vào thực tiễn áp dụng tại mỗi quốc gia, Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới đã xây dựng hệ thống pháp luật tham gia điều chỉnh các vấn đề trong lĩnh vực hàng không dân dụng trên cơ sở các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam có: Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 Luật hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 Chương trình an ninh hàng không dân dụng Việt Nam ban hành kèm Quyết định số 06/2007/QĐ-BGTVT ngày 05/02/2007; Nghị định số 83/2007/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay; Nghị định số 76/2007/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Nghị định số 75/2007/NĐ-CP của Chính phủ về điều tra sự cố, tai nạn tàu bay dân dụng; Nghị định số 70/2007/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký quốc tịch và đăng ký các quyền đối với tàu bay dân dụng; Nghị định số 81/2010/NĐ-CP của Chính phủ về An ninh hàng không dân dụng. Quyết định 16/2000/QĐ-CHK Ban hành Quy chế về quản lý hoạt động thuê tầu bay, động cơ tầu bay; Quyết định 45/2006/QĐ-BGTVT Ban hành Quy chế khai thác trực thăng thương mại; 19
- Quyết định 26/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành “Quy chế tìm kiếm, cứu nạn hàng không dân dụng”; Quyết định 21/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành Quy chế thông báo tin tức hàng không; Quyết định 10/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc bồi thường ứng trước không hoàn lại trong vận chuyển hành khách bằng đường hàng không; Quyết định 19/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về nhân viên hàng không và cơ sở đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ nhân viên hàng không; Quyết định 14/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc ban hành Quy chế thông tin, dẫn đường, giám sát hàng không dân dụng; Quyết định 13/2007/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc cấp, công nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện vận chuyển hàng nguy hiểm bằng đường hàng không; Thông tư liên tịch 22/2007/TTLT-BTC-BGTVT của Bộ Tài chính và Bộ Giao thông vận tải hướng dẫn về quản lý giá cước vận chuyển hàng không nội địa và giá dịch vụ hàng không tại cảng hàng không sân bay Việt Nam; Quyết định 18/2007QĐ-BTC của Bộ tài chính về việc in, phát hành, sử dụng và quản lý vé máy bay điện tử; Quy chế này áp dụng đối với việc in, phát hành, sử dụng và quản lý vé máy bay điện tử (sau đây gọi tắt là vé điện tử); Quyết định số 12/QĐ-BGTVT của Bộ Giao thông vận tải về việc bàn hành Quy chế khí tượng hàng không dân dụng ngày 21/03/2007; Quyết định 51/2007/ QĐ-BGTVT Về Sổ đăng bạ cảng hàng không, sân bay, cấp Giấy chứng nhận và Giấy phép kinh doanh tại cảng hàng không, sân bay; Quyết định 22/2008/QĐ-BTC Về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí nhượng quyền khai thác cảng hàng không, sân bay; 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn