Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia
lượt xem 9
download
Trên cơ sở xem xét những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật và thực tiễn quốc tế về biên giới quốc gia, quá trình xác lập đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia, luận văn góp phần khẳng định giá trị bền vững của Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985, đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại, hướng tới một đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài giữa hai nước.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THANH HUYỀN VẤN ĐỀ HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - NĂM 2005
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT PHAN THỊ THANH HUYỀN VẤN ĐỀ HOẠCH ĐỊNH ĐƯỜNG BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN GIỮA VIỆT NAM VÀ CAMPUCHIA CHUYÊN NGÀNH: LUẬT QUỐC TẾ MÃ SỐ: 50512 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TIẾN SĨ NGUYỄN HỒNG THAO BAN BIÊN GIỚI - BỘ NGOẠI GIAO HÀ NỘI - NĂM 2005
- MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………………..……………. 1 Chương1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRONG LUẬT PHÁP 5 QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI……………………………………………………………………..….……..……………… 1.1. Khái niệm lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia……………..……….………….. 5 1.1.1. Khái niệm lãnh thổ quốc gia…………………………………………………………………….….. 5 1.1.2. Khái niệm biên giới quốc gia…………………………………………………………………..…… 7 1.2. Phân loại biên giới…….……………………………………………………………………………….….… 17 1.2.1. Biên giới tự nhiên và biên giới nhân tạo…………………………………………………….. 17 1.2.2. Biên giới chính thức và không chính thức…………………………………………………. 23 1.2.3. Biên giới chính trị và biên giới hành chính……………………………………………… 23 1.2.4. Các loại biên giới khác………………………………………………………………………………….. 24 1.3. Xác lập biên giới quốc gia……………………………………………………………………………... 25 1.3.1. Khái niệm, ý nghĩa của quá trình xác lập biên giới quốc gia …………………… 25 1.3.2. Các giai đoạn của quá trình xác lập đường biên giới……………………………… 25 1.4. Quy chế pháp lý của biên giới quốc gia…………………………………………………… 33 1.4.1. Các nguyên tắc chung của Luật quốc tế về biên giới quốc gia……………… 33 1.4.2. Quy chế pháp lý về biên giới quốc gia………………………………………………………... 36 1.5. Giải quyết tranh chấp về biên giới trong luật pháp quốc tế …………………. 37 1.5.1. Tranh chấp biên giới……………………………………………………………………………………… 37 1.5.2. Pháp luật quốc tế về giải quyết tranh chấp biên giới………………………………… 39 Kết luận…………………………………………………………………………………………………………………….. 45 Chương 2: BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - CAMPUCHIA VÀ HIỆP ƯỚC HOẠCH ĐỊNH BIÊN GIỚI QUỐC GIA GIỮA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM VÀ NƯỚC CHND CAMPUCHIA, NGÀY 27/12/1985………………………………………….. 46 2.1. Khái quát lịch sử biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia…… 48 2.1.1. Biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia trước thời kỳ Pháp thuộc……… 48 2.1.2. Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia thời kỳ Pháp thuộc………. 55 2.1.3. Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia từ khi hai nước giành được độc lập đến trước khi ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới năm 61
- 1985………………………………………………………………………………………………………………………….. 2.2. Nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia…………………………………………………………………………………………………………. 69 2.2.1. Các nguyên tắc chung…………………………………………………………………………………… 70 2.2.2. Các nguyên tắc riêng được hai Bên thỏa thuận………………………………………….. 75 2.3. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia, ngày 27/12/1985………………………………………... 79 2.3.1. Tóm tắt quá trình đàm phán, ký kết Hiệp ước………………….……………………… 79 2.3.2. Nội dung cơ bản của Hiệp ước…………………………………………………………………….. 85 2.3.3. Ý nghĩa của Hiệp ước……………………………………………………………………………………. 87 Kết luận…………………………………………………………………………………………………………………….. 90 Chương 3: THỰC TRẠNG ĐƯỜNG BIÊN GIỚI TRÊN ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - CAMPUCHIA VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG MỘT ĐƯỜNG BIÊN GIỚI HÒA BÌNH, ỔN ĐỊNH LÂU DÀI………………………………………………………………… 91 3.1. Thực trạng biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia…………………. 91 3.1.1. Quá trình triển khai thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới năm 91 1985.. 3.1.2. Tình hình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Campuchia trong thời gian gần đây……………………………………………………………………….. 100 3.1.3. Một số tồn tại về biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia…………….. 103 3.2. Xây dựng một đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài………………………………………………………………………………………………………………. 108 3.2.1. Giải pháp đàm phán………………………………………………………………………………………. 109 3.2.2. Tăng cường quan hệ chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho đàm phán, giải quyết vấn đề biên giới………………………………………………………………………………………. 115 3.2.3. Tăng cường công tác quản lý biên giới trên thực tế nhằm duy trì một đường biên giới ổn định………………………………………………………………………………………… 116 3.2.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về biên giới quốc gia…………………. 119 3.2.5. Nâng cao năng lực về quản lý biên giới……………………………………………………. 123 3.2.6. Đầu tư phát triển kinh tế văn hoá xã hội kết hợp với đảm bảo an ninh 124 biên giới, trật tự, an toàn xã hội tại các khu vực biên giới, cửa khẩu ………………. 3.2.7. Tổ chức tuyên truyền giáo dục, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức pháp luật về biên giới quốc gia………………………………………………………………………. 126 Kết luận…………………………………………………………………………………………………………………….. 127 KẾT LUẬN CHUNG……………………………………………………………………………………………….. 128
- PHỤ LỤC………………………………………………………………………………………………………………… 130
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Với mỗi quốc gia, biên giới, lãnh thổ là vấn đề vô cùng thiêng liêng, nhạy cảm. Lịch sử đã chứng minh rằng tranh chấp, xâm chiếm lãnh thổ, xung đột biên giới là nguyên nhân trực tiếp của biết bao cuộc chiến tranh lớn nhỏ giữa các dân tộc, các quốc gia. Luận điểm đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến tận bây giờ, khi loài người bước sang thế kỷ XXI với cuộc chiến tranh Kosovo, tranh chấp Palestin - Ixrael đẫm máu. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là nội dung cơ bản của Luật quốc tế hiện đại bởi tính chất đặc biệt quan trọng của nó. Lãnh thổ, biên giới gắn liền với những lợi ích về chính trị - kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia, là cơ sở vật chất cho quốc gia tồn tại và phát triển. Nó chính là phạm vi, giới hạn đánh dấu sự kết thúc chủ quyền của một quốc gia này và là sự bắt đầu chủ quyền của một quốc gia khác. Có thể nói rằng, an ninh và ổn định của các đường biên giới quốc gia là điều kiện cho hoà bình quốc tế. Ở đây có sự trùng hợp giữa lợi ích riêng của một quốc gia với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Không chỉ một quốc gia được hưởng lợi với một đường biên giới ổn định mà nhờ đó cả cộng đồng quốc tế cũng được hưởng lợi. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu ho á, biên giới quốc gia còn là tiền đề trong các quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ khác nhau. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa đó, xây dựng đường biên giới quốc gia hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài là yếu tố tiên quyết cho sự ổn định, hưng thịnh và phát triển của một quốc gia trên trường thế giới. Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có lịch sử quan hệ lâu đời, có chung đường biên giới trên đất liền, trên biển và trên không. Đường biên giới trên đất liền giữa hai nước dài khoảng 1.137 km. Hai nước đều có các vấn đề biên giới lãnh thổ do lịch sử để lại. Sau khi hoàn toàn độc lập, Việt Nam và Campuchia đã cùng nhau đưa vấn đề biên giới ra nhiều diễn đàn trao đổi, thảo luận, nhằm thống nhất một đường biên giới chung ổn định lâu dài. Do những điều kiện khách quan và chủ quan tác động, mãi đến năm 1985, Việt Nam và Campuchia mới ký kết được 1
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia. Tuy nhiên, đường biên giới dù đã được hoạch định, nhưng quá trình phân giới cắm mốc chưa hoàn thành nên vẫn xảy ra các tranh chấp trong quản lý thực tế, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ biên giới giữa hai nước. Những năm gần đây, các đảng phái đối lập của Campuchia đã lợi dụng vấn đề biên giới như một con bài chính trị giành lợi thế trong tranh cử, đòi xoá bỏ Hiệp ước hoạch định biên giới đã ký kết vì cho rằng nó gây bất lợi cho phía Campuchia về lãnh thổ. Campuchia vẫn tiếp tục đưa ra các yêu sách về hoạch định biên giới vượt ra ngoài khuôn khổ Hiệp ước hoạch định. Điều đó đã đẩy tranh chấp biên giới thành vấn đề nổi cộm trong quan hệ hai nước. Xây dựng một đường biên giới thực sự hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài, hơn bao giờ hết là yêu cầu cấp thiết trong quá trình cải thiện quan hệ giữa hai nước. Vì lý do trên, việc nghiên cứu, làm rõ nội dung, hiệu lực, ý nghĩa của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985, những tồn tại về biên giới giữa hai nước cần đàm phán, giải quyết dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế thực sự là cần thiết. Điều đó góp phần thực hiện đầy đủ Hiệp ước, thúc đẩy quá trình xây dựng một đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài, thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là mong muốn sớm hoàn thành một “vành đai lãnh thổ” rõ ràng và ổn định để tăng cường bảo vệ tổ quốc và tập trung vào phát triển kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài . Đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu, có hệ thống về biên giới Việt Nam - Campuchia dưới góc độ luật học, lịch sử - chính trị, ngôn ngữ học và văn minh học: phía Campuchia có Luận án tiến sĩ luật của Sarin Chhak về “Các đường biên giới của Campuchia” (Ban biên giới Bộ Ngoại giao dịch năm 2001- Tài liệu tham khảo)…; công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài có Luận án tiến sĩ ngành ngôn ngữ, văn học và văn minh của Raoul Marc Jennar về “Các đường biên giới của nước Campuchia cận đại” (Ban biên giới Bộ Ngoại giao dịch năm 2001 - Tài liệu tham khảo), Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của Michel Blanchard về “Việt Nam - Campuchia: một đường biên giới còn tranh cãi”, NXB L,Harmattan, 2
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia 1999 (Ban biên giới Bộ Ngoại giao dịch năm 2001- Tài liệu tham khảo)…; phía Việt Nam có Luận án tiến sĩ ngành Quan hệ đối ngoại của Nguyễn Thị Hảo về “Các quan hệ Khơme - Việt Nam” (Ban biên giới Bộ Ngoại giao dịch năm 2003- Tài liệu tham khảo)... Đặc biệt, có rất nhiều bài nghiên cứu, bài viết đơn lẻ về những vấn đề liên quan đến đường biên giới Việt Nam - Campuchia đăng trên sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu và các bài viết trên chủ yếu tập trung vào những vấn đề chung mang tính khái quát về lịch sử, về tranh chấp biên giới lãnh thổ Việt Nam - Campuchia mà chưa nghiên cứu cụ thể về một giai đoạn có thể nói là quan trọng nhất trong trình tự xác lập đường biên giới trên đất liền giữa hai nước: giai đoạn hoạch định biên giới. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đê tài. - Mục đích: Trên cơ sở xem xét những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật và thực tiễn quốc tế về biên giới quốc gia, quá trình xác lập đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia, luận văn góp phần khẳng định giá trị bền vững của Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985, đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm giải quyết các vấn đề còn tồn tại, hướng tới một đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài giữa hai nước. - Nhiệm vụ: Luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề sau: + Lý luận chung về biên giới quốc gia trong luật pháp quốc tế. + Giá trị pháp lý của Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985. + Thực trạng và các giải pháp nhằm xây dựng một đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài: - Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến hoạch định đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia. - Phạm vi nghiên cứu tập trung vào vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm 3
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia giải quyết những tồn tại và tiến tới xây dựng một đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia hoà bình, hữu nghị, hợp tác, ổn định lâu dài. 5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phép biện chứng duy vật và duy vật lịch sử, các phương pháp tổng hợp, khái quát, phân tích, so sánh, đánh giá, lịch sử… dựa trên các nguồn tư liệu: sách, báo, các bài viết, các đề tài nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước, các giáo trình của các trường Đại học có nội dung liên quan, tài liệu lưu trữ tại Ban Biên giới - Bộ Ngoại giao và Vụ Pháp chế - Bộ Tài nguyên và Môi trường. 6. Những đóng góp mới của đề tài: - Về lý luận: Đề tài góp phần nghiên cứu toàn diện và hệ thống về “Vấn đề Hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia”. Trên cơ sở pháp luật quốc tế và thực tiễn xây dựng đường biên giới giữa hai nước, đề tài làm rõ giá trị pháp lý của Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985, đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết những tồn tại, xây dựng một đường biên giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và ổn định lâu dài. - Về thực tiễn: Đề tài góp phần khẳng định việc hoạch định biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Campuchia hoàn toàn phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế; tiến trình và kết quả hoạch định phù hợp với bối cảnh và quan hệ đương thời Việt Nam - Campuchia; tuy vẫn còn những tồn tại nhưng Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Campuchia năm 1985 có giá trị bền vững, là tiền đề để tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các giải pháp giải quyết dứt điểm vấn đề biên giới giữa hai nước. 7. Kết cấu của đề tài: Luận văn được bố cục gồm: Phần mở đầu, 3 chương và phần kết luận. Chương 1: Lý luận chung về biên giới quốc gia trong luật pháp quốc tế hiện đại. Chương 2: Biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia và Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia, ngày 27/12/1985. 4
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia Chương 3: Thực trạng đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia và giải pháp xây dựng một đường biên giới hoà bình, ổn định lâu dài. Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRONG LUẬT PHÁP QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI 1.1. Khái niệm lãnh thổ và biên giới quốc gia. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Luật quốc tế hiện đại ghi nhận tính bất khả xâm phạm của lãnh thổ, biên giới quốc gia như một trong những nguyên tắc cơ bản xuyên suốt các quan hệ quốc tế. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là hai yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau. Lãnh thổ không phải là vô tận. Không có một lãnh thổ nào lại không có giới hạn dù đó là giới hạn tự nhiên hay giới hạn do con người tạo ra. Biên giới là giới hạn đán h dấu sự kết thúc về mặt không gian vật chất của một lãnh thổ cụ thể. Biên giới là một trong các đặc trưng của lãnh thổ. Lãnh thổ và biên giới quốc gia là một phạm trù lịch sử, là hệ quả tất yếu của xã hội loài người khi xuất hiện nhà nước và pháp luật. Lê nin đã chỉ rõ: “nếu không có nhà nước thì không có vấn đề biên giới của nhà nước”[52,29]. Do vậy, cùng với sự phát triển của lịch sử, khái niệm lãnh thổ và biên giới quốc gia ngày càng phát triển và hoàn thiện. 1.1.1. Khái niệm lãnh thổ quốc gia. Lãnh thổ là một thực thể cụ thể. Lãnh thổ có trước quốc gia, là nguồn gốc của quốc gia [30,15]. Gắn liền với sự ra đời và tồn tại của quốc gia, lãnh thổ là một trong những bộ phận cấu thành không thể thiếu được của bất kỳ quốc gia nào. Lãnh thổ còn có ý nghĩa đối với việc tồn tại và duy trì một ranh giới quyền lực nhà nước 5
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia trong một cộng đồng dân cư nhất định. “Lãnh thổ xác định ngay bản thể quốc gia”, điều đó được khẳng định trong Điều 1, Công ước Motevideo ngày 26/12/1933 về các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia: “Quốc gia với tư cách là một thực thể của Luật quốc tế phải có được một phẩm chất như sau: (a) dân cư thường trú, (b) một lãnh thổ xác định, (c) một nhà nước và, (d) năng lực xúc tiến quan hệ với các quốc gia khác”. Quốc gia không thể tồn tại nếu không có lãnh thổ. Trong tập quán quốc tế có một nguyên tắc xác định rõ: nếu mất hoàn toàn lãnh thổ, quốc gia sẽ không tồn tại trên thực tế. Luật quốc tế không phân biệt kích thước lãnh thổ cần thiết tạo nên một quốc gia. Có các quốc gia lớn như một lục địa (Ấn Độ, Mỹ) nhưng cũng có quốc gia rất nhỏ (Fiji, Malta). Luật quốc tế không quy định lãnh thổ phải cấu thành từ những yếu tố gì. Một lãnh thổ có thể từ rất nhiều đảo (Philippin, Indonesia), cũng có thể từ lãnh thổ đất liền và đảo (Việt Nam), cũng có thể từ lãnh thổ đất liền không có biển và đảo (Lào). Luật quốc tế chỉ định hình lãnh thổ của một quốc gia không chỉ giới hạn trong lãnh thổ lục địa mà còn có lãnh thổ biển (nội thuỷ và lãnh h ải) và vùng trời quốc gia. Luật quốc tế cũng không đòi hỏi lãnh thổ phải được xác định rõ ràng và quốc gia phải có một biên giới xác định, không tranh chấp thì quốc gia đó mới tồn tại. Một quốc gia vẫn có thể được công nhận là một chủ thể của Luật quốc tế dù đang có tranh chấp về biên giới lãnh thổ với quốc gia khác. Lãnh thổ là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng La tinh “Terra” có nghĩa là “đất đai”, Trái Đất. Trong khoa học Luật quốc tế, các học giả đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về lãnh thổ: Có những định nghĩa nhấn mạnh tới chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ - là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của Luật quốc tế hiện đại: “Lãnh thổ là một phần bề mặt trái đất, trong đó có một hệ thống các quy tắc pháp lý có thể áp dụng và thực hiện” [42,91]; “Lãnh thổ là một phần của Trái Đất trong đó chủ quyền của quốc gia được thực hiện” [6]. Có những định nghĩa bên cạnh sự nhấn mạnh chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ còn đề cập đến cấu thành của lãnh thổ: “Lãnh thổ quốc gia là một phần của Trái Đất, bao gồ m vùng đất, vùng nước, vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt hoặc tuyệt đối của 6
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia một quốc gia” [3]; “Lãnh thổ quốc gia được hiểu là một phần của Trái Đất, bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời trên chúng và lòng đất dưới chúng thuộc về một quốc gia nhất định. Trong phạm vi này quốc gia thực hiện chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của mình” [2]. Theo khái niệm thông thường nhất, lãnh thổ quốc gia là một phần của Trái Đất, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng nước nội địa, vùng nội thuỷ, lãnh hải, vùng nước quần đảo và vùng trời bên trên chúng cũng như lòng đất dưới chúng. Ngoài ra, quốc gia (nhất là quốc gia ven biển) còn có các lãnh thổ đặc biệt với các quy chế pháp lý đặc biệt như lãnh thổ mượn hay nhượng lại có thời hạn, eo biển quốc tế, kênh đào quốc tế [7]… Với vị trí địa lý của mình, phù hợp với Luật pháp quốc tế, Điều 1, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCN Việt Nam), năm 1992 quy định: “Nước CHXHCN Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, các hải đảo, vùng biển và vùng trời”[13,13]. Chủ quyền của quốc gia đối với lãnh thổ của mình là hoàn toàn, riêng biệt và đầy đủ. Luật quốc tế công nhận cho quốc gia quyền tối cao đối với lãnh thổ. Lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm dựa trên quy chế pháp lý về lãnh thổ quốc gia do quốc gia tự xác định, phù hợp với Luật pháp quốc tế. Điều 13, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Mọi âm mưu và hành động chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc… đều bị nghiêm trị theo pháp luật”. Và tại Điều 14: “Nước CHXHCN Việt Nam thực hiện chính sách hoà bình, hữu nghị mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới… trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi…”. 1.1.2. Khái niệm biên giới quốc gia: 1.1.2.1. Lịch sử khái niệm biên giới quốc gia. Khái niệm “biên giới quốc gia” có một lịch sử hình thành lâu dài. Trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ, con người sử dụng đất đai như đối với sở hữu của chính 7
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia mình. Họ chỉ biết đến từng khu rừng, từng đồng cỏ nơi bộ lạc của họ tạm thời dừng chân, sinh sống mà chưa hề biết đến khái niệm quốc gia và tất nhiên chưa hình thành khái niệm đường biên giới quốc gia. Đất đai và các điều kiện tự nhiên khác đều biểu hiện tính vô giới hạn ban đầu của chúng [43]. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, thay vào đó là chế độ chiếm hữu nô lệ với sự ra đời của Nhà nước. Những quốc gia dần dần hình thành và phát triển trên một khoảng đất riêng biệt, có cư dân sinh sống. Do nhiều nguyên nhân khác nhau như: lực lượng sản xuất nhỏ bé, bộ máy nhà nước còn đơn giản, phương tiện giao thông chưa phát triển… nên ban đầu phạm vi quyền lực của một nhà nước chỉ bao quát trong một lãnh thổ hẹp. Cùng với sự phát triển của mình, giai cấp chủ nô bắt đầu tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược, bành trướng lãnh thổ. Vấn đề biên giới, bảo vệ biên giới bắt đầu xuất hiện. Tuy nhiên, lúc này biên giới chưa có đường nét rõ rệt. Các quốc gia chưa có sự tiếp giáp trực tiếp về lãnh thổ mà nằm đệm giữa chúng thường là những bộ phận đất đai rộng lớn không rõ thuộc về ai. Biên giới mới chỉ tồn tại bằng các thuật ngữ “miền biên cương”, “biên ải”, “biên thuỳ” như các vùng sa mạc, núi cao, rừng thẳm, đầm lầy, các vùng lãnh thổ có vị trí điạ lý hiểm trở hoặc khó khăn cho việc định cư, sinh sống. Như vậy hình thức đầu tiên của biên giới quốc gia chính là “biên giới miền”. Chế độ phong kiến được bắt đầu bằng lịch sử của những cuộc chiến tranh đẫm máu xuất phát từ sự thôn tính lãnh thổ của nhau (cuộc chiến tranh một trăm năm của Anh và Pháp từ 1337 đến 1453, các cuộc thập tự chinh từ cuối thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIII…). Cùng với nó sự phát triển về lực lượng sản xuất, trình độ tổ chức bộ máy Nhà nước, sự phát triển của phương tiện giao thông… khiến cho quyền lực Nhà nước không ngừng được mở rộng. Khái niệm “biên giới miền” tồn tại trong xã hội chiếm hữu nô lệ giờ đây không còn phù hợp nữa. Các vua chúa phong kiến bắt đầu tranh giành nhau cả những vùng đất giáp ranh mà trước đây không ai nhòm ngó tới. “Biên giới miền” dần dần bị xoá bỏ. Các Nhà nước phong kiến đã xác định phạm vi lãnh thổ quốc gia dưới một hình thức khác chính xác hơn. Tuy chưa có một cái tên cụ thể cũng như một định nghĩa chính xác, nhưng khái 8
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia niệm đường biên giới đã chính thức xuất hiện vào thời gian này. Nhiều ý kiến cho rằng đường biên giới đầu tiên được xác định trên thế giới là đường biên giới giữa Hy Lạp với một số nước láng giềng (như với Pêlêpônếch và At-tix), được đánh dấu bằng một số cột mốc biên giới vào khoảng thế kỷ II. Các vương triều phong kiến đã bắt đầu giải quyết các tranh chấp biên giới thông qua thương lượng và ký kết những điều ước quốc tế. Điều ước về hoạch định biên giới giữa Pháp và Vương quốc Tây Ban Nha về dãy Pia-rê-nê năm 1659 được coi là điều ước đầu tiên về biên giới quốc gia. Tuy nhiên, hầu hết các điều ước về biên giới quốc gia trong thời kỳ này không ghi nhận đường biên giới một cách cụ thể, chính xác và không có mốc giới trên thực địa. Vua chúa phong kiến còn coi đất đai, lãnh thổ là tài sản riêng, được định đoạt và xác định bằng các hình thức “cắt đất cầu hôn”, “phong đất phong tước” hay làm vật trao đổi, mua bán (ở Châu Âu, Hoàng đế Anh lấy Công chúa Bồ Đào Nha nhận được của hồi môn là cảng Tangiê; năm1867 Nga Hoàng đã bán vùng Alasca cho Mỹ với giá 7 triệu USD; năm 1898 Tây Ban Nha bán quần đảo Philippin cho Mỹ lấy 20 triệu USD…) Sang thời kỳ Tư bản chủ nghĩa, với sự phát triển của Tư bản thương nghiệp và nhu cầu thống nhất chủ quyền quốc gia, thành lập các dân tộc rộng lớn đã dẫn đến đòi hỏi phải quy định một cách dứt khoát, rõ ràng biên giới quốc gia. Việc mọi người sống trên cùng một lãnh thổ, có cùng một tư cách pháp lý, theo một phạm vi chính trị và thuế quan duy nhất đã làm cho đường biên giới quốc gia trở thành một chướng ngại vật không chỉ đối với lưu thông mà còn để kiểm soát toàn bộ việc xuất khẩu, nhập khẩu và xuất cảnh, nhập cảnh, chủ quyền quốc gia được tăng cường. Đây là thời kỳ nở rộ và phát triển mạnh mẽ của các tập quán và kỹ năng phân định biên giới. Bên cạch đó việc không ngừng tiến hành các cuộc chiến tranh xâm lược để tiếp tục mở rộng lãnh thổ của giai cấp tư sản đã làm cho biên giới c ủa nhiều quốc gia biến động. Tính chất vấn đề biên giới vốn đã không đơn giản thời kỳ này càng trở nên phức tạp. Thực tế xảy ra một số trường hợp bộ phận lãnh thổ của quốc gia này nằm lọt vào bên trong lãnh thổ của quốc gia khác (hai nước Xoa-di-len và Le-xô-thô đều nằm gọn giữa lãnh thổ Nam Phi); hoặc có những lãnh thổ không 9
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia thuộc chủ quyền của một nhà nước mà của nhiều nhà nước theo quy chế cộng đồng lãnh thổ (miền Morơ-xmét từ 1815 đến 1919 cùng thuộc Bỉ và Phổ) hay theo quy chế cộng đồng uỷ trị lãnh thổ (đảo Na-u-ra do ba nước Anh, Úc và New Zealand cùng giữ quyền uỷ trị). Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở đầu cho sự ra đời hàng loạt các nước Xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của các nước độc lập dân tộc non trẻ này chống lại âm mưu bành trướng, xâm lược dưới mọi hình thức của các đế quốc và phản động quốc tế tiếp tục diễn biến gay go, phức tạp. Vấn đề biên giới trở nên quan trọng và cấp thiết. Trong bối cảnh đó, khái niệm đường biên giới quốc gia ngày càng được hoàn chỉnh trước yêu cầu hệ thống đường biên giới của quốc gia phải được xác định rõ ràng, cụ thể hoá bằng các hiệp ước, hiệp định kèm theo bản đồ chi tiết và được đánh dấu trên thực địa bằng hệ thống mốc quốc giới. Một thời kỳ dài, nói tới biên giới quốc gia là chỉ nói tới đường biên giới trên đất liền, nơi lãnh thổ các quốc gia tiếp giáp nhau. Ngày nay, khái niệm này được hình thành một cách đầy đủ, bao gồm đường biên giới trên đất liền, trên không, trên biển và lòng đất. Điều đó cũng có nghĩa rằng, việc xác lập đường biên giới quốc gia là nhằm phân định rõ giới hạn vùng đất, vùng nước, vùng trời bên trên và lòng đất bên dưới thuộc chủ quyền toàn vẹn, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia. Các đường biên giới ngày nay không chỉ được xác định bằng các điều ước quốc tế về biên giới, các quy tắc tập quán mà còn được xác định bằng các phán quyết của toà án khi các bên cùng thoả thuận yêu cầu toà án giải quyết. 1.1.2.2. Một số luận điểm về biên giới quốc gia. Khái niệm biên giới quốc gia nảy sinh để đánh dấu phạm vi chủ quyề n lãnh thổ. Tuy nhiên ngay từ khi mới xuất hiện nó đã bao hàm những vấn đề không đơn giản. Khái niệm đó được đa dạng hoá theo nhu cầu chính trị, tôn giáo, giai cấp… Vì vậy, việc nghiên cứu những luận điểm về biên giới quốc gia đã tồn tại trong lịch sử là cần thiết để có thể rút ra một luận điểm, một khái niệm chính xác nhất: 10
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia + Thuyết “biên giới thiên nhiên”: thuyết này ra đời khoảng thế kỷ XVI, tồn tại trong các nhà nước phong kiến Châu Âu. Lập luận của thuyết biên giới thiên nhiên là: đường biên giới phải được quy định trên những địa hình phức tạp, hiểm trở, rừng rậm, núi cao, biển cả, sông sâu… tạo thành chướng ngại vật thiên nhiên, thuận lợi cho phòng thủ quốc gia; chỉ có hoà bình lâu dài khi một nước có đường biên giới thiên nhiên vững chắc; và để đảm bảo hoà bình, biên giới phải được điều chỉnh theo địa hình thiên nhiên, phải xê dịch đến những nơi thuận lợi cho việc phòng thủ. Điểm giống nhau trong lập luận của các nhà lý luận theo thuyết này là đường biên giới thiên nhiên có lợi cho hoà bình ấy bao giờ cũng lấn vào lãnh thổ nước khác, đem lại cho các nước lớn nhiều diện tích đất đai, lãnh thổ. Thực tiễn hoạt động xâm chiếm lãnh thổ trái phép cũng đã được nguỵ biện dựa vào thuyết này (tháng 8 năm 1870, khi thôn tính hai tỉnh Andaxơ và Lôren của nước Pháp, giới cầm quyền Phổ đã coi đó là một bảo đảm vật chất chống lại sự xâm lăng của nước Pháp). Rõ ràng luận điểm “biên giới thiên nhiên” là sự xuyên tạc và làm lu mờ bản chất của vấn đề biên giới quốc gia. Yếu tố địa lý thiên nhiên là quan trọng cần phải được xem xét và tính đến, nhưng không phải là tất cả để quyết định mọi vấn đề biên giới. + Thuyết “biên giới ngôn ngữ tự nhiên”: đây là một biến tướng của thuyết “biên giới thiên nhiên”. Các học giả theo thuyết này cho rằng, việc phân định biên giới phải dựa vào thứ ngôn ngữ chiếm ưu thế. Năm 1938, phát xít Đức biện hộ cho việc chia cắt Tiệp Khắc và xâm chiếm nước Áo bằng chiêu bài thống nhất mọi dân tộc nói tiếng Đức. Trong những năm từ 1935 đến 1939, phát xít Đức đã kích động những người dân Đức sống ở nước ngoài đòi sáp nhập các lãnh thổ mà họ cư trú với “Mẫu quốc” dưới chiêu bài “thực hiện quyền dân tộc tự quyết”. Trong tác phẩm của mình F.Ăng-ghen đã phê phán mưu đồ của những nước lớn đòi sáp nhập các vùng thuộc nước khác với lý do gần gũi về mặt ngôn ngữ, phong tục và văn minh [44]. Cũng giống như yếu tố địa lý tự nhiên, yếu tố ngôn ngữ không thể được coi là điều kiện tiên quyết để quyết định ranh giới giữa các quốc gia mà chỉ là một yếu tố cần xem xét. Hiện tượng dân sống ở hai bên dọc biên giới, nói cùng một thứ tiếng hoặc 11
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia người dân nước này sống trên lãnh thổ nước khác là phổ biến, đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hoá như ngày nay. + Thuyết “biên giới quốc tế”: Theo thuyết này, mọi tai hoạ của nhân loại đều sinh ra do sự tồn tại của các quốc gia, các dân tộc; nếu các nước xoá bỏ biên giới quốc gia của mình và sáp nhập vào các nước lớn thành một quốc gia tập đoàn hùng mạnh thì trên thế giới không còn nước mạnh, nước yếu, sẽ không còn nguy cơ xâm lược nữa; quyền dân tộc tự quyết của mỗi nước đã gây ra các tranh chấp trên thế giới vì nếu mỗi dân tộc có một biên giới tự chủ họ sẽ xung đột, va chạm lẫn nhau; phải có một nước lớn đứng ra xoá bỏ mọi biên giới quốc gia thì mọi việc sẽ ổn thoả. Thực chất của luận thuyết cũng không có gì mới mẻ ngoài việc nhằm thủ tiêu chủ quyền quốc gia của các nước nhỏ, một chướng ngại vật đối với chủ nghĩa đế quốc trong việc thực hiện ý tưởng bá chủ thế giới. + Thuyết “biên giới chiến lược không gian ba mặt”: Ra đời những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, luận thuyết này cho rằng biên giới quốc gia có hai khái niệm: biên giới địa lý và biên giới chiến lược. “Biên giới địa lý” đơn thuần là ranh giới, phạm vi đúng như nước sở tại có, kể cả phần đất liền, phần biển cũng như lòng đất và không gian tương ứng. Từ Quang Dụ viết: “biên giới địa lý thông thường là nói tới ranh giới phạm vi lãnh thổ, lãnh hải và phạm vi không gian tương ứng với chúng”. “Biên giới chiến lược” là phạm vi không gian có liên quan đến lợi ích quốc gia mà lực lượng quân sự của một nước có thể khống chế trên thực tế. Biên giới chiến lược thay đổi tuỳ theo sự biến đổi sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Tuy không thể thấy được một cách rõ ràng như biên giới địa lý trong các tuyên bố, chính sách, văn kiện ngoại giao và bản đồ địa lý quốc gia, nhưng nó là lĩnh vực quan trọng của cạnh tranh khách quan tồn tại. Biên giới chiến lược quyết định không gian sinh tồn của một quốc gia và một dân tộc (báo giải phóng quân Trung Quốc, số tháng 4/1987). Rõ ràng, theo thuyết này, phạm vi lãnh thổ quốc gia phụ thuộc vào lực lượng quân sự, sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Điều đó cũng không nằm 12
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia ngoài mục đích ủng hộ cho âm mưu “cá lớn nuốt cá bé”. Khi đường biên giới chiến lược trở thành đường biên giới địa lý mới thì cùng với sự phát triển sức mạnh tổ ng hợp của một quốc gia, một đường biên giới chiến lược khác lại được đặt ra… và cứ thế leo thang mãi. + Gần đây trong khoa học pháp lý xuất hiện khái niệm “biên giới mềm”: Trong cuốn “Cuộc chiến tranh giành giật biên giới mềm” [45], Thôi Húc Thần đưa ra quan điểm: Trung Quốc phải giữ biên giới sinh tồn của mình, nghĩa là làm cho biên giới sức mạnh của mình mạnh hơn biên giới địa lý, giành được biên giới mềm để tiến hành chiến tranh mềm, không đánh mà thắng. Chiến tranh mềm là lợi dụng ưu thế kinh tế, khoa học, kỹ thuật nhằm vào lúc đối phương gặp khó khăn, “nhẹ nhàng” xâm nhập biên giới đối phương, rồi theo phương thức vết dầu loang, mở rộng biên giới của mình. Đồng thời, bằng mọi cách làm cho nội bộ đối phương phải thay đổi, bắt đối phương phải dựa vào mình, lặng lẽ biến nước người thành “thuộc địa kinh tế”, “thuộc địa tin tức”, “thuộc địa văn hoá”, “thuộc địa môi trường” của mình, nhằm thật sự đạt mục đích không đánh mà khuất phục được người. Rõ ràng, trong tất cả những luận thuyết trên, dù mang màu sắc và ra đời ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng đều nhằm thực hiện âm mưu bành trướng thế giới, xâm chiếm lãnh thổ nước khác. Khoa học pháp lý tiến bộ lại có quan điểm khác hẳn với các luận thuyết trên khi ghi nhận nguyên tắc đường biên giới quốc gia là bất khả xâm phạm và xem xét cơ sở của việc xác định biên giới quốc gia phải dựa trên quyền dân tộc tự quyết mà vẫn không bỏ qua những yếu tố chính trị, xã hội, địa lý, lịch sử... Xuất phát từ quan điểm đúng đắn đó, các học giả, nhà nghiên cứu, luật gia đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về biên giới quốc gia. Theo Oppenheim: “biên giới lãnh thổ là một đường tưởng tượng trên bề mặt Trái Đất phân chia lãnh thổ quốc gia này với lãnh thổ quốc gia khác hoặc với lãnh thổ vô chủ hay biển cả” [75,312]. Định nghĩa này không đầy đủ vì rõ ràng phạm vi chủ quyền của một quốc gia không chỉ trên bề mặt Trái Đất mà nó còn bao gồm cả lòng đất và vùng trời. Một số định nghĩa mang tính khái quát hơn: theo giáo sư Raussea trong cuốn Từ 13
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia điển thuật ngữ pháp luật quốc tế, biên giới là “đường phân định nơi bắt đầu và nơi kết thúc của lãnh thổ hai quốc gia láng giềng”; trong Điều 1, Luật của Liên bang Xô Viết cũ về biên giới quốc gia định nghĩa: Biên giới quốc gia Liên Xô là một đường và mặt phẳng thẳng đứng đi qua đường đó xác định giới hạn của lãnh thổ Liên Xô trên đất liền, vùng nước, vùng trời và lòng đất”; Từ điển bách khoa Anh gọi biên giới là “một vật bất kỳ dùng để chỉ rõ giới hạn hoặc ranh giới [46,1 -2]. Năm 1978, trong vụ thềm lục địa biển Egeé, Toà án quốc tế định nghiã: biên giới quốc gia là một đường chính xác, nơi gặp nhau của các không gian, tại đó quyền lực và quyền chủ quyền tương ứng được thực hiện [53,63]. Theo một số giáo trình và tài liệu pháp lý về pháp luật quốc tế của nước ta, “biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ của quốc gia này với lãnh thổ của quốc gia khác hoặc với các vùng thuộc quyền chủ quyền của quốc gia trên biển” [4,152]; hay “biên giới quốc gia là hàng rào pháp lý được vạch theo tâm trái đất qua cột mốc quốc giới giới hạn vùng đất, vùng nước, vùng trời và lòng đất thuộc chủ quyền của quốc gia” [8,90]… Tuy nhiên, về phương diện luật pháp, theo cách hiểu chung nhất, biên giới quốc gia chính là giới hạn ngăn cách lãnh thổ của quốc gia này với lãnh thổ của quốc gia khác và ngăn cách lãnh hải với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của một quốc gia [54,1]. Luật biên giới quốc gia nước CHXHCN Việt Nam năm 2003, Điều 1 quy định: “Biên giới quốc gia của nước CHXHCN Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước CHXHCN Việt Nam”. 1.1.2.3. Chức năng của biên giới quốc gia. Việc phân tích các chức năng của đường biên giới là vấn đề khó và trừu tượng. Mỗi quốc gia đều phải có các đường biên giới nhằm thể hiện chủ quyền và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia mình. Biên giới trên đất liền, biên giới trên biển, biên giới lòng đất, biên giới vùng trời, mỗi loại đường biên giới đều đảm nhận 14
- Vấn đề hoạch định đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam – Campuchia một chức năng riêng biệt. Do vậy chỉ có thể sơ bộ khái quát chức năng của đường biên giới một cách chung nhất, đó là chức năng phân cách phạm vi chủ quyền và chức năng hợp tác [10]. + Chức năng phân cách phạm vi chủ quyền: Cùng với chức năng phân chia phạm vi lãnh thổ (không gian đất liền và không gian biển) theo danh nghĩa sở hữu của các quốc gia, đường biên giới đồng thời có chức năng phân cách phạm vi thực hiện chủ quyền giữa các quốc gia. Quyền lực Nhà nước của mỗi quốc gia được thiết lập bên trong phạm vi đường biên giới của mình, trên lãnh thổ quốc gia mình. Đường biên giới xác định giới hạn, phạm vi trật tự pháp luật do nước chủ nhà quy định. Không ai, kể cả cá nhân hay tổ chức có quyền xâm nhập vào lãnh thổ quốc gia khác nếu như không được phép của cơ quan có thẩm quyền của nước đó. Biên giới được coi là “phên dậu” là “vỏ bọc” của mỗi quốc gia. “Vỏ bọc” và “phên dậu” có vững chắc thì chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia mới ổn định và bền vững. Khi một quốc gia giới hạn đường biên giới của họ, thực chất điều mà họ muốn là đặt giới hạn chủ quyền lãnh thổ của chính họ. Có nghĩa là họ muốn giới hạn không gian của quyền thực hiện những chức năng nhà nước của họ bên trong những lãnh thổ riêng, loại trừ ảnh hưởng của các quốc gia khác [46,2 1]. Chỉ khi xác định được một đường biên giới rõ ràng, quốc gia mới có thể thực hiện được toàn vẹn, đầy đủ thẩm quyền quản lý nhà nước (gồm các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp) trên toàn bộ các vùng lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với thực tế tồn tại một Châu Âu không biên giới. Vào thời điểm đầu xây dựng ý tưởng về một liên minh Châu Âu, cho dù hiệp ước Benelux giữa Bỉ, Hà Lan, Luychămbua đã xoá đi biên giới của ba nước này, nhưng tại mỗi quốc gia vẫn có những quy định riêng biệt, thể hiện rõ ràng chủ quyền của mỗi quốc gia. Sau này với Hiệp ước Schengent và Hiệp ước Maastricht, giữa các quốc gia thuộc liên minh Châu Âu không còn biên giới, nhưng trên thực tế đường biên giới đã có trước đây vẫn là giới hạn phân các h việc thực thi chủ quyền của mỗi quốc gia 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn